Đánh giá biến động nguồn lợi thuỷ sản nội địa vùng đồng bằng sông cửu long bằng phương pháp quan trắc sản lượng

Nghề khai thác thủy sản (KTTS) nội địa vùng ĐBSCL hiện không đóng góp nhiều về sản lượng

cho toàn vùng, nhưng lại đóng một vai trò quan trọng đối với người dân địa phương, đặc biệt là với

những người khai thác thủy sản và cư dân vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên, các chương trình nghiên

cứu trước đây về thủy sản ở vùng ĐBSCL chủ yếu tập trung vào giải quyết các vấn đề cụ thể, các

báo cáo tổng hợp số liệu thống kê chuyên ngành thủy sản và hệ thống hóa cơ sở về nghề cá chỉ mới

được tiến hành ở một vài dự án phát triển và còn khá rời rạc. Vì vậy, để đánh giá biến động nguồn

lợi thủy sản nội địa thì việc thiết lập các trạm quan trắc là cách tiếp cận tương đối tốt và khá phù

hợp với điều kiện về nhân lực và tài chính thực hiện. Quan trắc sản lượng khai thác cá hàng ngày

được thực hiện từ 10/2017-10/2018 tại 6 trạm thuộc 4 tỉnh với 2 loại hình ngư cụ lưới bén và lưới ba

màng được sử dụng bởi 18 hộ ngư dân khai thác thủy sản. Kết quả quan trắc sản lượng KTTS của

ngư dân đã xác nhận thành phần cá ở 6 trạm quan trắc là 117 loài cá, thuộc 38 họ và 14 bộ và ba loài

cá mới xuất hiện ngoài tự nhiên so với trước đây gồm cá lau kiếng (Pterygoplichthys disjunctivus),

cá chim trắng (Piaractus brachypomus) và cá rô phi rằn (Oreochromis niloticus). Biến động giảm

sản lượng khai thác đối với ngư cụ lưới ba màng và biến động có xu hướng gia tăng sản lượng khai

thác của 2 nhóm cá nước lợ và nhóm cá biển. Nhiệm vụ quan trắc cần bổ sung việc đo đạc chỉ tiêu

chất lượng nước như độ mặn tại các trạm quan trắc.

Đánh giá biến động nguồn lợi thuỷ sản nội địa vùng đồng bằng sông cửu long bằng phương pháp quan trắc sản lượng trang 1

Trang 1

Đánh giá biến động nguồn lợi thuỷ sản nội địa vùng đồng bằng sông cửu long bằng phương pháp quan trắc sản lượng trang 2

Trang 2

Đánh giá biến động nguồn lợi thuỷ sản nội địa vùng đồng bằng sông cửu long bằng phương pháp quan trắc sản lượng trang 3

Trang 3

Đánh giá biến động nguồn lợi thuỷ sản nội địa vùng đồng bằng sông cửu long bằng phương pháp quan trắc sản lượng trang 4

Trang 4

Đánh giá biến động nguồn lợi thuỷ sản nội địa vùng đồng bằng sông cửu long bằng phương pháp quan trắc sản lượng trang 5

Trang 5

Đánh giá biến động nguồn lợi thuỷ sản nội địa vùng đồng bằng sông cửu long bằng phương pháp quan trắc sản lượng trang 6

Trang 6

Đánh giá biến động nguồn lợi thuỷ sản nội địa vùng đồng bằng sông cửu long bằng phương pháp quan trắc sản lượng trang 7

Trang 7

Đánh giá biến động nguồn lợi thuỷ sản nội địa vùng đồng bằng sông cửu long bằng phương pháp quan trắc sản lượng trang 8

Trang 8

Đánh giá biến động nguồn lợi thuỷ sản nội địa vùng đồng bằng sông cửu long bằng phương pháp quan trắc sản lượng trang 9

