Đặc điểm phân bố các nguyên tố vi lượng trong trầm tích tầng mặt vịnh Tiên Yên

Hàm lượng và sự phân bố của các nguyên tố vi

lượng (NTVL) trong trầm tích biển đã thu hút được

rất nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học trên

thế giới [4, 6, 12-14, 16, 17, 22, 25]. Sự tập trung

cao của NTVL trong trầm tích biển có thể gây ảnh

hưởng đến các hệ sinh thái biển và con người

thông qua quá trình sinh địa hóa. Các NTVL trong

trầm tích có xu thế gia tăng hàm lượng so với trầm

tích 50 - 100 năm trước [5, 12]. Các nghiên cứu về

NTVL trong trầm tích cần phải tiếp tục thực hiện

vì: trầm tích có thể là nguồn thứ cấp phát tán

NTVL ra môi trường nước; và có thể chỉ ra lịch sử

ô nhiễm môi trường biển vì trầm tích có tính ổn

định hơn nước [26].

 

Đặc điểm phân bố các nguyên tố vi lượng trong trầm tích tầng mặt vịnh Tiên Yên trang 1

Trang 1

Đặc điểm phân bố các nguyên tố vi lượng trong trầm tích tầng mặt vịnh Tiên Yên trang 2

Trang 2

Đặc điểm phân bố các nguyên tố vi lượng trong trầm tích tầng mặt vịnh Tiên Yên trang 3

Trang 3

Đặc điểm phân bố các nguyên tố vi lượng trong trầm tích tầng mặt vịnh Tiên Yên trang 4

Trang 4

Đặc điểm phân bố các nguyên tố vi lượng trong trầm tích tầng mặt vịnh Tiên Yên trang 5

Trang 5

Đặc điểm phân bố các nguyên tố vi lượng trong trầm tích tầng mặt vịnh Tiên Yên trang 6

Trang 6

Đặc điểm phân bố các nguyên tố vi lượng trong trầm tích tầng mặt vịnh Tiên Yên trang 7

Trang 7

Đặc điểm phân bố các nguyên tố vi lượng trong trầm tích tầng mặt vịnh Tiên Yên trang 8

Trang 8

pdf 8 trang viethung 10220
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm phân bố các nguyên tố vi lượng trong trầm tích tầng mặt vịnh Tiên Yên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm phân bố các nguyên tố vi lượng trong trầm tích tầng mặt vịnh Tiên Yên

