Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng
Luận giải đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng đông nam châu
thổ Sông Hồng được thực hiện dựa trên cơ sở phân tích hóa thạch trùng lỗ và hóa thạch bào tử phấn
hoa, với sự tham khảo các kết quả phân tích thạch học lát mỏng, thành phần độ hạt, hóa lý, các mẫu
lấy từ ba lỗ khoan trong vùng nghiên cứu. Ranh giới địa tầng Miocen muộn/Pliocen trong mặt cắt
được xác định bằng sự xuất hiện các trùng lỗ trôi nổi Neogloboquadrina acostaensis;
Globigerinoides ruber, G. bulloides, G. conglobatus. Môi trường trầm tích là bãi triều ven biển vào
Miocen muộn phần sớm; bãi triều và đầm lầy ven biển vào Miocen muộn phần giữa; và bãi triều
đầm lầy ven biển xen kẽ biển nông ven bờ vào Miocen muộn phần muộn. Cổ khí hậu thời kì Miocen
muộn vùng nghiên cứu có chế độ á nhiệt đới nóng ở Miocen muộn phần sớm chuyển sang chế độ
nhiệt đới xen kẽ với các đợt lạnh mát hơn ở Miocen muộn phần giữa và kết thúc ở Miocen muộn
phần muộn với chế độ á nhiệt đới lạnh hơn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 114 Original Article Biostratigraphical characteristics of Late Miocene coaly sediments in the Southeastern Red River Delta Dinh Van Thuan, Ngo Thi Dao, Mai Thanh Tan , Le Duc Luong, Trinh Thi Thanh Ha, Nguyen Van Tao Institute of Geological Sciences, Vietnam Academy of Science and Technology, 84 Chua Lang, Lang Thuong, Dong Da, Hanoi, Vietnam Received 20 May 2019 Revised 15 June 2019; Accepted 20 June 2019 Abstract: Late Miocene biostratigraphy of coaly sediments in the Southeastern Red River Delta are basically interpreted from the analyses of foraminifera, palynology with referencing analyses of petrographic thin section, grain-size and physicochemistry, from the samples of 3 boreholes. Late Miocene/Pliocene stratigraphical boundary is marked by the appearances of planktonic foraminifera as Neogloboquadrina acostaensis; Globigerinoides ruber, G. bulloides, G. conglobatus. Sedimentary environments were: tidal flats in the Earlier of Late Miocene; tidal flats and coastal marshes in the Middle of Late Miocene; tidal flats and coastal marshes intercalated with neritic shallow sea in the Later of Late Miocene. The Late Miocene paleoclimate in the study area was characterized by hot subtropical regime in the earlier, changed into tropical intercalated with cooler period in the middle and ended with colder subtropical regime in the later. Keywords: Biostratigraphy, coaly sediments, Late Miocene, foraminifera, palynology, paleoclimate. ________ Corresponding author. E-mail address: maithanhtan@igsvn.vast.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4394 VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 115 Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng Đinh Văn Thuận, Ngô Thị Đào, Mai Thành Tân , Lê Đức Lương, Trịnh Thị Thanh Hà, Nguyễn Văn Tạo Viện Địa Chất, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 84 Chùa Láng, Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 20 tháng 5 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 15 tháng 6 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 6 năm 2019 Tóm tắt: Luận giải đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng đông nam châu thổ Sông Hồng được thực hiện dựa trên cơ sở phân tích hóa thạch trùng lỗ và hóa thạch bào tử phấn hoa, với sự tham khảo các kết quả phân