Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng

 Luận giải đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng đông nam châu

thổ Sông Hồng được thực hiện dựa trên cơ sở phân tích hóa thạch trùng lỗ và hóa thạch bào tử phấn

hoa, với sự tham khảo các kết quả phân tích thạch học lát mỏng, thành phần độ hạt, hóa lý, các mẫu

lấy từ ba lỗ khoan trong vùng nghiên cứu. Ranh giới địa tầng Miocen muộn/Pliocen trong mặt cắt

được xác định bằng sự xuất hiện các trùng lỗ trôi nổi Neogloboquadrina acostaensis;

Globigerinoides ruber, G. bulloides, G. conglobatus. Môi trường trầm tích là bãi triều ven biển vào

Miocen muộn phần sớm; bãi triều và đầm lầy ven biển vào Miocen muộn phần giữa; và bãi triều

đầm lầy ven biển xen kẽ biển nông ven bờ vào Miocen muộn phần muộn. Cổ khí hậu thời kì Miocen

muộn vùng nghiên cứu có chế độ á nhiệt đới nóng ở Miocen muộn phần sớm chuyển sang chế độ

nhiệt đới xen kẽ với các đợt lạnh mát hơn ở Miocen muộn phần giữa và kết thúc ở Miocen muộn

phần muộn với chế độ á nhiệt đới lạnh hơn.

Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng trang 1

Trang 1

Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng trang 2

Trang 2

Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng trang 3

Trang 3

Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng trang 4

Trang 4

Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng trang 5

Trang 5

Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng trang 6

Trang 6

Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng trang 7

Trang 7

Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng trang 8

Trang 8

Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng trang 9

Trang 9

Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 16 trang viethung 6160
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng

Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 
114 
Original Article 
Biostratigraphical characteristics of Late Miocene coaly 
sediments in the Southeastern Red River Delta 
Dinh Van Thuan, Ngo Thi Dao, Mai Thanh Tan , Le Duc Luong, 
Trinh Thi Thanh Ha, Nguyen Van Tao 
Institute of Geological Sciences, Vietnam Academy of Science and Technology, 
84 Chua Lang, Lang Thuong, Dong Da, Hanoi, Vietnam 
Received 20 May 2019 
Revised 15 June 2019; Accepted 20 June 2019 
Abstract: Late Miocene biostratigraphy of coaly sediments in the Southeastern Red River Delta are 
basically interpreted from the analyses of foraminifera, palynology with referencing analyses of 
petrographic thin section, grain-size and physicochemistry, from the samples of 3 boreholes. Late 
Miocene/Pliocene stratigraphical boundary is marked by the appearances of planktonic foraminifera 
as Neogloboquadrina acostaensis; Globigerinoides ruber, G. bulloides, G. conglobatus. 
Sedimentary environments were: tidal flats in the Earlier of Late Miocene; tidal flats and coastal 
marshes in the Middle of Late Miocene; tidal flats and coastal marshes intercalated with neritic 
shallow sea in the Later of Late Miocene. The Late Miocene paleoclimate in the study area was 
characterized by hot subtropical regime in the earlier, changed into tropical intercalated with cooler 
period in the middle and ended with colder subtropical regime in the later. 
Keywords: Biostratigraphy, coaly sediments, Late Miocene, foraminifera, palynology, paleoclimate. 
________ 
 Corresponding author. 
 E-mail address: maithanhtan@igsvn.vast.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4394 
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 
 115 
Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn 
vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng 
Đinh Văn Thuận, Ngô Thị Đào, Mai Thành Tân , Lê Đức Lương, 
Trịnh Thị Thanh Hà, Nguyễn Văn Tạo 
Viện Địa Chất, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
84 Chùa Láng, Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 20 tháng 5 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 15 tháng 6 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 6 năm 2019 
Tóm tắt: Luận giải đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng đông nam châu 
thổ Sông Hồng được thực hiện dựa trên cơ sở phân tích hóa thạch trùng lỗ và hóa thạch bào tử phấn 
hoa, với sự tham khảo các kết quả phân tích thạch học lát mỏng, thành phần độ hạt, hóa lý, các mẫu 
lấy từ ba lỗ khoan trong vùng nghiên cứu. Ranh giới địa tầng Miocen muộn/Pliocen trong mặt cắt 
được xác định bằng sự xuất hiện các trùng lỗ trôi nổi Neogloboquadrina acostaensis; 
Globigerinoides ruber, G. bulloides, G. conglobatus. Môi trường trầm tích là bãi triều ven biển vào 
Miocen muộn phần sớm; bãi triều và đầm lầy ven biển vào Miocen muộn phần giữa; và bãi triều 
đầm lầy ven biển xen kẽ biển nông ven bờ vào Miocen muộn phần muộn. Cổ khí hậu thời kì Miocen 
muộn vùng nghiên cứu có chế độ á nhiệt đới nóng ở Miocen muộn phần sớm chuyển sang chế độ 
nhiệt đới xen kẽ với các đợt lạnh mát hơn ở Miocen muộn phần giữa và kết thúc ở Miocen muộn 
phần muộn với chế độ á nhiệt đới lạnh hơn. 
Từ khóa: Sinh địa tầng, trầm tích chứa than, Miocen muộn, trùng lỗ; bào tử, phấn hoa, cổ khí hậu. 
