Đặc trưng thi pháp truyện cổ tích lọ nước thần
Lọ nước thần là một truyện cổ tích thần kỳ tiêu biểu, nó thuộc type truyện “Người đẹp/ công chúa
bị bắt cóc” mà gắn liền với nó là môtip người đẹp không cười - nói. Truyện có rất nhiều đặc trưng
thi pháp trong việc xây dựng nhân vật – nhất là chi tiết đặc tả làn da trắng. Bên cạnh đó, dân gian
đã vận dụng nhiều góc nhìn khác nhau để làm cho hình tượng người đẹp hiện lên đủ sức thuyết
phục, cuốn hút. Một mặt, những chi tiết, thủ pháp này thể hiện quan niệm, thị hiếu thẩm mỹ của
người Việt, mặt khác nó cũng cho thấy những nét cách tân, sáng tạo của tác giả dân gian.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Đặc trưng thi pháp truyện cổ tích lọ nước thần", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc trưng thi pháp truyện cổ tích lọ nước thần
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 99 ĐẶC TRƯNG THI PHÁP TRUYỆN CỔ TÍCH LỌ NƯỚC THẦN Đặng Quốc Minh Dương Trường Đại học Văn Hiến duongdqm@vhu.edu.vn Ngày nhận bài: 23/10/2018; Ngày duyệt đăng: 17/12/2018 Tóm tắt Lọ nước thần là một truyện cổ tích thần kỳ tiêu biểu, nó thuộc type truyện “Người đẹp/ công chúa bị bắt cóc” mà gắn liền với nó là môtip người đẹp không cười - nói. Truyện có rất nhiều đặc trưng thi pháp trong việc xây dựng nhân vật – nhất là chi tiết đặc tả làn da trắng. Bên cạnh đó, dân gian đã vận dụng nhiều góc nhìn khác nhau để làm cho hình tượng người đẹp hiện lên đủ sức thuyết phục, cuốn hút. Một mặt, những chi tiết, thủ pháp này thể hiện quan niệm, thị hiếu thẩm mỹ của người Việt, mặt khác nó cũng cho thấy những nét cách tân, sáng tạo của tác giả dân gian. Từ khóa: truyện cổ tích thần kỳ, Lọ nước thần, điểm nhìn, người đẹp không cười - nói. Prosodic specific traits of the fairy tale Divine water jar Abstract The Divine Water Jar is a typical fairy tale, as the same sort as Sleeping Beauty. This fairy tale is associated with the motif of a beauty who does not smile and talk. This fairy tale has many prosodic specifications in constructing the character – especially in the description of the lightening complexion. Besides, there are various points of view from the folk tale perspective used to make the image of beautiful woman convincing and eye-catching. In a view, these details and methods show Vietnamese people’s concepts and taste of beauty. In another view, Vietnamese writers’ innovation and creativity is presented. Keywords: Miraculous fairy tale, Divine Water Jar, Points of view, beautiful woman not smiling – talking. 1. Đặt vấn đề Trong Kho tàng Truyện cổ tích Việt Nam (Nguyễn Đổng Chi, 2015) có một truyện cổ tích thần kỳ được đánh số thứ tự 135, với tên gọi kép là Ai mua hành tôi hay là Lọ nuớc thần (từ đây gọi truyện này là Lọ nước thần). Trong công trình Từ điển type truyện dân gian Việt Nam, type 215 này được gọi theo tên của truyện “Ai mua hành tôi” (Nguyễn Thị Huế, 2012: tr. 286), gồm bốn phần: người vợ xinh đẹp; tình yêu qua bức tranh; người phụ nữ có gương mặt u sầu và kết cục. Đây là type đầu tiên trong nhóm B của truyện cổ tích – Cổ tích thần kỳ. Truyện cổ tích này không thuộc số những truyện cổ tích đặc biệt nổi tiếng hoặc được phổ biến rộng rãi. Theo các 1 Theo chúng tôi, tên type này phải được dịch là “công chúa bị bắt cóc” chứ không phải là “tình yêu khi thấy bức tranh” tác giả, ở Việt Nam dạng này có 05 bản kể, trong đó dân tộc Kinh có 02 bản