tích thạch học lát mỏng, thành phần độ hạt, hóa lý, các mẫu lấy từ ba lỗ khoan trong vùng nghiên cứu. Ranh giới địa tầng Miocen muộn/Pliocen trong mặt cắt được xác định bằng sự xuất hiện các trùng lỗ trôi nổi Neogloboquadrina acostaensis; Globigerinoides ruber, G. bulloides, G. conglobatus. Môi trường trầm tích là bãi triều ven biển vào Miocen muộn phần sớm; bãi triều và đầm lầy ven biển vào Miocen muộn phần giữa; và bãi triều đầm lầy ven biển xen kẽ biển nông ven bờ vào Miocen muộn phần muộn. Cổ khí hậu thời kì Miocen muộn vùng nghiên cứu có chế độ á nhiệt đới nóng ở Miocen muộn phần sớm chuyển sang chế độ nhiệt đới xen kẽ với các đợt lạnh mát hơn ở Miocen muộn phần giữa và kết thúc ở Miocen muộn phần muộn với chế độ á nhiệt đới lạnh hơn. Từ khóa: Sinh địa tầng, trầm tích chứa than, Miocen muộn, trùng lỗ; bào tử, phấn hoa, cổ khí hậu. 1. Mở đầu Trầm tích Kainozoi, đặc biệt là Neogen ở khu vực đồng bằng Sông Hồng chứa nhiều khoáng sản quan trọng và cần thiết để phát triển kinh tế. Trong số đó đáng kể nhất là than nâu (Vũ Xuân Doanh, 1986; Vũ Nhật Thắng, 1995) [1, 2]. Kết quả nghiên cứu của tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam tại vùng châu thổ ________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: maithanhtan@igsvn.vast.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4394 Sông Hồng đã phần nào xác định được đặc điểm trầm tích, môi trường thành tạo than, trữ lượng và chất lượng than, điều kiện địa chất, địa chất thủy văn, địa chất công trình và khả năng khai thác than với trình độ và công nghệ khai thác hiện tại trên thế giới [3]. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu địa chất trong đó có địa tầng, vấn đề quan trọng đầu tiên quyết định tới các hướng nghiên cứu tiếp theo, ở đây đã được đề cập song D.V. Thuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 116 chưa được quan tâm thích đáng, làm hạn chế ý nghĩa của kết quả nghiên cứu thăm dò trong việc đánh giá tìm kiếm cho toàn vùng. Các nhóm cổ sinh (trùng lỗ, bào tử phấn hoa) tuy rất nhỏ nhưng lại dễ được bảo tồn trong trầm tích và mỗi nhóm cổ sinh lại mang những nét đặc trưng cho điều kiện môi trường khi chúng sinh trưởng và phát triển ở đó, mặt khác sự tiến hóa của các dạng cổ sinh theo thời gian cũng được ghi nhận bằng các giống, loài đặc trưng (Trương Cam Bảo, 1980; Nguyễn Ngọc và nnk, 2006) [4, 5]. Vì vậy, phương pháp nghiên cứu cổ sinh là một trong các phương pháp tin cậy được sử dụng để xác định được tuổi địa chất, điều kiện cổ địa lý của các tầng trầm tích chứa chúng, và dựa vào đó tiến hành phân chia, liên hệ địa tầng tại khu vực nghiên cứu (Zubkovits, 1978) [6]. 2. Khái quát về địa tầng Neogen vùng châu thổ Sông Hồng Hệ tầng Phong Châu tuổi Miocen sớm (N11 phc) đặc trưng bởi sự xen kẽ liên tục giữa những lớp cát kết hạt vừa, hạt nhỏ xám trắng, xám lục nhạt gắn kết rắn chắc với những lớp cát bột kết phân lớp rất mỏng cỡ mm đến cm tạo thành các dạng mắt, thấu kính, gợn sóng và được gọi là đá “dạng sọc” (Vũ Nhật Thắng, 1995; Đỗ Bạt, 2001; Đỗ Bạt và nnk, 2007) [2, 7, 8]. Cát kết có xi măng gắn kết chủ yếu là carbonat với hàm lượng cao (25%). Khoáng vật phụ gồm nhiều glauconit và pyrit. Bề dày hệ tầng tại mặt cắt chuẩn đạt 1180m. Hệ tầng Phủ Cừ tuổi Miocen giữa (N12 pc) bao gồm trầm tích có tính chu kỳ rõ rệt với các lớp cát kết hạt vừa, bột kết phân lớp mỏng (dạng sóng, thấu kính, phân lớp xiên), bột kết, sét