1. Mở đầu 
Trầm tích Kainozoi, đặc biệt là Neogen ở 
khu vực đồng bằng Sông Hồng chứa nhiều 
khoáng sản quan trọng và cần thiết để phát triển 
kinh tế. Trong số đó đáng kể nhất là than nâu (Vũ 
Xuân Doanh, 1986; Vũ Nhật Thắng, 1995) [1, 2]. 
Kết quả nghiên cứu của tập đoàn Công nghiệp 
Than – Khoáng sản Việt Nam tại vùng châu thổ 
________ 
 Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: maithanhtan@igsvn.vast.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4394 
Sông Hồng đã phần nào xác định được đặc điểm 
trầm tích, môi trường thành tạo than, trữ lượng 
và chất lượng than, điều kiện địa chất, địa chất 
thủy văn, địa chất công trình và khả năng khai 
thác than với trình độ và công nghệ khai thác 
hiện tại trên thế giới [3]. Tuy nhiên, vấn đề 
nghiên cứu địa chất trong đó có địa tầng, vấn đề 
quan trọng đầu tiên quyết định tới các hướng 
nghiên cứu tiếp theo, ở đây đã được đề cập song 
D.V. Thuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 
116 
chưa được quan tâm thích đáng, làm hạn chế ý 
nghĩa của kết quả nghiên cứu thăm dò trong việc 
đánh giá tìm kiếm cho toàn vùng. 
Các nhóm cổ sinh (trùng lỗ, bào tử phấn hoa) 
tuy rất nhỏ nhưng lại dễ được bảo tồn trong trầm 
tích và mỗi nhóm cổ sinh lại mang những nét đặc 
trưng cho điều kiện môi trường khi chúng sinh 
trưởng và phát triển ở đó, mặt khác sự tiến hóa 
của các dạng cổ sinh theo thời gian cũng được 
ghi nhận bằng các giống, loài đặc trưng (Trương 
Cam Bảo, 1980; Nguyễn Ngọc và nnk, 2006) [4, 5]. 
Vì vậy, phương pháp nghiên cứu cổ sinh là một 
trong các phương pháp tin cậy được sử dụng để 
xác định được tuổi địa chất, điều kiện cổ địa lý 
của các tầng trầm tích chứa chúng, và dựa vào đó 
tiến hành phân chia, liên hệ địa tầng tại khu vực 
nghiên cứu (Zubkovits, 1978) [6]. 
2. Khái quát về địa tầng Neogen vùng châu 
thổ Sông Hồng 
Hệ tầng Phong Châu tuổi Miocen sớm (N11 phc) 
đặc trưng bởi sự xen kẽ liên tục giữa những lớp 
cát kết hạt vừa, hạt nhỏ xám trắng, xám lục nhạt 
gắn kết rắn chắc với những lớp cát bột kết phân 
lớp rất mỏng cỡ mm đến cm tạo thành các dạng 
mắt, thấu kính, gợn sóng và được gọi là đá “dạng 
sọc” (Vũ Nhật Thắng, 1995; Đỗ Bạt, 2001; Đỗ 
Bạt và nnk, 2007) [2, 7, 8]. Cát kết có xi măng 
gắn kết chủ yếu là carbonat với hàm lượng cao 
(25%). Khoáng vật phụ gồm nhiều glauconit và 
pyrit. Bề dày hệ tầng tại mặt cắt chuẩn đạt 
1180m. 
Hệ tầng Phủ Cừ tuổi Miocen giữa (N12 pc) 
bao gồm trầm tích có tính chu kỳ rõ rệt với các 
lớp cát kết hạt vừa, bột kết phân lớp mỏng (dạng 
sóng, thấu kính, phân lớp xiên), bột kết, sét kết 
cấu tạo khối chứa nhiều hóa thạch ... t thường tại độ sâu 877,2m với sự nổi 
trội tương đối của yếu tố megathermic (67%) so 
với Mesothermic (33%), không có mặt yếu tố 
Megamesothermic. 
Như vậy, khí hậu trong khoảng độ sâu từ 
1085m đến 360m ở lỗ khoan LK51SH có lẽ lúc 
đầu là khí hậu á nhiệt đới sau đó nóng dần và 
chuyển sang nhiệt đới ở độ sâu 877m. Từ đây khí 
hậu lại lạnh dần chuyển sang á nhiệt đới rồi ôn 
đới ở độ sâu 730m, thể hiện bằng yếu tố 
mesothermic tăng trong khi yếu tố megathermic 
và megamesothermic giảm, thậm chí đến không 
cò yếu tố megathermic. Bắt đầu từ độ sâu 730m, 
khí hậu lại có xu thế ấm dần, đến độ sâu 613,5m 
lại đảo chiều chuyển sang lạnh dần và lạnh nhất 