Trang 9

Đánh giá biến động nguồn lợi thuỷ sản nội địa vùng đồng bằng sông cửu long bằng phương pháp quan trắc sản lượng trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang minhkhanh 4120
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Đánh giá biến động nguồn lợi thuỷ sản nội địa vùng đồng bằng sông cửu long bằng phương pháp quan trắc sản lượng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá biến động nguồn lợi thuỷ sản nội địa vùng đồng bằng sông cửu long bằng phương pháp quan trắc sản lượng

Đánh giá biến động nguồn lợi thuỷ sản nội địa vùng đồng bằng sông cửu long bằng phương pháp quan trắc sản lượng
76 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
ĐÁNH GIÁ BIẾN ĐỘNG NGUỒN LỢI THUỶ SẢN NỘI ĐỊA 
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG BẰNG PHƯƠNG PHÁP 
QUAN TRẮC SẢN LƯỢNG 
Nguyễn Nguyễn Du1
TÓM TẮT
Nghề khai thác thủy sản (KTTS) nội địa vùng ĐBSCL hiện không đóng góp nhiều về sản lượng 
cho toàn vùng, nhưng lại đóng một vai trò quan trọng đối với người dân địa phương, đặc biệt là với 
những người khai thác thủy sản và cư dân vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên, các chương trình nghiên 
cứu trước đây về thủy sản ở vùng ĐBSCL chủ yếu tập trung vào giải quyết các vấn đề cụ thể, các 
báo cáo tổng hợp số liệu thống kê chuyên ngành thủy sản và hệ thống hóa cơ sở về nghề cá chỉ mới 
được tiến hành ở một vài dự án phát triển và còn khá rời rạc. Vì vậy, để đánh giá biến động nguồn 
lợi thủy sản nội địa thì việc thiết lập các trạm quan trắc là cách tiếp cận tương đối tốt và khá phù 
hợp với điều kiện về nhân lực và tài chính thực hiện. Quan trắc sản lượng khai thác cá hàng ngày 
được thực hiện từ 10/2017-10/2018 tại 6 trạm thuộc 4 tỉnh với 2 loại hình ngư cụ lưới bén và lưới ba 
màng được sử dụng bởi 18 hộ ngư dân khai thác thủy sản. Kết quả quan trắc sản lượng KTTS của 
ngư dân đã xác nhận thành phần cá ở 6 trạm quan trắc là 117 loài cá, thuộc 38 họ và 14 bộ và ba loài 
cá mới xuất hiện ngoài tự nhiên so với trước đây gồm cá lau kiếng (Pterygoplichthys disjunctivus), 
cá chim trắng (Piaractus brachypomus) và cá rô phi rằn (Oreochromis niloticus). Biến động giảm 
sản lượng khai thác đối với ngư cụ lưới ba màng và biến động có xu hướng gia tăng sản lượng khai 
thác của 2 nhóm cá nước lợ và nhóm cá biển. Nhiệm vụ quan trắc cần bổ sung việc đo đạc chỉ tiêu 
chất lượng nước như độ mặn tại các trạm quan trắc.
Từ khóa: nguồn lợi thủy sản, đánh giá tác động, Đồng bằng sông Cửu Long, biến động.
1 Phòng Sinh thái nghề cá và tài nguyên thủy sinh vật, Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản II
* Email: didzu72@yahoo.com
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghề nuôi trồng và khai thác thủy sản nội 
địa đóng một vai trò quan trọng trong việc cung 
cấp thực phẩm và sinh kế cho hàng triệu cư dân 
vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), đặc 
biệt là người dân nghèo phụ thuộc vào nguồn 
lợi này. ĐBSCL được biết đến như là trung tâm 
lớn nhất nước về sản xuất thủy sản (De Silva 
& Nguyen 2011; Phan & ctv., 2009). Chính vì 