kết cấu tạo khối chứa nhiều hóa thạch ... t thường tại độ sâu 877,2m với sự nổi trội tương đối của yếu tố megathermic (67%) so với Mesothermic (33%), không có mặt yếu tố Megamesothermic. Như vậy, khí hậu trong khoảng độ sâu từ 1085m đến 360m ở lỗ khoan LK51SH có lẽ lúc đầu là khí hậu á nhiệt đới sau đó nóng dần và chuyển sang nhiệt đới ở độ sâu 877m. Từ đây khí hậu lại lạnh dần chuyển sang á nhiệt đới rồi ôn đới ở độ sâu 730m, thể hiện bằng yếu tố mesothermic tăng trong khi yếu tố megathermic và megamesothermic giảm, thậm chí đến không cò yếu tố megathermic. Bắt đầu từ độ sâu 730m, khí hậu lại có xu thế ấm dần, đến độ sâu 613,5m lại đảo chiều chuyển sang lạnh dần và lạnh nhất thuộc khí hậu ôn đới ở độ sâu 432m. Từ đây đến hết đoạn khoan thể hiện xu thế khí hậu nóng dần. Đánh giá theo tiếp cận đồng tồn tại cho phép xác định điều kiện nhiệt độ trung bình năm (MAT) và lượng mưa trung bình năm (MAP) trong các phức hệ cổ sinh trong lỗ khoan KL51SH như sau (Hình 4): - Phức hệ 1, Acrostichum – Pinuspollenites, độ sâu 1050-1100m, có MAT trong khoảng 4,4 – 22,2 °C và MAP trong khoảng 373-1724 mm. D.V. Thuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 126 - Phức hệ 2, Stenochleana- Triporopollenites, độ sâu 700 – 1050m, có MAT trong khoảng 13,5-21,1°C và MAP trong khoảng 1183-1335 mm. - Phức hệ 3, Ammonia – Stenochleana – Quercoidites, độ sâu 265 – 700m, có MAT trong khoảng 15,6 – 22,2 °C và MAP trong khoảng 1035 – 1724 mm. Hình 3. Tỷ lệ các yếu tố sinh thái trong lỗ khoan LK51SH. Hình 4. Các yếu tố nhiệt độ và lượng mưa trong Miocen muộn LK51SH. Lỗ khoan LK97SH Tỷ lệ các yếu tố sinh thái biến động theo chiều sâu ở lỗ khoan LK97SH có phức tạp hơn so với lỗ khoan LK51SH (Hình 5). - Mẫu lấy ở độ sâu sâu nhất (1050m) là mẫu duy nhất có tỷ lệ megathermic vượt trội hẳn (67%) so với megamesothermic (0%) và mesothermic (33%). Khí hậu ở đây có thể là nhiệt đới hoặc á nhiệt đới. Tuy nhiên số lượng bào tử phấn ở đây không nhiều nên độ tin cậy không cao. - Ở các độ sâu 1020m, 885m và 788m đều không phát hiện thực vật megathermic, tỷ lệ mesothermic thường vượt trội hoặc bằng tỷ lệ megamesothermic. Khí hậu thuộc loại ôn đới hoặc á nhiệt đới lạnh. Tuy nhiên số lượng bào tử phấn ở đây không nhiều nên độ tin cậy còn hạn chế. Riêng mẫu ở độ sâu 885m với 19 cá thế được xác định thì có 6 cá thể có đặc trưng sinh thái có thể dùng đánh giá khí hậu khi kết hợp với các kết quả phân tích khác. - Ở độ sâu 968m yếu tố megathermic (64%) chiếm ưu thế hơn hẳn so với megamesothermic (18%) và mesothermic (18%) thể hiện khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới nóng. - Ở các độ sâu 697m, 590m và 460m, tỷ lệ thực vật mesothermic cao nhất (56-60%), tỷ lệ megamesothermic và megathermic thấp hơn nhiều. Khí hậu ở đây có thể là ôn đới, á nhiệt đới lạnh. - Đan xen với các độ sâu nêu trên, ở khoảng độ sâu 761m, 654m, tỷ lệ thực vật megamesothermic cao, tỷ lệ megathermic thường nhỉnh hơn tỷ lệ mesothermic chút ít. Khí hậu ở đây có tính chất nóng hơn so với các khoảng liền kề trên và dưới nó. Khí hậu có lẽ thuộc loại á nhiệt đới nóng. Như vậy, khí hậu trong khoảng độ sâu từ 1050m đến 360m ở lỗ khoan LK97SH có lẽ lúc đầu là khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới nóng, dao động chuyển sang á nhiệt đới lạnh, ôn đới ở độ sâu 885m. Sau đó khí hậu mang tính chất á nhiệt đới với những pha nóng hơn (á nhiệt đới nóng) ở khoảng