Đặc điểm phân bố các nguyên tố vi lượng trong trầm tích tầng mặt vịnh Tiên Yên
 10 
34(1), 10-17 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 3-2012 
ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ CÁC NGUYÊN TỐ VI LƯỢNG 
TRONG TRẦM TÍCH TẦNG MẶT VỊNH TIÊN YÊN 
TRẦN ĐĂNG QUY1, NGUYỄN TÀI TUỆ2, MAI TRỌNG NHUẬN1 
Email: quytd@vnu.edu.vn 
1Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội 
2Trung tâm Nghiên cứu Môi trường Biển (CMES) - Trường Đại học Ehime, Nhật Bản 
Ngày nhận bài: 16 - 7 - 2011 
1. Mở đầu 
Hàm lượng và sự phân bố của các nguyên tố vi 
lượng (NTVL) trong trầm tích biển đã thu hút được 
rất nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học trên 
thế giới [4, 6, 12-14, 16, 17, 22, 25]. Sự tập trung 
cao của NTVL trong trầm tích biển có thể gây ảnh 
hưởng đến các hệ sinh thái biển và con người 
thông qua quá trình sinh địa hóa. Các NTVL trong 
trầm tích có xu thế gia tăng hàm lượng so với trầm 
tích 50 - 100 năm trước [5, 12]. Các nghiên cứu về 
NTVL trong trầm tích cần phải tiếp tục thực hiện 
vì: trầm tích có thể là nguồn thứ cấp phát tán 
NTVL ra môi trường nước; và có thể chỉ ra lịch sử 
ô nhiễm môi trường biển vì trầm tích có tính ổn 
định hơn nước [26]. 
Các nghiên cứu về NTVL trong trầm tích biển 
ở Việt Nam hiện nay vẫn còn rất hạn chế, một vài 
NTVL được nghiên cứu sơ bộ trong các Chương 
trình biển như: Chương trình biển 48.06.14, 
Chương trình biển 48-06-02 hoặc được lồng ghép 
trong các công trình thành lập bản đồ địa chất môi 
trường biển (Mai Trọng Nhuận, 2001, 2006, 2007, 
Phạm Văn Thanh, 2009). Vấn đề này đã được chú 
trọng trong thời gian gần đây trong các đề tài 
cấp nhà nước như: Đề tài KC.09.22; Đề tài 
KC.09.05/06-10; Đề tài KC.09-22 nhằm hướng tới 
việc sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên. Các 
nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa sự gia 
tăng hàm lượng NTVL trong trầm tích biển với sự 
gia tăng phát triển kinh tế trên đới bờ, gây suy 
thoái môi trường, suy giảm đa dạng sinh học [18-
20, 23] và gia tăng sự tích lũy trong sinh vật [3, 7-
9, 20]. Sự phân bố và ô nhiễm NTVL trong trầm 
tích vịnh Tiên Yên đã được đề cập trong quá trình 
lập bản đồ địa chất môi trường biển ven bờ Việt 
Nam (Mai Trọng Nhuận, 1997, 2007), trong đề tài 
KC.09.05/06-10, trong quy hoạch nuôi trồng thủy 
sản huyện Tiên Yên (Mai Trọng Nhuận, 2002) và 
các nghiên cứu của Nguyễn Thị Thục Anh [1]. Tuy 
nhiên, các nghiên cứu này vẫn còn chưa đẩy đủ, tỷ 
lệ nghiên cứu nhỏ nên kết quả còn nhiều hạn chế. 
Sự thiếu hụt thông tin này đã gây khó khăn cho 
công tác quy hoạch sử dụng bền vững tài nguyên 
thiên nhiên vịnh Tiên Yên. Mục tiêu của nghiên 
cứu này là làm sáng tỏ đặc điểm phân bố, mức độ ô 