thuộc khí hậu ôn đới ở độ sâu 432m. Từ đây đến 
hết đoạn khoan thể hiện xu thế khí hậu nóng dần. 
Đánh giá theo tiếp cận đồng tồn tại cho phép 
xác định điều kiện nhiệt độ trung bình năm 
(MAT) và lượng mưa trung bình năm (MAP) 
trong các phức hệ cổ sinh trong lỗ khoan 
KL51SH như sau (Hình 4): 
- Phức hệ 1, Acrostichum – Pinuspollenites, 
độ sâu 1050-1100m, có MAT trong khoảng 4,4 
– 22,2 °C và MAP trong khoảng 373-1724 mm. 
D.V. Thuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 
126 
- Phức hệ 2, Stenochleana- Triporopollenites, 
độ sâu 700 – 1050m, có MAT trong khoảng 
13,5-21,1°C và MAP trong khoảng 1183-1335 mm. 
- Phức hệ 3, Ammonia – Stenochleana – 
Quercoidites, độ sâu 265 – 700m, có MAT trong 
khoảng 15,6 – 22,2 °C và MAP trong khoảng 
1035 – 1724 mm. 
Hình 3. Tỷ lệ các yếu tố sinh thái trong lỗ khoan 
LK51SH. 
Hình 4. Các yếu tố nhiệt độ và lượng mưa trong 
Miocen muộn LK51SH. 
Lỗ khoan LK97SH 
Tỷ lệ các yếu tố sinh thái biến động theo 
chiều sâu ở lỗ khoan LK97SH có phức tạp hơn 
so với lỗ khoan LK51SH (Hình 5). 
- Mẫu lấy ở độ sâu sâu nhất (1050m) là mẫu 
duy nhất có tỷ lệ megathermic vượt trội hẳn 
(67%) so với megamesothermic (0%) và 
mesothermic (33%). Khí hậu ở đây có thể là 
nhiệt đới hoặc á nhiệt đới. Tuy nhiên số lượng 
bào tử phấn ở đây không nhiều nên độ tin cậy 
không cao. 
- Ở các độ sâu 1020m, 885m và 788m đều 
không phát hiện thực vật megathermic, tỷ lệ 
mesothermic thường vượt trội hoặc bằng tỷ lệ 
megamesothermic. Khí hậu thuộc loại ôn đới 
hoặc á nhiệt đới lạnh. Tuy nhiên số lượng bào tử 
phấn ở đây không nhiều nên độ tin cậy còn hạn 
chế. Riêng mẫu ở độ sâu 885m với 19 cá thế 
được xác định thì có 6 cá thể có đặc trưng sinh 
thái có thể dùng đánh giá khí hậu khi kết hợp với 
các kết quả phân tích khác. 
- Ở độ sâu 968m yếu tố megathermic (64%) 
chiếm ưu thế hơn hẳn so với megamesothermic 
(18%) và mesothermic (18%) thể hiện khí hậu 
nhiệt đới, á nhiệt đới nóng. 
- Ở các độ sâu 697m, 590m và 460m, tỷ lệ 
thực vật mesothermic cao nhất (56-60%), tỷ lệ 
megamesothermic và megathermic thấp hơn nhiều. 
Khí hậu ở đây có thể là ôn đới, á nhiệt đới lạnh. 
- Đan xen với các độ sâu nêu trên, ở khoảng độ 
sâu 761m, 654m, tỷ lệ thực vật megamesothermic 
cao, tỷ lệ megathermic thường nhỉnh hơn tỷ lệ 
mesothermic chút ít. Khí hậu ở đây có tính chất 
nóng hơn so với các khoảng liền kề trên và dưới 
nó. Khí hậu có lẽ thuộc loại á nhiệt đới nóng. 
Như vậy, khí hậu trong khoảng độ sâu từ 
1050m đến 360m ở lỗ khoan LK97SH có lẽ lúc 
đầu là khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới nóng, dao 
động chuyển sang á nhiệt đới lạnh, ôn đới ở độ 
sâu 885m. Sau đó khí hậu mang tính chất á nhiệt 
đới với những pha nóng hơn (á nhiệt đới nóng) 
ở khoảng độ sâu 761m, 654m, xen lẽ với những 
pha lạnh hơn (á nhiệt đới lạnh hoặc ôn đới) ở các 
độ sâu 697m, 590m và 460m. 
Đánh giá theo tiếp cận đồng tồn tại cho phép 
xác định điều kiện nhiệt độ trung bình năm 
(MAT) và lượng mưa trung bình năm (MAP) 
trong các phức hệ cổ sinh trong lỗ khoan 
KL97SH như sau (Hình 6): 
D.V. Thuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 
127 
- Phức hệ 1, Stenochleana- Triporopollenites, 
độ sâu 895 - 1050m, có MAT trong khoảng 15,2 
-22,2 °C và MAP trong khoảng 1183-1741 mm. 
- Phức hệ 2, Ammonia-Stenochleana- 