kể với tên gọi là Ai mua hành tôi, Hoàng đế bán hành; Các bản còn lại là Nàng Kháy (Tày), Chiềc áo lông chim (Nùng), Anh chàng mồ côi (Tày). Cốt truyện này xoay quanh, nhấn mạnh đến hành động, sự kiện người đẹp/ công chúa bị “bắt cóc” hay bị ép uổng và quá trình tìm gặp lại nhau của hai vợ chồng. Do vậy, chúng tôi cho rằng cách đặt tên của Aarne và Thompson “the abducted princess1” (Aarne và Thompson, 1973: tr. 185) là thuyết phục hơn, nó lột tả được nội dung type truyện. Tuy số lượng bản kể không nhiều, mức độ phổ biến không cao nhưng khi tiếp cận, chúng tôi nhận thấy truyện cổ tích Lọ nước thần có một như cách dịch của nhóm tác giả trong Từ điển type truyện dân gian Việt Nam (Nguyễn Thị Huế, 2012: tr. 286). VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 100 số đặc trưng về thi pháp xây dựng nhân vật người đẹp, về thi pháp điểm nhìn hay về môtip chính trong truyện. Do vậy, theo hướng tiếp cận thi pháp học và cùng với việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu phân tích – tổng hợp, nhất là phương pháp nghiên cứu liên ngành, bài viết sẽ nghiên cứu truyện cổ tích này để làm sáng tỏ các vấn đề trên. 2. Tóm tắt cốt truyện Vì là một truyện cổ tích ít người biết đến, và cũng để tiện cho việc nghiên cứu, chúng tôi sẽ tóm tắt cốt truyện này. Ngày xưa có anh chàng sống bằng nghề cày ruộng. Lần nọ, do cứu chim sẻ thoát khỏi nanh vuốt của quạ, anh được chim sẻ trả công cho một lọ nước thần. Một thời gian sau, anh cưới vợ. Vợ anh “cũng con nhà nông, quanh năm chân lấm tay bùn, nên đen đủi, xấu xí2”. Tuy vậy, do tình cờ lấy lọ nước thần “xức khắp tóc tai mình mẩy” nên chị “trở nên xinh xắn trắng trẻo, nhan sắc mỹ miều ít ai sánh kịp”. Nước lan xuống cũng khiến mấy luống hành lớn phổng lên: củ to như bình vôi, dọc dài bằng đòn gánh. Chồng đi cày về nhìn mặt vợ thì “ngẩn cả người cứ tưởng là tiên sa xuống cõi trần”, nếu không có tiếng nói thì cơ hồ anh không nhận ra là vợ mình nữa. Anh “ngắm vợ mãi không chán mắt”. Để khỏi bê trễ công việc, anh thuê thợ vẽ hình vợ để mỗi khi ra đồng, anh treo bức tranh ở bờ ruộng để nhìn “cho thỏa”. Chẳng may, con quạ năm xưa sà xuống quắp lấy bức tranh mang đi thả xuống ở sân rồng (ở cung đình). “Cầm lấy bức truyền thần, vua ngắm nghía mãi không chán mắt, bụng bảo dạ: “Trong ba cung sáu viện của ta đã có nhiều người đẹp nhưng chưa có người đẹp nào đẹp bằng người đàn bà trong bức tranh này”. Lập tức, vua ra lệnh cho quan đại thần và một trăm thị vệ phải tìm cho được người đàn bà như trong tranh và mang về. Để việc tìm tòi có hiệu quả, chúng bày trò mở hội để mọi người đổ về xem, rồi chúng đưa bức tranh ra nói là tình cờ nhặt được và tìm chủ nhân. Chiêu này đã làm anh chàng mắc mưu – 2 Các phần trong ngoặc kép là được trích từ truyện kể “Ai mua hành tôi hay là Lọ nước thần” trong Kho tàng truyện anh nhận mình là chủ nhân của bức tranh. Chúng theo anh về nhà, tìm thấy người đàn bà và đưa kiệu rước nàng về kinh đô mặc cho người chồng than khóc. Bị bắt vào cung, “người đàn bà không cười không nói, áo đẹp không mặc, đầu không chải và không cho một ai đến gần”. Vua buồn phiền vì “mọi thứ dỗ dành, dọa nạt đều không thể làm cho người ngọc nở một nụ cười hoặc nói lên một tiếng” nên hạ lệnh “ai có cách gì làm cho nàng cười nói lên được thì sẽ ban thưởn ... tưởng tượng của lối tư duy không tự giác giữa thực và ảo, giữa người và thần – tiên. Trở lại vấn đề, câu hỏi đặt ra