vậy, thủy sản ở ĐBSCL đã giữ một vai trò quan 
trọng trong quá trình phát triển của ngành thủy 
sản Việt Nam suốt thời gian qua. 
Nghề khai thác thủy sản (KTTS) nội địa 
vùng ĐBSCL hiện không đóng góp nhiều về sản 
lượng cho toàn vùng, nhưng lại đóng một vai 
trò quan trọng đối với người dân địa phương, 
đặc biệt là với những người nghèo không có 
nghề nào khác ngoài KTTS và cư dân vùng sâu 
vùng xa ở ĐBSCL (Vũ Vi An & Phan Thanh 
Lâm, 2007; Phan & Vu, 2008; Vũ Vi An & ctv., 
2014; Mai & Phan 2015). ĐBSCL là ngư trường 
trọng điểm và tiềm năng của cả nước, sản lượng 
KTTS nước ngọt vùng ĐBSCL chiếm 75% tổng 
sản lượng KTTS nước ngọt của cả nước. Điều 
đó cho thấy, ĐBSCL là một môi trường sống 
quan trọng cho các loài thuỷ sản vì được thiên 
nhiên ưu đãi như ngập lụt hàng năm làm tăng 
diện tích mặt nước (nơi cư trú, sinh trưởng và 
phát triển) và là nơi có nguồn thức ăn dồi dào 
và phong phú (Phan & Vu, 2008; Mai & Phan, 
2015). 
Tầm quan trọng của ngành thủy sản đối với 
kinh tế cả nước ngày càng được khẳng định, 
trong đó nghề cá ĐBSCL giữ một vị trí rất quan 
trọng. Tuy nhiên, các chương trình nghiên cứu 
trước đây về thủy sản ở vùng ĐBSCL chủ yếu 
tập trung vào giải quyết các vấn đề cụ thể, các 
báo cáo tổng hợp số liệu thống kê chuyên ngành 
thủy sản và hệ thống hóa cơ sở về nghề cá chỉ 
mới được tiến hành ở một vài dự án phát triển 
77TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
và còn khá rời rạc. Vì vậy, đánh giá biến động 
nguồn lợi thủy sản nội địa thông qua việc thiết 
lập các trạm quan trắc là cách tiếp cận tương đối 
tốt và khá phù hợp với điều kiện về nhân lực 
và tài chính thực hiện. Qua các nguồn số liệu 
thu thập và các phân tích đánh giá này thì các 
nhà quản lý sẽ tham khảo, xem xét và cân nhắc 
trong việc đề ra các giải pháp khai thác và quản 
lý nguồn lợi cho mục tiêu phát triển bền vững 
ở ĐBSCL. Do vậy, việc tiến hành “Đánh giá 
biến động nguồn lợi thủy sản nước ngọt vùng 
ĐBSCL bằng phương pháp quan trắc sản lượng 
khai thác” là thực sự cần thiết.
II. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu 
Do nghiên cứu này thuộc về lĩnh vực hoạt 
động, vì vậy sử dụng những công cụ và phương 
pháp thu thập số liệu thông qua quan trắc.
2.2. Nội dung và phương pháp nghiên 
cứu
2.2.1. Quan trắc biến động sản lượng 
KTTS nội địa
Thiết kế sổ nhật ký ngư dân để quan trắc 
tất cả những thông tin liên quan như: thời gian 
khai thác, loại ngư cụ sử dụng, nơi khai thác, 
điều kiện thời tiết, chế độ thủy triều, thành phần 
loài, sản lượng khai thác, tiêu thụ sản lượng 
khai thác.
Sáu điểm quan trắc được chọn để quan trắc 
sản lượng khai thác thủy sản, mỗi điểm quan 
trắc chọn 3 ngư dân để theo dõi các thông tin 
về KTTS của ngư dân vùng ĐBSCL (Hình 1). 
Tất cả các điểm quan trắc này cũng là các điểm 
quan trắc của Chương tr ... heo mùa vụ. Số lượng loài dao động từ 34 
- 80 loài. Thành phần loài chiếm ưu thế nhất vào 
các tháng 5, 10, 12 và thấp nhất vào các tháng 
8 và 9. Hình 6
80 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Bên cạnh đó, sản lượng khai thác cũng 