độ sâu 761m, 654m, xen lẽ với những pha lạnh hơn (á nhiệt đới lạnh hoặc ôn đới) ở các độ sâu 697m, 590m và 460m. Đánh giá theo tiếp cận đồng tồn tại cho phép xác định điều kiện nhiệt độ trung bình năm (MAT) và lượng mưa trung bình năm (MAP) trong các phức hệ cổ sinh trong lỗ khoan KL97SH như sau (Hình 6): D.V. Thuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 127 - Phức hệ 1, Stenochleana- Triporopollenites, độ sâu 895 - 1050m, có MAT trong khoảng 15,2 -22,2 °C và MAP trong khoảng 1183-1741 mm. - Phức hệ 2, Ammonia-Stenochleana- Quercoidites, độ sâu 365-895m, MAT trong khoảng 15,6-22,2°C và MAP trong khoảng 1183-1724 mm. Hình 5. Tỷ lệ các yếu tố sinh thái trong lỗ khoan LK97SH. Hình 6. Các yếu tố nhiệt độ và lượng mưa trong Miocen muộn LK97SH. Lỗ khoan LK102SH Ở lỗ khoan LK102SH thực vật megamesothermic trong đoạn từ 548m đến 1090m thường chiếm tỷ lệ cao nhất ngoại trừ mẫu ở độ sâu 1020m (Hình). Khái quát về thành phần các yếu tố sinh thái ở đây như sau: Ở độ sâu 1020m, mẫu rất nghèo bào tử phấn, chỉ có 5 bào tử phấn được xác định với 1 phấn duy nhất (Caryapollenites sp.) thuộc loại thực vật mesothermic. Do vậy mẫu này thiếu độ tin cậy Ở độ sâu 950m không có yếu tố mesothermic, chỉ có megamesothermic (67%) và megathermic (33%). Như vậy có lẽ khí hậu ở đây thuộc loại khí hậu á nhiệt đới nóng. Ở độ sâu 760m, tương tự như trên, tỷ lệ megamesothermic (50%) cao hơn so với megathermic (25%) và mesothermic (25%) nên khí hậu thuộc loại á nhiệt đới nóng. Ở các độ sâu 800m và 615m, các yếu tố megamesothermic (45-50%) cao hơn so với mesothermic (25-32%) cao hơn so với megathermic (23-25%), khí hậu á nhiệt đới mang tính chất lạnh. Ở các độ sâu 1090m, 725m, 590 và 485m, thường có tỷ lệ megathermic và mesothermic xấp xỉ nhau, thể hiện tính chất á nhiệt đới thuần. Như vậy khí hậu trong khoảng độ sâu từ 1090m đến 548m ở lỗ khoan LK102SH có tính chất á nhiệt đới với những thời kỳ nóng hơn tương đối ở độ sâu 950m, 760m và lạnh hơn tương đối ở độ sâu 800m, 615m. Đánh giá theo tiếp cận đồng tồn tại cho phép xác định điều kiện nhiệt độ trung bình năm (MAT) và lượng mưa trung bình năm (MAP) trong các phức hệ cổ sinh trong lỗ khoan KL102SH như sau (Hình 8): - Phức hệ 1, Stenochleana Triporopollenites, độ sâu 821,9m-1090m, có MAT trong khoảng 9.3-22,2 °C và MAP trong khoảng 578-1724 mm - Phức hệ 2, Ammonia – Stenochleana – Quercoidites, độ sâu 370m – 821,9m, có MAT trong khoảng 16,5 – 22,2 °C và MAP trong khoảng 1183 – 1724 mm. D.V. Thuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 128 Hình 7. Tỷ lệ các yếu tố sinh thái trong lỗ khoan LK102SH. Hình 8. Các yếu tố nhiệt độ và lượng mưa trong Miocen muộn LK102SH. Từ các phân tích trên có thể nhìn tổng quan khí hậu thời kì Miocen muộn vùng nghiên cứu có chế độ á nhiệt đới nóng ở Miocen muộn phần sớm chuyển sang chế độ nhiệt đới xen kẽ với các đợt lạnh mát hơn ở Miocen muộn phần giữa và kết thúc ở Miocen muộn phần muộn với chế độ á nhiệt đới lạnh hơn. Do số lượng mẫu hạn chế, số lượng chi loài thực vật ít nên kết quả đánh giá định lượng về cổ nhiệt độ và lượng mưa ở đây còn hạn chế. Tuy nhiên có thể thấy, lượng mưa có xu thế giảm dần từ >2000mm/năm ở Miocen muộn phần sớm - giữa đến <2000mm/năm ở Miocen muộn phần muộn. 5. Kết luận Địa tầng trầm tích chứa than vùng Thái Bình có tuổi Miocen muộn được xây dựng trên cơ sở phân tích cổ sinh của các nhóm hóa thạch bào tử phấn hoa