là: tiên là ai? tại sao dân gian hay ví nhan sắc của người đẹp với dung nhan của tiên? Theo Đào Duy Anh tiên là “những người trường sinh bất lão trong thần thoại (Đào Duy Anh, 1992: tr. 264). Đây cũng là những người đã tu luyện đắc đạo, có phép thuật. Trong quan niệm của dân gian, thần tiên là thế giới của những điều được xem là lý tưởng nhất, nơi có những con người tốt – đẹp sinh sống, là cách diễn tả về một sự vật, nơi chốn nào đó hoàn thiện đến mức tuyệt hảo, tuyệt mỹ. Như vậy, chi tiết anh chồng nhìn vợ mà “cứ tưởng là tiên sa xuống cõi trần” cũng đồng nghĩa với việc anh thừa nhận, công nhận nhan sắc của vợ mình rất đẹp, đẹp đến mức tuyệt trần, không ngôn từ nào diễn tả được. Ngày nay, chúng ta vẫn gặp dấu vết của quan niệm này khi nghe những câu ví von kiểu như “đẹp như tiên” hay “đẹp như tiên giáng trần” hay “tuyệt vời như thế giới thần tiên”. Không chỉ có nhan sắc xinh đẹp, nhân vật người đẹp còn được dân gian miêu tả là người đảm đang, biết tề gia nội trợ: “vợ ở nhà quét dọn khắp nơi”; chịu thương chịu khó “quanh năm chân lấm tay bùn”, Và nhất là, cô luôn giữ lòng chung thủy đối với chồng: Ngay cả khi bị bắt vào cung – được sống trong nhung lụa, “người đàn bà không cười không nói, áo đẹp không mặc, đầu không chải và không cho một ai đến gần”. Lúc vua “dỗ dành” cũng không lay, khi vua “dọa nạt” vẫn không suy suyển. Trái lại, “hai vợ chồng rất thương yêu nhau” trong buổi hàn vi cũng như thời phú túc. Như vậy, đúng là truyện cổ tích rất kiệm ngôn trong việc miêu tả chân dung nhưng khi miêu tả, dân gian đã biết chọn những chi tiết đặc tả để diễn tả cái đẹp. Không chỉ có vẻ đẹp ngoại hình, nhân vật người đẹp còn được dân gian mô tả là có vẻ đẹp tâm hồn. Đó là người vợ đảm chữ công, chịu khó và giữ tiết hạnh – thủy chung trong đạo phu thê, Đây cũng chính là hình ảnh của một người phụ nữ truyền thống Việt Nam. 3.2. Môtip người đẹp không cười - nói Trước hết, cần khẳng định rằng motif người đẹp không cười - nói là motif khá quen thuộc trong truyện dân gian Việt Nam và thế giới. Chẳng hạn, truyện cổ tích Nga có câu chuyện Nàng công chúa không cười; còn ở Việt Nam cũng có truyện cổ tích Làm cho công chúa nói được, nội dung kể về một nàng công chúa vì nguyên do nào đó mà bổng nhiên không cười/nói. Vua cha truyền lệnh: ai làm cho công chúa cười/nói được thì sẽ được gả công chúa. Cuối cùng, có một anh hùng/ hoàng tử hay anh Mồ Côi (ở Việt Nam) đã làm được việc này và được cưới công chúa. Trong truyện cổ Andersen cũng có truyện Bầy chim thiên nga. Truyện kể rằng: do lòng ghen ghét, độc ác, mụ hoàng hâu – phù thủy đã biến mười một hoàng tử thành các con thiên nga, và biến nàng công chúa út Li dơ trở nên xấu xí. Theo sự mách bảo của bà tiên, để cứu được các hoàng tử thì nàng công chúa út phải lấy cây tầm ma, dệt thành mười một chiếc áo cho các anh. Trong thời gian này, nàng công chúa tuyệt đối “không được nói được cười”, nếu không sẽ làm ảnh hưởng đến tính mạng của các hoàng tử. Theo thống kê trong truyện Lọ nước thần, từ lúc người đẹp bị bắt vào cung, cụm từ “cười – TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 103 nói” xuất hiện đến 10 lần. Rõ ràng, sự xuất hiện với tần số cao như vậy là có sự chủ ý, có ý đồ của tác giả dân gian. Trong đó 05 lần đầu – tức lúc mà vợ chồng đang sống cảnh chia xa, cụm từ này xuất hiện với nghĩa phủ định “không cười nói”; còn 05 lần sau, nó xuất hiện với nghĩa khẳng