Quercoidites, độ sâu 365-895m, MAT trong khoảng 
15,6-22,2°C và MAP trong khoảng 1183-1724 mm. 
Hình 5. Tỷ lệ các yếu tố sinh thái trong lỗ khoan 
LK97SH. 
Hình 6. Các yếu tố nhiệt độ và lượng mưa trong 
Miocen muộn LK97SH. 
Lỗ khoan LK102SH 
Ở lỗ khoan LK102SH thực vật 
megamesothermic trong đoạn từ 548m đến 
1090m thường chiếm tỷ lệ cao nhất ngoại trừ 
mẫu ở độ sâu 1020m (Hình). Khái quát về thành 
phần các yếu tố sinh thái ở đây như sau: 
Ở độ sâu 1020m, mẫu rất nghèo bào tử phấn, 
chỉ có 5 bào tử phấn được xác định với 1 phấn 
duy nhất (Caryapollenites sp.) thuộc loại thực 
vật mesothermic. Do vậy mẫu này thiếu độ tin 
cậy 
Ở độ sâu 950m không có yếu tố 
mesothermic, chỉ có megamesothermic (67%) và 
megathermic (33%). Như vậy có lẽ khí hậu ở đây 
thuộc loại khí hậu á nhiệt đới nóng. 
Ở độ sâu 760m, tương tự như trên, tỷ lệ 
megamesothermic (50%) cao hơn so với 
megathermic (25%) và mesothermic (25%) nên 
khí hậu thuộc loại á nhiệt đới nóng. 
Ở các độ sâu 800m và 615m, các yếu tố 
megamesothermic (45-50%) cao hơn so với 
mesothermic (25-32%) cao hơn so với 
megathermic (23-25%), khí hậu á nhiệt đới mang 
tính chất lạnh. 
Ở các độ sâu 1090m, 725m, 590 và 485m, 
thường có tỷ lệ megathermic và mesothermic 
xấp xỉ nhau, thể hiện tính chất á nhiệt đới thuần. 
Như vậy khí hậu trong khoảng độ sâu từ 
1090m đến 548m ở lỗ khoan LK102SH có tính 
chất á nhiệt đới với những thời kỳ nóng hơn 
tương đối ở độ sâu 950m, 760m và lạnh hơn 
tương đối ở độ sâu 800m, 615m. 
Đánh giá theo tiếp cận đồng tồn tại cho phép 
xác định điều kiện nhiệt độ trung bình năm 
(MAT) và lượng mưa trung bình năm (MAP) 
trong các phức hệ cổ sinh trong lỗ khoan 
KL102SH như sau (Hình 8): 
- Phức hệ 1, Stenochleana Triporopollenites, 
độ sâu 821,9m-1090m, có MAT trong khoảng 
9.3-22,2 °C và MAP trong khoảng 578-1724 mm 
- Phức hệ 2, Ammonia – Stenochleana – 
Quercoidites, độ sâu 370m – 821,9m, có MAT 
trong khoảng 16,5 – 22,2 °C và MAP trong 
khoảng 1183 – 1724 mm. 
D.V. Thuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 
128 
Hình 7. Tỷ lệ các yếu tố sinh thái trong lỗ khoan 
LK102SH. 
Hình 8. Các yếu tố nhiệt độ và lượng mưa trong 
Miocen muộn LK102SH. 
Từ các phân tích trên có thể nhìn tổng quan 
khí hậu thời kì Miocen muộn vùng nghiên cứu 
có chế độ á nhiệt đới nóng ở Miocen muộn phần 
sớm chuyển sang chế độ nhiệt đới xen kẽ với các 
đợt lạnh mát hơn ở Miocen muộn phần giữa và 
kết thúc ở Miocen muộn phần muộn với chế độ 
á nhiệt đới lạnh hơn. Do số lượng mẫu hạn chế, 
số lượng chi loài thực vật ít nên kết quả đánh giá 
định lượng về cổ nhiệt độ và lượng mưa ở đây 
còn hạn chế. Tuy nhiên có thể thấy, lượng mưa 
có xu thế giảm dần từ >2000mm/năm ở Miocen 
muộn phần sớm - giữa đến <2000mm/năm ở 
Miocen muộn phần muộn. 
5. Kết luận 
Địa tầng trầm tích chứa than vùng Thái Bình 
có tuổi Miocen muộn được xây dựng trên cơ sở 
phân tích cổ sinh của các nhóm hóa thạch bào tử 
phấn hoa và trùng lỗ. 
Sự xuất hiện một số giống loài Trùng lỗ 
nhóm trôi nổi (plankton) như Neogloboquadrina 
acostaensis; Globigerinoides ruber, G. 
bulloides, G. conglobatus, là cơ sở để xác định 
tuổi và ranh giới địa tầng Miocen muộn với 
Pliocen trong các mặt cắt. 
Tập hợp hóa thạch trùng lỗ nhóm bám đáy 
(benthos) và thành phần hệ sinh thái thực vật 