và trùng lỗ. Sự xuất hiện một số giống loài Trùng lỗ nhóm trôi nổi (plankton) như Neogloboquadrina acostaensis; Globigerinoides ruber, G. bulloides, G. conglobatus, là cơ sở để xác định tuổi và ranh giới địa tầng Miocen muộn với Pliocen trong các mặt cắt. Tập hợp hóa thạch trùng lỗ nhóm bám đáy (benthos) và thành phần hệ sinh thái thực vật ngập mặn và đầm lầy cho phép xác định môi trường trầm tích trong Miocen muộn như sau: Thời kỳ Miocen muộn phần sớm, môi trường trầm tích là bãi triều ven biển. Thời kỳ Miocen muộn phần giữa, môi trường trầm tích là bãi triều đầm lầy ven biển. Thời kỳ Miocen muộn phần muộn, môi trường trầm tích là bãi triều đầm lầy ven biển xen kẽ biển nông ven bờ. Cổ khí hậu thời kì Miocen muộn vùng nghiên cứu có chế độ á nhiệt đới nóng ở Miocen muộn phần sớm chuyển sang chế độ nhiệt đới xen kẽ với các đợt lạnh mát hơn ở Miocen muộn phần giữa và kết thúc ở Miocen muộn phần muộn với chế độ á nhiệt đới lạnh hơn. Lượng mưa có xu thế giảm dần từ >2000mm/năm ở Miocen muộn phần sớm giữa đến < 2000mm/năm ở Miocen muộn phần muộn. Lời cảm ơn Bài báo được hoàn thành trong khuôn khổ đề tài cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam mã số VAST05.04/17-18. Các mẫu phân tích được lấy từ các lỗ khoan do Liên đoàn Địa chất Quốc tế thực hiện với sự đồng ý của cơ quan chủ quản là Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam. D.V. Thuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 129 Tài liệu tham khảo [1] Vũ Xuân Doanh, Báo cáo Tổng kết địa chất và độ chứa than miền võng Hà Nội, Lưu trữ Trung tâm Thông tin Lưu trữ Địa chất, Hà Nội, 1986. [2] Vũ Nhật Thắng (chủ biên), Báo cáo đo vẽ bản đồ địa chất và tìm kiếm khoáng sản tỷ lệ 1/50.000 nhóm tờ Nam Định – Thái Bình, Lưu trữ Trung tâm Thông tin Lưu trữ Địa chất, Hà Nội, 1995. [3] Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, Tóm tắt báo cáo kết quả thi công đề án Thăm dò than khu Nam Thịnh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, Lưu Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, Hà Nội, 2016. [4] Trương Cam Bảo, Cổ sinh vật học, NXB Đại học và Trung học chuyện nghiệp, Hà Nội, 1980. [5] Nguyễn Ngọc, Nguyễn Hữu Cử, Đỗ Bạt, Hóa thạch Trùng lỗ (foraminifera) Kainozoi thềm lục địa và các vùng lân cận ở Việt Nam, NXB Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Hà Nội, 2006. [6] M. E. Zubkovits, Phương pháp nghiên cứu cổ sinh địa tầng – cơ sở sinh địa tầng, NXB Khoa họa và Kỹ thuật, Hà Nội, 1978. (người dịch: Trịnh Dánh, Nguyễn Ngọc, Nguyễn Văn Trinh). [7] Đỗ Bạt (chủ biên), Định danh và liên kết địa tầng trầm tích Đệ Tam thềm lục địa Việt Nam, Báo cáo tổng kết nhiệm vụ nghiên cứu khoa học cấp ngành, Lưu Viện Dầu khí Việt Nam, Hà Nội, 2001. [8] Đỗ Bạt, Nguyễn Địch Dỹ, Phan Huy Quynh, Phạm Hồng Quế, Nguyễn Quý Hùng, Đỗ Việt Hiếu, Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi Việt Nam, Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam, NXB Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, 2007. [9] Dương Xuân Hảo (Chủ biên), Hóa thạch đặc trưng ở miền Bắc Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1980. [10] Mai Văn Lạc, Vũ Anh Thư, Đỗ Thị Bích Thược, Phân dị sinh thái và phân dị tiến hóa của Foraminifera Vịnh Bắc Bộ, Tạp chí các Khoa học về Trái đất 31 (2) (2009) 139-147. [11] Nguyễn Ngọc, Nguyễn Xuân Phong, Một số nét về hóa thạch Trùng lỗ kích thước lớn và ý nghĩa của việc nghiên