nhiễm, ảnh hưởng của tỷ lệ cấp hạt mịn và tổng 
carbon hữu cơ (TOC) tới các NTVL trong trầm 
tích vịnh Tiên Yên. Kết quả nghiên cứu góp phần 
xây dựng cơ sở dữ liệu khoa học cho việc định 
hướng sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi 
trường ở vịnh. 
Vịnh Tiên Yên nằm ở phía đông bắc của tỉnh 
Quảng Ninh, rộng khoảng 9km, dài khoảng 57km 
(Trần Đức Thạnh, 2006). Phạm vi không gian của 
vịnh kéo dài từ cửa sông Tiên Yên lên đến Móng 
Cái, giới hạn về phía tây bởi dãy đảo chắn Cái Bầu 
- Vĩnh Thực. Phạm vi nghiên cứu trong bài báo này 
bao gồm phần lớn diện tích vịnh Tiên Yên và vùng 
biển bên ngoài (hình 1). Các sông chính đổ vào 
vịnh là Ba Chẽ và Tiên Yên ở phía tây nam, Đầm 
Hà và Hà Cối ở phía tây bắc với đặc điểm là sông 
nhỏ và tải lượng trầm tích ít. Vịnh trao đổi nước 
với vùng biển thông qua Cửa Mô, Cửa Tiểu, Cửa 
Đại, cửa Bò Vàng, và cửa Đầu Tán. Chế độ triều 
trong vịnh có tính chất nhật triều thuần nhất với 
biên độ cực đại có thể tới 4,0m. Sóng trong vịnh 
không lớn do được che chắn bởi dãy đảo Cái Bầu - 
Vĩnh Thực. Dòng chảy trong vịnh không lớn và bị 
chi phối bởi dòng triều, mạnh tại các cửa vịnh. Về 
 11
phía tây vịnh là hệ thống bãi triều rộng lớn bao 
gồm rừng ngập mặn (gần 5.000ha) và bãi triều 
không phủ thực vật (khoảng 13.000ha). Hoạt động 
nhân sinh quanh vịnh chủ yếu là nuôi trồng và khai 
thác thủy sản, không có các khu đô thị hay khu 
công nghiệp lớn xung quanh vịnh. 
Hình 1. Sơ đồ khu vực nghiên cứu và vị trí thu mẫu 
2. Phương pháp nghiên cứu 
Hoạt động khảo sát thực địa được tiến hành vào 
tháng 7 năm 2007; trong quá trình khảo sát thực 
địa thu thập 36 mẫu trầm tích tầng mặt (hình 1). 
Mẫu trầm tích được lấy bằng gàu inox, đóng vào 
túi PE và bảo quản lạnh ở nhiệt độ dưới 4°C cho 
đến khi phân tích. Các trạm khảo sát được lấy tọa 
độ ngoài thực tế bằng hệ thống định vị toàn cầu 
GPS version 7.2, sau đó đưa lên bản đồ bằng phần 
mềm Map Infor version 9.0, sử dụng nền địa hình 
quốc gia tỷ lệ 1:50.000 của Bộ Tài nguyên và Môi 
trường năm 2000. Mẫu trầm tích được sấy khô ở 
nhiệt độ 60°C đến khối lượng không đổi. Mẫu trầm 
tích khô qua các bước xử lý khác nhau được phân 
tích độ hạt bằng phương pháp rây và pipet, phân 
tích TOC đồng thời với đồng vị bền 13C bằng máy 
phân tích tỷ số khối lượng đồng vị (IRMS) (ANCA-
SL, PDZ Europa, Ltd.), phân tích NTVL bằng 
phương pháp Khối phổ plasma cảm ứng (ICP-MS) 
(Elan 9000, PerkinElmer). 
3. Kết quả và thảo luận 
Trầm tích tầng mặt trong vùng chủ yếu là cát 
bùn, bùn cát, cát. Trầm tích cát bùn và bùn cát 
phân bố ở phía trong vịnh và trầm tích cát phân bố 
ở vùng biển bên ngoài các đảo chắn. Trên sơ đồ 
phân bố tỷ lệ cấp hạt mịn (<0,065mm) thấy rõ trầm 