định – tích cực. Chúng tôi điểm qua các cung bậc tích cực này như: - Tiếng rao của anh chồng vọng vào cung càng rõ thì “nét mặt vợ anh tự nhiên mỗi lúc mỗi tươi”; - Khi nhìn thấy mặt chồng thì “vợ anh cười lên một tiếng”; - Rồi sau đó là “người đàn bà lần đầu tiên cười nói” hoặc “người đẹp nói cười” hay “vợ anh hàng hành cười ngặt nghẽo”. Trong Từ điển type truyện dân gian Việt Nam, đoạn này được gọi là “người đàn bà có nét mặt u sầu” (Nguyễn Thị Huế, 2012: tr. 287). Tuy nhiên, theo chúng tôi phần này nên được định danh là “người đàn bà không cười/nói” thì chính xác hơn. Tiếng cười là một phản ứng tự nhiên, là hành động thể hiện trạng thái cảm xúc – chủ yếu là tích cực của con người. Đây là là phản ứng chỉ riêng con người mới có. Tiếng cười được phân chia thành tiếng cười sinh lý (bị cù mà cười), tiếng cười bệnh lý (do rối loạn, do bị điên) và tiếng cười tâm lý. Cũng tương tự, tiếng nói (hay ngôn ngữ nói) là phương tiện giao tiếp chỉ riêng có ở con người. Nó là lớp vỏ để truyền tải tư tưởng, để bày tỏ tình cảm của con người, là phương tiện giao tiếp giữa con người với nhau, giữa con người và thế giới thần linh. Nhờ ngôn ngữ mà con người hiểu được nhau, nhận ra nhau. Thông thường, các truyện đều kể rằng nhân vật không cười thì cũng không nói hay nói cách khác hành động cười – nói thường song hành với nhau. Tiếng cười trong truyện Lọ nước thần là tiếng cười tâm lý, nó thể hiện niềm vui, sự hạnh phúc, sự đồng thuận và chấp nhận. Nó biểu hiện sức sống mãnh liệt, tràn đầy. Chính vì vậy mà khi nghe tiếng rao của anh chồng vọng vào thì “nét mặt vợ anh tự nhiên mỗi lúc mỗi tươi” và đến khi nhìn thấy mặt chồng thì “vợ anh cười lên một tiếng”. Rõ ràng, ở đây tiếng cười của người vợ khi tái ngộ chồng là tiếng cười của sự vui mừng, của niềm hạnh phúc. Chúng tôi đặc biệt chú ý chi tiết tiếng cười của vợ chỉ bật lên, thốt ra từ khi nhận ra giọng chồng, từ khi nghe tiếng rao của chồng. Hình ảnh này cho chúng ta thấy được rằng: tiếng cười thực sự có sức mạnh, có ma lực mang lại sự sống, tạo ra sự sống và tái tạo sự sống. Trước đó, truyện kể rằng: Chồng đi cày về nhìn mặt vợ đã trở nên trắng xinh thì “ngẩn cả người”, nếu không có tiếng nói thì cơ hồ anh không nhận ra là vợ mình nữa. Trong ca dao Việt Nam, dân gian cũng cho rằng: “Chim khôn kêu tiếng rảnh rang/ Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”. Như vậy, mỗi người có một tiếng nói/giọng nói riêng. Nói cách khác, tiếng nói/giọng nói gắn với con người, là cách thể hiện tính cách, bản tính của người đó. Vì thế, vợ/chồng nhận ra tiếng nói/ giọng nói của nhau cũng là nhận ra con người của nhau vậy. Chính vì vậy người Trung Quốc thường nói đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Ở thái cực ngược lại, từ khi người vợ bị bắt vào cung – tức từ khi vợ chồng phải chia xa thì tiếng cười cũng im bặt. Tình tiết này chúng ta cũng thấy xuất hiện trong truyện Thạch Sanh: từ lúc Thạch Sanh bị Lý Thông hãm hại, mạo nhận cướp công thì “công chúa buồn thương rầu rĩ và bặt câm, không hé môi nói nửa lời” làm cho việc tổ chức cưới xin của Lý Thông phải đình hoãn. Hành động không cười nói là một cách thể hiện thái độ bất bình, sự không thỏa hiệp trước những hành động bất công, sai trái. Chính vì thế mà nhà vua phải tìm mọi cách chữa trị cả bệnh lý, cả tâm bệnh để người đẹp nói được, để người đẹp chấp nhận, đón nhận nhà vua. Ngoài ý nghĩa vừa nêu, các nhà nghiên