cứu đối tượng này. Tạp chí Thăm dò – Khai thác Dầu khí 5 (2016) 22-28. [12] J.A. Cushman, Foraminifera and their classification and economic use, Contribution from the Cushman Laboratory for Foraminiferal Research 4 (1928) 1-401. [13] J.A. Cushman, The Foraminifera of the tropical Pacific collections of the “Albatross”, 1899-1900. Pt.2-Lagenidae to Alveolinellidae. Bull. U.S. Nat. Mus., Washington, 161 (1933) 1-79. [14] J.P. Debenay, A Guide to 1,000 Foraminifera from Southwestern Pacific New Caledonia. IRD Editions. Institut de recherche pourle développement. Paris: Marseille, Publications Scientifiques du Muséum, Muséum national d’Histoire naturelle, 2012, pp. 1–378. [15] Trần Đình Nhân, Áp dụng phương pháp phân tích bào tử phấn hoa vào việc nghiên cứu địa chất ở nước ta”, Nội san Địa chất 5 (1962) 22-23. [16] G. Erdtman, An Introduction to Pollen Analysis. Waltham, Mass. 1943, pp. 1-239. [17] G. Erdtman, Pollen Morphology and Plant Taxonomy, Angiosperms (An Introduction to Palynology. 1), Stockholm, 1952, pp. 1-539. [18] Phạm Quang Trung (chủ biên), Các phức hệ bào tử phấn hoa trong trầm tích Paleogen bắc bể Sông Hồng và vùng ven rìa, mối quan hệ của chúng với môi trường trầm tích. Báo cáo nhiệm vụ cấp ngành dầu khí, Viện Dầu khí Việt Nam, 1998. [19] Đinh Văn Thuận, Các phức hệ bào tử phấn hoa trong trầm tích Đệ tứ đồng bằng Nam bộ, ý nghĩa địa tầng và cổ địa lý của chúng, Luận án Tiến sĩ Địa chất, Đại học Mỏ-Địa chất Hà Nội, Hà Nội, 2005. [20] V. Mosbrugger, T. Utescher, The coexistence approach-a method for quantitative reconstructions of Tertiary terrestrial paleoclimate data using plant fossils, Palaeogeography Palaeoclimatology Palaeoecology 134 (1997) 61-86. [21] J.P. Suc, Origin and evolution of the Mediterranean vegetation and climate in the Europe. Macmillan Journal Ltd, 1984, pp. 429-435. [22] P.B. Tomlinson, The botany of mangroves. Cambridge University Press, Cambridge, 1986, pp. 1-413. [23] A.M. Ellison, Mangrove restoration: Do we know enough?. Restoration ecology, 2000, pp. 142-155. [24] Gozalo Jiménez-Moreno, Martin Head, Mathias Harzhauser, Early and Middle Miocen dinoflagellate cyst stratigraphy of the Central Paratethys, Central Europe. The Micropaleotological Society, 2005, pp. 113-139. [25] Yong Quan, Shuai Wang, Ming Gu, Jun Kuang. Field measurement of wind speeds and wind- induced responses atop the Shanghai world financial center under normal climate conditions. Hindawi publishing corporation, 2013, pp.1-14. [26] W.H. Blow, Late middle Miocene to Recent planktonic foraminiferal biostratigraphy. In Bronnimann, P.Renz, H.H (eds), Proceedings of the First International Conference on Planktonic Microfossils, Geneva 1 (1969) 199-422. [27] Berggren, Van Couvering, Neogen chronostratigraphy, planktonic foraminiferal zonation and the radiometric time scale. W.H.O.I., part1, 1974. [28] T. Saito, Late Cenozoic planktonic foraminiferal datum levels: the present state of knowledge toward accomplishing Pan-Pacific correlation. Proceed 1 Intern. Cong. pacific Neogene strstigraphy, Tokyo, 1976, pp. 61-80. [29] G. Bartioli, M. Sarnthein, M. Weineil, H. Erenkeuser, D. Garbe-Scheonberg, D. W. Lea, Final closure of Panama and the onest of northen hemisphere giaciation, Erath and Planetary Science Letters 237 (2005) 33-44.
File đính kèm:
- dac_diem_sinh_dia_tang_tram_tich_chua_than_miocen_muon_vung.pdf