ngập mặn và đầm lầy cho phép xác định môi 
trường trầm tích trong Miocen muộn như sau: 
Thời kỳ Miocen muộn phần sớm, môi trường 
trầm tích là bãi triều ven biển. 
Thời kỳ Miocen muộn phần giữa, môi trường 
trầm tích là bãi triều đầm lầy ven biển. 
Thời kỳ Miocen muộn phần muộn, môi 
trường trầm tích là bãi triều đầm lầy ven biển xen 
kẽ biển nông ven bờ. 
Cổ khí hậu thời kì Miocen muộn vùng 
nghiên cứu có chế độ á nhiệt đới nóng ở Miocen 
muộn phần sớm chuyển sang chế độ nhiệt đới 
xen kẽ với các đợt lạnh mát hơn ở Miocen muộn 
phần giữa và kết thúc ở Miocen muộn phần 
muộn với chế độ á nhiệt đới lạnh hơn. Lượng 
mưa có xu thế giảm dần từ >2000mm/năm ở 
Miocen muộn phần sớm giữa đến < 2000mm/năm 
ở Miocen muộn phần muộn. 
Lời cảm ơn 
Bài báo được hoàn thành trong khuôn khổ đề 
tài cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ 
Việt Nam mã số VAST05.04/17-18. Các mẫu 
phân tích được lấy từ các lỗ khoan do Liên đoàn 
Địa chất Quốc tế thực hiện với sự đồng ý của cơ 
quan chủ quản là Tổng cục Địa chất và Khoáng 
sản Việt Nam. 
D.V. Thuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 
129 
Tài liệu tham khảo 
[1] Vũ Xuân Doanh, Báo cáo Tổng kết địa chất và độ 
chứa than miền võng Hà Nội, Lưu trữ Trung tâm 
Thông tin Lưu trữ Địa chất, Hà Nội, 1986. 
[2] Vũ Nhật Thắng (chủ biên), Báo cáo đo vẽ bản đồ 
địa chất và tìm kiếm khoáng sản tỷ lệ 1/50.000 
nhóm tờ Nam Định – Thái Bình, Lưu trữ Trung 
tâm Thông tin Lưu trữ Địa chất, Hà Nội, 1995. 
[3] Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt 
Nam, Tóm tắt báo cáo kết quả thi công đề án Thăm 
dò than khu Nam Thịnh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái 
Bình, Lưu Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng 
sản Việt Nam, Hà Nội, 2016. 
[4] Trương Cam Bảo, Cổ sinh vật học, NXB Đại học 
và Trung học chuyện nghiệp, Hà Nội, 1980. 
[5] Nguyễn Ngọc, Nguyễn Hữu Cử, Đỗ Bạt, Hóa 
thạch Trùng lỗ (foraminifera) Kainozoi thềm lục 
địa và các vùng lân cận ở Việt Nam, NXB Viện 
Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Hà Nội, 2006. 
[6] M. E. Zubkovits, Phương pháp nghiên cứu cổ sinh 
địa tầng – cơ sở sinh địa tầng, NXB Khoa họa và 
Kỹ thuật, Hà Nội, 1978. (người dịch: Trịnh Dánh, 
Nguyễn Ngọc, Nguyễn Văn Trinh). 
[7] Đỗ Bạt (chủ biên), Định danh và liên kết địa tầng 
trầm tích Đệ Tam thềm lục địa Việt Nam, Báo cáo 
tổng kết nhiệm vụ nghiên cứu khoa học cấp ngành, 
Lưu Viện Dầu khí Việt Nam, Hà Nội, 2001. 
[8] Đỗ Bạt, Nguyễn Địch Dỹ, Phan Huy Quynh, Phạm 
Hồng Quế, Nguyễn Quý Hùng, Đỗ Việt Hiếu, Địa 
tầng các bể trầm tích Kainozoi Việt Nam, Địa chất 
và tài nguyên dầu khí Việt Nam, NXB Khoa học 
Kỹ thuật, Hà Nội, 2007. 
[9] Dương Xuân Hảo (Chủ biên), Hóa thạch đặc trưng 
ở miền Bắc Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ 
thuật, Hà Nội, 1980. 
[10] Mai Văn Lạc, Vũ Anh Thư, Đỗ Thị Bích Thược, 
Phân dị sinh thái và phân dị tiến hóa của 
Foraminifera Vịnh Bắc Bộ, Tạp chí các Khoa học 
về Trái đất 31 (2) (2009) 139-147. 
[11] Nguyễn Ngọc, Nguyễn Xuân Phong, Một số nét 
về hóa thạch Trùng lỗ kích thước lớn và ý nghĩa 
của việc nghiên cứu đối tượng này. Tạp chí Thăm 
dò – Khai thác Dầu khí 5 (2016) 22-28. 
[12] J.A. Cushman, Foraminifera and their 
classification and economic use, Contribution 
from the Cushman Laboratory for Foraminiferal 