cứu còn cho rằng, môtip người đẹp không cười/nói còn phản ánh các nghi lễ mang tính ma thuật. Khi nghiên cứu về tiếng cười nghi lễ trong folklore, Propp đã dẫn ra rất nhiều truyện kể để chứng minh, giải thích rằng: tiếng cười là một biện pháp ma thuật dùng để tạo ra sự sống (Nhiều tác giả, 2003: tr 590 - 594). Trong quan niệm của nhiều tộc người thì thế giới người chết là thế giới không có tiếng cười. Một số truyện VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 104 kể rằng khi người sống du hành vào thế giới kẻ chết họ luôn phải tuân thủ nguyên tắc này: không được mở miệng, không được cười, nếu không sẽ bị phát hiện và trừ khử. Sự cấm kỵ này, một mặt là sự thể hiện “sự nhập vai, nhập thân” của người thực hành nghi lễ, mặt khác có thể xem hành động này như là một hình thức thử thách để nhân vật được nhận phần thưởng. Ở Việt Nam, trước đây trong nghi lễ phồn thực hay trong các phiên chợ “Âm phủ” của một số địa phương ở miền Bắc Việt Nam vẫn có điều cấm kỵ cho những người tham gia là phải làm trong bóng tối và không được nói (Nguyễn Bích Hà, 1998: tr. 83-84). Như vậy, môtip người đẹp không cười – nói mang một ý nghĩa rất quan trọng trong truyện cổ tích Lọ nước thần. Một mặt, môtip này diễn kể, bao hàm hết phần nội dung mang tính kịch tính nhất trong cốt truyện (là phần người đẹp bị bắt cóc và quá trình tìm gặp lại), mặt khác nó còn phản ánh, lưu dấu nhiều nét văn hóa thú vị - tiếng cười ma thuật là một trong số đó. 3.3. Về thi pháp điểm nhìn Điểm nhìn (point of view) không chỉ đơn thuần là thị giác, mà nó còn liên quan đến việc cảm nhận và quan điểm của người kể chuyện. Điều đó có nghĩa là điểm nhìn bao hàm ý nghĩa sâu xa hơn, đó là sự phán đoán về giá trị, đạo đức và nhận xét Truyện kể dân gian được hình thành từ lời kể của các nghệ nhân. Thông thường, người kể cũng đồng thời chính là tác giả của truyện. Điểm nhìn trần thuật chủ yếu từ vai người kể chuyện – tức nhân vật xưng tôi, ngôi thứ nhất số ít. Hay nói cụ thể hơn, người kể là kẻ “biết tuốt mọi sự”. Do vậy, lời nhận định về ngoại hình của người đẹp như “chị ta trở nên xinh xắn trắng trẻo, nhan sắc mỹ miều ít ai sánh kịp” cũng chính là nhận định của chính tác giả - người kể. Đây là lời kể mang tính trung tính, thể hiện sự khách quan nên dễ thuyết phục người nghe. Có khi, tác giả trao quyền kể chuyện cho nhân vật, tức trao điểm nhìn cho nhân vật. Đây 3 Ngoài truyện này, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam còn có truyện Tú Uyên cũng đề cập đến bức tranh. Như vậy, đây là hai truyện hiếm hoi có đề cập đến hội họa của người là một việc làm khôn khéo, nó tránh được sự đơn điệu vì tác phẩm có nhiều người cùng tham gia kể chuyện. Tác giả mượn nhân vật kể chuyện nói lên những điều mà tác giả không tiện nói ra. Cũng có thể mượn lời nhân vật để tăng tính khách quan, tạo nhiều cách đánh giá khác nhau làm tăng cường tính đối thoại dân chủ. Đây là đoạn cảm nhận đó: anh chồng đi làm về “nhìn mặt vợ thì ngẩn cả người cứ tưởng là tiên sa xuống cõi trần”. Bên cạnh đó, truyện còn xuất hiện chi tiết khá đặc biệt: người họa sĩ vẽ “bức truyền thần”. Ở đây, điểm nhìn đã được tác giả trao cho người họa sĩ. Đây là điểm nhìn trực tiếp – một sáng tạo của dân gian. Ngoài ra, trong truyện còn xuất hiện một điểm nhìn khá lạ, và độc đáo, đó là điểm nhìn gián tiếp. Ở đây, dân gian cũng trao cho điểm nhìn cho nhân vật nhưng là để nhìn gián tiếp qua bức