tích có tỷ lệ cấp hạt mịn cao nằm ở trung tâm vịnh, 
từ Hòn Miều ra đến bên ngoài cửa Bò Vàng rồi sau 
đó giảm dần ra xung quanh cả về phía trong bờ lẫn 
phía ngoài biển (hình 2). Như vậy, đặc điểm địa 
hình ảnh hưởng mạnh đến sự phân bố tỷ lệ cấp hạt 
mịn của trầm tích (<0,063mm). Do hệ thống đảo 
chắn bên ngoài nên môi trường trong vịnh khá yên 
tĩnh, thuận lợi cho sự tích tụ các trầm tích hạt mịn 
ở gần bờ phía tây các đảo chắn. 
Hàm lượng TOC trong trầm tích tầng mặt 
tương đối thấp, thường gặp trong khoảng 0,2-
1,23%, trung bình là 0,72 % (bảng 1). Kết quả 
thống kê hàm lượng TOC cho thấy 50 % số mẫu 
nằm trong phạm vi 0,53 - 1,05 % và 75 % số mẫu 
nằm trong k ... ương tự, sự phân 
bố và hàm lượng 8 NTVL Ni, Co, V, Cd, Cr, Pb,
Zn và As chịu ảnh hưởng của tỷ lệ cấp hạt mịn còn 
5 NTVL Cu, Mn, Mo, Hg và Sb lại không chịu ảnh 
hưởng. Tuy nhiên, tác động cộng tính của cả hai 
nhân tố này có ảnh hưởng đến sự phân bố và hàm 
lượng 11 kim loại Ni, Co, V, Cd, Cu, Mn, Mo, Cr, 
Pb, Zn, As; không ảnh hưởng tới phân bố và hàm 
lượng hai kim loại Hg và Sb. 
Tất cả các kết quả trên đều cho thấy hàm lượng 
TOC và tỷ lệ cấp hạt mịn có ảnh hưởng đến hàm 
lượng các NTVL trong trầm tích và mối quan hệ 
giữa chúng là tương quan đồng biến. Hàm lượng 
NTVL thường tập trung cao trong trầm tích có tỷ lệ 
cấp hạt mịn cao và hàm lượng TOC cao là do các 
NTVL ít khi tồn tại độc lập trong môi trường biển 
mà thường tồn tại dưới dạng hấp phụ trên bề mặt 
hạt mịn và vật chất hữu cơ. Như vậy, có thể thấy 
vai trò quan trọng của yếu tố địa hình đến sự phân 
bố và hàm lượng các NTVL trong trầm tích tầng 
mặt vịnh Tiên Yên. Yếu tố địa hình mà cụ thể là 
các đảo chắn đã tác động đến sự phân bố của tỷ lệ 
cấp hạt mịn, đồng thời cùng với tỷ lệ cấp hạt mịn 
của trầm tích tác động đến sự phân bố của vật chất 
hữu cơ, cuối cùng là thông qua các yếu tố này tác 
động đến sự phân bố của NTVL trong trầm tích. 
Bảng 3. Phân tích phương sai đa nhân tố đánh giá ảnh hưởng của hàm lượng TOC và tỷ lệ cấp hạt mịn tới sự 
phân bố và hàm lượng các NTVL trong trầm tích tầng mặt 
 Mặt Ni Co V Cd Cu Mn Mo 
 F Sig. F Sig. F Sig. F Sig. F Sig. F Sig. F Sig. 
TOC 16,48 0,00 28,26 0,00 36,95 0,00 24,03 0,00 18,59 0,00 4,41 0,04 11,76 0,00 
< 0,063 mm 6,55 0,02 11,80 0,00 10,06 0,00 6,51 0,02 2,99 0,09 3,64 0,07 3,06 0,09 
TOC * (< 0,063) 18,71 0,00 34,68 0,00 50,54 0,00 28,61 0,00 24,68 0,00 4,63 0,04 16,95 0,00 
 Cr Pb Zn As Hg Sb 
 F Sig. F Sig. F Sig. F Sig. F Sig. F Sig. 
TOC 28,31 0,00 53,20 0,00 4,94 0,03 27,31 0,00 0,12 0,73 0,03 0,86 
< 0,063 mm 8,12 0,01 22,31 0,00 1,64 0,21 9,17 0,01 1,73 0,20 0,51 0,48 
TOC * (< 0,063) 40,26 0,00 66,35 0,00 4,81 0,04 39,02 0,00 0,01 0,93 0,35 0,56 