có sự biến động theo mùa vụ, dao động từ 5,47 
– 16,15 kg/tháng. Sản lượng trung bình khai 
thác được cao nhất vào các tháng 10, 11, 12, 
1 và thấp nhất vào các tháng 7, 8 và 9. Hình 7
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
S
ố
 lo
ài
Tháng
Hình 6: Biến động số loài theo mùa vụ
0.00
2.00
4.00
6.00
8.00
10.00
12.00
14.00
16.00
18.00
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
T
ru
n
g
 b
ìn
h
 s
ản
 lư
ợ
n
g
 (
kg
)
Tháng
Hình 7: Biến động trung bình sản lượng khai thác theo mùa vụ
Kết quả quan trắc đã chỉ ra có 4 nhóm cá 
hiện diện trong tất cả các trạm quan trắc. Thành 
phần loài thuộc nhóm cá trắng có số loài chiếm 
ưu thế nhất 79 loài so với các nhóm cá còn lại. 
Tiếp theo là nhóm cá nước lợ có 17 loài, kế đến 
là nhóm cá đen với 8 loài và thấp nhất là nhóm 
cá biển chỉ có 7 loài. Hình 8
81TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Ngoài ra, sản lượng khai thác trung bình 
cũng có sự khác biệt giữa các nhóm cá. Nhóm 
cá trắng vẫn chiếm ưu thế nhất về sản lượng 
trung bình 62,28 kg, kế đến là sản lượng của 
nhóm cá biển, nhóm cá nước lợ và thấp nhất là 
nhóm cá đen lần lượt có sản lượng 54,71 kg; 
42,59 kg và 27,5 kg.
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Cá đen Cá nước lợ Cá biển Cá trắng
S
ố
 lo
ài
Nhóm cá
Hình 8: Biến động thành phần loài giữa các nhóm cá
0.00
10.00
20.00
30.00
40.00
50.00
60.00
70.00
Cá đen Cá nước lợ Cá biển Cá trắng
T
ru
n
g
 b
ìn
h
 s
ản
 lư
ợ
n
g
 (
kg
)
Nhóm cá
Hình 9: Biến động sản lượng trung bình (kg) giữa các nhóm cá
3.2. Biến động thành phần loài và sản 
lượng khai thác qua các năm
Kết quả quan trắc của 6 trạm từ năm 2016 - 
2018 đã chỉ ra rằng có sự hiện diện của 191 loài 
cá, 51 họ và 17 bộ. Trong đó, năm 2017 có số 
bộ, số họ và số loài chiếm ưu thế nhất là 16 bộ, 
49 họ và 177 loài, kế đến năm 2018 là 14 bộ, 38 
họ và 117 loài và thấp nhất là năm 2016 chỉ với 
6 bộ, 17 họ và 40 loài. Biến động cơ cấu thành 
phần loài cá qua các năm không thể hiện tính 
quy luật cụ thể và xu hướng nhất định. Hình 10
82 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Thành phần loài cá có sự khác nhau giữa 
các loại hình thủy vực, vùng sinh thái qua các 
năm quan trắc. Đặc biệt, năm 2017 có thành 
phần loài cá ở các loại hình thủy vực như kênh 
rạch, vùng ven biển, vùng ngập lụt, dòng chính 
và dòng nhánh đều chiếm ưu thế nhất so với các 
năm còn lại. Thành phần loài đa dạng ở vị trí 
thứ 2 vào năm 2018 và thấp nhất vào năm 2016. 
Biến động thành phần loài giữa các loại hình 
thủy vực, vùng sinh thái qua các năm không thể 
hiện được tính quy luật nhất định và xu thế rõ 
ràng. Hình 11
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
200
2016 2017 2018
S
ố
 lư
ợ
n
g
Năm
Số bộ
Số họ
Số loài
Hình 10: Biến động cơ cấu thành phần loài qua các năm
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
2016 2017 2018
S
ố
 lư
ợ
n
g
 lo
ài
Năm
Kênh rạch
Ven biển
Ngập lụt
Dòng chính
Dòng nhánh
Hình 11: Biến động thành phần loài giữa các loại hình thủy vực qua các năm
83TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Tương tự, sự khác nhau về thành phần 
loài cũng được thể hiện qua loại hình ngư cụ 
sử dụng qua các năm. Một điều hiển nhiên thấy 
rằng, thành phần loài ở 2 loại ngư cụ sử dụng 
là lưới bén và lưới ba màng đều chiếm ưu thế ở 
năm 2017, ở các năm khác thì thấp hơn lần lượt 
theo thứ tự năm 2018 và năm 2016. Như vậy, 
biến động thành phần loài giữa các loại ngư cụ sử 
dụng qua các năm cũng không thể hiện được tính 
quy luật nhất định và xu thế rõ ràng. Hình 12.
0
20
40
60
80
100
120
140
2016 2017 2018
S
ố
 lo
ài
Năm
Lưới bén
Lưới ba màng
Hình 12: Biến động thành phần loài giữa các loại ngư cụ sử dụng qua các năm
Tuy nhiên, sản lượng khai thác trung bình 
trên ngư cụ/100m2 lưới có sự biến động giảm 
tương đối rõ ràng ở loại hình ngư cụ lưới 3 
màng qua các năm. Lưới ba màng đánh bắt có 
chiều hướng giảm rõ rệt từ năm 2016 đến năm 
2017 và năm 2018 lần lượt là 7,47kg/100m2 
lưới; 5,35kg/100m2 lưới và 3,31kg/100m2 lưới. 
Hình 13.
0.00
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
8.00
2016 2017 2018
S
ản
 lư
ợ
n
g
 (k
g
)/1
00
m
2 
lư
ớ
i
Năm
Lưới bén
Lưới ba màng
Hình 13: Biến động sản lượng khai thác giữa các loại ngư cụ sử dụng qua các năm
84 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Biến động thành phần loài giữa các nhóm 
cá qua các năm không thể hiện rõ tính quy luật 
nhất định và xu hướng cụ thể. Đa dạng thành 
phần giữa các nhóm cá chiếm ưu thế vào năm 
2017, kế đến là năm 2018 và thấp nhất vào năm 
2016. Hình 14
0
20
40
60
80
100
120
2016 2017 2018
S
ố
 lo
ài
Năm
Cá đen
Cá nước lợ
Cá biển
Cá trắng
Hình 14: Biến động thành phần loài giữa các nhóm cá qua các năm
Một điều đáng quan tâm về biến động sản 
lượng khai thác giữa các nhóm cá qua các năm 
là có sự gia tăng rõ ràng ở 2 nhóm cá nước lợ 
và nhóm cá biển. Nhóm cá nước lợ gia tăng về 
sản lượng khai thác từ 8,33 kg (2016) đến 31,48 
kg (2017) và 42,59 kg (2018). Nhóm cá biển gia 
tăng sản lượng khai thác từ 6,5 kg (2016) đến 
40,75 kg (2017) và 54,71 kg (2018). Trong khi 
đó, các nhóm cá khác biến động sản lượng khai 
thác không theo quy luật nhất định. Điều này 
cho thấy rằng, có sự di cư của nhóm cá nước 
lợ và nhóm cá biển vào vùng nội địa, có thể 
nguyên do sự xâm nhập mặn từ vùng cửa sông 
vào vùng nội địa. Hình 15
0.00
10.00
20.00
30.00
40.00
50.00
60.00
70.00
2016 2017 2018
sả
n
 lư
ợ
n
g
 (k
g
)
Năm
Cá đen
Cá nước lợ
Cá biển
Cá trắng
Hình 15: Biến động sản lượng trung bình (kg) giữa các nhóm cá qua các năm
85TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Đáng chú ý, thành phần loài cá ngoại lai 
chiếm 6,03% tổng số loài và gần 0,55% trong 
tổng số lượng cá thể khai thác của ngư dân, số 
lượng này chủ yếu tập trung ở kênh rạch, dòng 
chính và vùng ngập lụt, trong khi đó ở vùng ven 
biển thì không bắt gặp được cá ngoại lai.
Bảng 1: Số lượng cá thể loài ngoại lai đánh bắt được theo năm
STT Tên khoa học Tên địa phương
Năm
2016 2017 2018
1 Cyprinus carpio Cá chép 201 12
2 Labeo rohita Cá trôi ấn 1 
3 Oreochromis niloticus Cá rô phi rằn 61 1359 469