tranh3. Tuy chỉ là nhìn qua tranh nhưng do tài năng, họa sĩ vẽ đạt đến mức “truyền thần” nên cái nhìn gián tiếp cũng như trực tiếp. Hay nói cách khác, ở đây điểm nhìn của người họa sĩ với nhân vật anh chồng, ông vua đã đạt đến mức đồng điệu, hòa làm một. Có thế ông vua mới bụng bảo dạ: “Trong ba cung sáu viện của ta đã có nhiều người đẹp nhưng chưa có người nào đẹp bằng người đàn ba trong bức tranh này”. Có thế mỗi khi ra đồng làm việc anh chồng mới “treo bức tranh ở bờ ruộng để nhìn cho thỏa”. Điểm nhìn này một mặt vẫn đảm bảo tính khách quan, mặt khác tạo nên sự lạ hóa, đột biến. Có khi dân gian đã mở rộng điểm nhìn bằng cách đối chiếu, so sánh – thường là so sánh nhất - cực cấp với thế giới xung quanh. Dạng so sánh này cho người đọc biết rằng: đây chính là người đẹp nhất trong làng, trong nước, trong “ba cung sáu viện”. Công thức của dạng so sánh này là “ít ai/khó bề sánh kịp” hay “chưa có người nào đẹp bằng”. Chẳng hạn như: “chị ta trở nên xinh xắn trắng trẻo, nhan sắc mỹ miều ít ai sánh kịp” hay “trong ba cung sáu viện của ta đã có nhiều người đẹp nhưng chưa có người nào đẹp bằng người đàn ba trong bức tranh này”. Việt. Cùng với hội họa, thi phú, âm nhạc cũng đã “thâm nhập” vào truyện cổ tích. Đây là một gợi mở thú vị mà khi có dịp, chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 105 Như vậy, ở đây dân gian đã vận dụng nhiều điểm nhìn khác nhau đề soi chiếu, để làm sáng tỏ hình ảnh cô gái đẹp. Nhờ sự sáng tạo này làm cho hình ảnh cô gái đẹp hiện lên đủ sức thuyết phục người đọc, người nghe. 4. Kết luận Như vậy, Lọ nước thần là một truyện cổ tích thần kỳ tiêu biểu, thuộc type truyện “Người đẹp/công chúa bị bắt cóc” mà gắn liền với nó là motif người đẹp không cười - nói. Truyện có rất nhiều đặc trưng thi pháp trong việc xây dựng nhân vật – nhất là chi tiết đặc tả làn da trắng. Bên cạnh đó, dân gian đã vận dụng nhiều góc nhìn khác nhau để làm cho hình tượng người đẹp hiện lên đủ sức thuyết phục, cuốn hút. Một mặt, những chi tiết, thủ pháp này thể hiện quan niệm, thị hiếu thẩm mỹ của người Việt, mặt khác nó cũng cho thấy những nét cách tân, sáng tạo của tác giả dân gian. Tài liệu tham khảo Đào Duy Anh (1992). Hán Việt tự điển. Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội. Aarne, A. (1910). Verzeichnis der Marchentypen. Thompson, S. (trans.) (1961). The Type of the Folktale: Classification and Bibliography. 588 pp. Nguyễn Đổng Chi (2015). Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (tập 1 - tái bản lần thứ 8). Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Giáo dục. Nguyễn Tấn Đắc (2013). Về type, motif và tiết truyện Tấm Cám. Hà Nội: Nxb Thời Đại. Nguyễn Xuân Đức (2015). Thi pháp truyện cổ tích thần kỳ người Việt. Hà Nội, Nxb Văn hóa Dân tộc. Nguyễn Bích Hà (1998). Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Việt Nam Á. Hà Nội, Nxb Giáo dục. Lương Văn Hồng (2006). Truyện cổ Grimm – toàn tập, tái bản lần thứ 8. Hà Nội, Nxb Văn học. Nguyễn Thị Huế (chủ biên) (2012). Từ điển type truyện dân gian Việt Nam. Hà Nội, Nxb Lao động. Nguyễn Thành Luân (2017). Nhân vật cô gái đẹp trong truyện cổ tích người Việt. Luận văn Thạc sĩ, Thư viện trường Đại học Văn Hiến. Nhiều tác giả dịch thuật (2003). Tuyển tập V. Ia. Propp - tập II, “Tiếng cười nghi lễ trong folklore”. Hà Nội, Nxb Văn hóa dân tộc, tr. 589-654.
File đính kèm:
- dac_trung_thi_phap_truyen_co_tich_lo_nuoc_than.pdf