Research 4 (1928) 1-401. 
[13] J.A. Cushman, The Foraminifera of the tropical 
Pacific collections of the “Albatross”, 1899-1900. 
Pt.2-Lagenidae to Alveolinellidae. Bull. U.S. Nat. 
Mus., Washington, 161 (1933) 1-79. 
[14] J.P. Debenay, A Guide to 1,000 Foraminifera from 
Southwestern Pacific New Caledonia. IRD 
Editions. Institut de recherche pourle 
développement. Paris: Marseille, Publications 
Scientifiques du Muséum, Muséum national 
d’Histoire naturelle, 2012, pp. 1–378. 
[15] Trần Đình Nhân, Áp dụng phương pháp phân tích 
bào tử phấn hoa vào việc nghiên cứu địa chất ở 
nước ta”, Nội san Địa chất 5 (1962) 22-23. 
[16] G. Erdtman, An Introduction to Pollen Analysis. 
Waltham, Mass. 1943, pp. 1-239. 
[17] G. Erdtman, Pollen Morphology and Plant 
Taxonomy, Angiosperms (An Introduction to 
Palynology. 1), Stockholm, 1952, pp. 1-539. 
[18] Phạm Quang Trung (chủ biên), Các phức hệ bào 
tử phấn hoa trong trầm tích Paleogen bắc bể Sông 
Hồng và vùng ven rìa, mối quan hệ của chúng với 
môi trường trầm tích. Báo cáo nhiệm vụ cấp ngành 
dầu khí, Viện Dầu khí Việt Nam, 1998. 
[19] Đinh Văn Thuận, Các phức hệ bào tử phấn hoa 
trong trầm tích Đệ tứ đồng bằng Nam bộ, ý nghĩa 
địa tầng và cổ địa lý của chúng, Luận án Tiến sĩ 
Địa chất, Đại học Mỏ-Địa chất Hà Nội, Hà Nội, 2005. 
[20] V. Mosbrugger, T. Utescher, The coexistence 
approach-a method for quantitative reconstructions 
of Tertiary terrestrial paleoclimate data using plant 
fossils, Palaeogeography Palaeoclimatology 
Palaeoecology 134 (1997) 61-86. 
[21] J.P. Suc, Origin and evolution of the Mediterranean 
vegetation and climate in the Europe. Macmillan 
Journal Ltd, 1984, pp. 429-435. 
[22] P.B. Tomlinson, The botany of mangroves. Cambridge 
University Press, Cambridge, 1986, pp. 1-413. 
[23] A.M. Ellison, Mangrove restoration: Do we know 
enough?. Restoration ecology, 2000, pp. 142-155. 
[24] Gozalo Jiménez-Moreno, Martin Head, Mathias 
Harzhauser, Early and Middle Miocen 
dinoflagellate cyst stratigraphy of the Central 
Paratethys, Central Europe. The 
Micropaleotological Society, 2005, pp. 113-139. 
[25] Yong Quan, Shuai Wang, Ming Gu, Jun Kuang. 
Field measurement of wind speeds and wind-
induced responses atop the Shanghai world 
financial center under normal climate conditions. 
Hindawi publishing corporation, 2013, pp.1-14. 
[26] W.H. Blow, Late middle Miocene to Recent 
planktonic foraminiferal biostratigraphy. In 
Bronnimann, P.Renz, H.H (eds), Proceedings of 
the First International Conference on Planktonic 
Microfossils, Geneva 1 (1969) 199-422. 
[27] Berggren, Van Couvering, Neogen chronostratigraphy, 
planktonic foraminiferal zonation and the 
radiometric time scale. W.H.O.I., part1, 1974. 
[28] T. Saito, Late Cenozoic planktonic foraminiferal 
datum levels: the present state of knowledge 
toward accomplishing Pan-Pacific correlation. 
Proceed 1 Intern. Cong. pacific Neogene 
strstigraphy, Tokyo, 1976, pp. 61-80. 
[29] G. Bartioli, M. Sarnthein, M. Weineil, H. 
Erenkeuser, D. Garbe-Scheonberg, D. W. Lea, 
Final closure of Panama and the onest of northen 
hemisphere giaciation, Erath and Planetary 
Science Letters 237 (2005) 33-44. 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_sinh_dia_tang_tram_tich_chua_than_miocen_muon_vung.pdf