4 Hypophthalmichthys nobilis Cá mè hoa 7 
5 Hypophthalmichthys molitrix Cá mè trắng 1 1
6 Clarias gariepinus Cá trê phi 9 35 10
7 Piaractus brachypomus Cá chim trắng 1 18 16
8 Ctenopharyngodon idella Cá trắm cỏ 3 1
9
Pterygoplichthys 
disjunctivus Cá lau kiếng 236 1200 1183
10 Oreochromis mossambicus Cá rô phi thường 15 
Tổng 307 2840 1692
Biến động số loài và số lượng cá thể các 
loài cá ngoại lai thể hiện ở Hình 16. Nhìn chung, 
số lượng loài và số lượng cá thể các loài ngoại 
lai có xu hướng tăng trong những năm gần đây. 
Chú ý là trong nghiên cứu này ngư cụ sử dụng 
để quan trắc sản lượng KTTS là lưới bén và lưới 
ba màng, một số loại ngư cụ khác như dỡ chà thì 
sản lượng cá ngoại lai, đặc biệt là cá lau kiếng 
cao hơn rất nhiều.
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
0
2
4
6
8
10
12
2016 2017 2018
Số
 c
á 
th
ể
Số
 lo
ài
Năm
Số loài Số cá thể
Hình 16: Biến động số lượng cá ngoại lai qua các năm
86 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Đáng chú ý đã xác định được 10 loài cá 
ngoại lai trong thời gian nghiên cứu, trong 
đó sản lượng cá lau kiếng (Pterygoplichthys 
disjunctivus) chiếm tỷ lệ cao nhất với gần 1%, 
các loài loại lai khác chiếm tỷ lệ khá thấp dưới 
0,3% (Hình 17).
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
Cá chép Cá trôi 
ấn
Cá rô phi 
rằn
Cá mè
hoa
Cá mè 
trắng
Cá trê
phi
Cá chim 
trắng
Cá trắm 
cỏ
Cá lau 
kiếng
Cá rô phi 
thường
S
ố 
cá
 th
ể
2016 2017 2018
Hình 17: Biến động số lượng cá ngoại lai trong mẻ khai thác
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
4.1. Kết luận
- Quan trắc sản lượng KTTS qua 3 năm của 
ngư dân đã xác nhận thành phần cá ở 6 
trạm quan trắc là 191 loài cá, thuộc 51 họ 
và 15 bộ; trong đó năm 2018 có 117 loài 
cá phân bố ở 5 vùng sinh thái khác nhau, 
số lượng loài cao nhất thuộc về dòng chính 
với 59 loài, kế đến là vùng ngập lụt với 48 
loài, vùng ven biển với 38 loài, kênh, rạch 
với 22 loài, và thấp nhất với 12 loài ở dòng 
nhánh.
- Thành phần loài cá ngoại lai chiếm 6,03% 
tổng số loài và gần 0,55% trong tổng số 
lượng cá thể khai thác của ngư dân, số 
lượng này chủ yếu tập trung ở kênh rạch, 
dòng chính và vùng ngập lụt, trong khi đó 
ở vùng ven biển thì không bắt gặp được cá 
ngoại lai.
- Biến động sản lượng gia tăng ở nhóm cá 
nước lợ và nhóm cá biển. Biến động sản 
lượng khai thác giảm ở loại hình ngư cụ 
lưới ba màng.
4.2. Đề xuất
- Tiếp tục nghiên cứu quan trắc thành phần 
loài và sản lượng khai thác ở các trạm đang 
thực hiện.
- Cần bổ sung thêm đo đạc các chỉ tiêu về 
chất lượng nước tại các trạm quan trắc như 
độ mặn, tốc độ dòng chảy và mức nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tài liệu tiếng Việt
Mai Đình Yên & Nguyễn Văn Trọng, 1995. Định 
loại cá nước ngọt ở miền Nam Việt Nam. Báo cáo 
khoa học, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 
II, Tp. Hồ Chí Minh.
Nguyễn Nguyễn Du, Claire Smallwood, Nguyễn 
Văn Hảo, Nguyễn Xuân Trinh và Nguyễn Trọng 
Tín, 2006. Bộ sưu tập ngư cụ nội địa vùng Đồng 
bằng sông Cửu Long. NXB Lao Động. Tp. Hồ 
Chí Minh.
Phan Thanh Lâm, Đoàn Văn Bảy, Nguyễn Nguyễn 
87TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Du, Nguyễn Tiến Đức, 2015. Đánh giá tác 
động tới KTXH từ việc suy giảm nguồn lợi 
thuỷ sản tại vùng ĐBSCL. Báo cáo trình bày 
tại Hội thảo tổng kết năm 2015 của Chương 
trình Thủy sản, Ủy hội sông Mê kong Việt 
Nam, Tp.Hồ Chí Minh.
Tài liệu tiếng Anh
Nguyen, D.N., Vu, A.V., Nguyen, P.V., 2014. 
Monitoring of fish larvae drift and juvenile in 
the Mekong and Bassac River, Viet Nam. RIA2/
MRC/VNMC. Ho Chi Minh. 
Tran, D.D., K. Shibukawa, P.T. Nguyen, H.P. Ha, 
L.X. Sinh, H.V. Mai and Utsugi (2013) Fishes of 
the Mekong Delta, Vietnam. Can Tho University 
Publishing House, Can Tho.
Vu, A. V., & Phan, L. T., 2008. Inland Fisheries and 
Aquaculture in the Mekong Delta: A Review. FV 
project, Technical report, Research Institute for 
Aquaculture No.2, Ho Chi Minh.
Vu, A.V., & Doan, T.V., 2014. Fish abundance and 
diversity monitoring in the Mekong Delta. RIA2/
MRC/VNMC. Ho Chi Minh. 
88 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
ASSESSMENT OF INLAND FISHERIES RESOURCES BY USING 
CATCH MONITORING METHOD IN THE MEKONG RIVER DELTA 
Nguyen Nguyen Du1*
ABSTRACT
Inland fishing in the Mekong River Delta (MKD) does not contribute a large of fisheries production 
of the whole region, but plays an important role for local people, especially for fishermen and people 
in remote areas. However, the previous research programs on fisheries in the MKD focused mainly 
on solving specific problems, reports fisheries statistics synthesizing and systematize the basis of 
the profession has only been conducted in a few development projects and was quite sporadic. 
Therefore, to assess the fluctuation of inland fisheries resources, the establishment of monitoring 
stations is a relatively good approach and quite suitable conditions for human and financial 
implementations. Daily fisheries catch monitoring was conducted from 10/2017 to 10/2018 at 6 
stations in 4 provinces with 2 types of fishing gears used (gill net and trammel net) by 18 fishing 
households. Results of fisheries monitoring at 6 stations showed that fish composition was with 
117 species, 38 families and 14 orders, and three new species appearing in the wild compared 
to previously included Pterygoplichthys disjunctivus, Piaractus brachypomus and Oreochromis 
niloticus. Variation of fish catch by trammel net is trending decline and however there are trending 
increase fish catch from two groups of estuarine and marine fishes. The duty of fish monitoring in 
next time needs to measure salinity water character at monitor sites.
Keywords: fisheries resources, impact assessment, Mekong River Delta, variation
Người phản biện: ThS. Nguyễn Văn Trọng 
Ngày nhận bài: 05/12/2018
Ngày thông qua phản biện: 25/12/2018
Ngày duyệt đăng: 31/12/2018
1 Fisheries Ecological and Aquatic Resources Division, Research institute for Aquaculture No.2
* Email: didzu72@yahoo.com

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_bien_dong_nguon_loi_thuy_san_noi_dia_vung_dong_bang.pdf