Ghi chú: F - Tiêu chuẩn Fisher, Sig. - mức ý nghĩa, in đậm là có chịu ảnh hưởng với p ≤ 0,05 
Hệ số địa tích lũy (Igeo) được G. Müller (1979) 
[10] đề nghị để đánh giá mức độ ô nhiễm NTVL 
trong trầm tích. Hệ số Igeo được xác định bởi Igeo = 
log2 (Cn/1,5Bn), với Cn là hàm lượng NTVL trong 
mẫu, Bn là hàm lượng NTVL nền lấy theo hàm 
lượng trung bình trong đá phiến sét của K.K. 
Turekian và K.H. Wedepohl (1961) [21], 1,5 là hệ 
số hiệu chỉnh. Theo Igeo, mức độ ô nhiễm các 
NTVL được chia ra làm 7 nhóm: không ô nhiễm (≤ 
0); từ không ô nhiễm đến ô nhiễm trung bình (0 - 
1); ô nhiễm trung bình (1 - 2); từ ô nhiễm trung 
bình đến ô nhiễm nặng (2 - 3); ô nhiễm nặng (3 - 
4); ô nhiễm nặng đến ô nhiễm rất nặng (4 - 5); và ô 
nhiễm rất nặng (> 5). Kết quả tính toán cho thấy, 
Ni, V, Cd, Mn, Cr không gây ô nhiễm; Co, Cu từ 
không gây ô nhiễm đến ô nhiễm nặng; Mo, Pb, Zn, 
As từ không gây ô nhiễm đến ô nhiễm trung bình; 
Hg từ không gây ô nhiễm đến ô nhiễm rất nặng; Sb 
gây ô nhiễm từ trung bình đến rất nặng. 
Hệ số nhiễm bẩn (CF) được sử dụng để đánh 
giá mức độ tích lũy NTVL trong trầm tích. Hệ số 
CF được xác định theo công thức CF = Cm/Cn, 
trong đó, Cm là hàm lượng NTVL trong mẫu, Cn 
là hàm lượng NTVL nền cũng lấy theo hàm lượng 
trung bình trong đá phiến sét của K.K. Turekian và 
 15
K.H. Wedepohl (1961) [21]. Từ hệ số CF, G. 
Müller (1979) [10] đã tính hệ số tải ô nhiễm (PLI): 
n
nCFCFCFCFPLI *...*** 321= , trong đó, 
CF1, CF2, CF3,, CFn lần lượt là hệ số nhiễm bẩn 
của các kim loại vi lượng thứ 1, 2, 3,, n. Theo 
PLI, mức độ ô nhiễm tổng các NTVL trong trầm 
tích được phân thành 5 cấp: 1 > PLI - Không ô 
nhiễm; 1< PLI < 3 - Ô nhiễm nhẹ; 3 < PLI < 12 - Ô 
nhiễm trung bình; 12 < PLI < 48 - Ô nhiễm nặng; 
PLI > 48 - Ô nhiễm rất nặng [2]. Kết quả tính toán 
cho thấy, Co, Cu, Mo, Pb, Zn, As, Hg, Sb đã gây 
nhiễm bẩn trầm tích tầng mặt với hệ số CF > 1. 
Trong 36 mẫu thì hệ số PLI nhỏ nhất là 0,3 và lớn 
nhất là 2,0, trong đó 20 mẫu có hệ số PLI ≤ 1 và 16 
mẫu có hệ số PLI > 1. Nghĩa là, có 16/36 mẫu trầm 
tích tầng mặt quan sát trên toàn vịnh đã bị ô nhiễm 
các NTVL ở mức độ nhẹ. 
Đánh giá chất lượng trầm tích theo Igeo và CF 
cho biết mức độ tích lũy NTVL so với hàm lượng
nền. Theo PLI cho phép đánh giá chất lượng tổng 
thể về NTVL của trầm tích. Tuy nhiên, để khẳng 
định hàm lượng các NTVL trong trầm tích đã tác 
động xấu đến sinh vật thủy sinh chưa cần đánh giá 
chất lượng trầm tích theo ISQGs (CCME, 2000). 
Đối sánh với ISQGs, trầm tích tầng mặt vịnh Tiên 
Yên đã bị ô nhiễm bởi 6/13 NTVL bao gồm Cu, 
Cr, Pb, Zn, As và Hg (bảng 4). Theo đó, ô nhiễm 
As và Hg xảy ra trên diện rộng với tần suất bắt gặp 
lần lượt là 34/36 và 28/36 mẫu; ô nhiễm Cr chỉ có 
ở các cửa sông Đầm Hà, Đường Hoa và phía bắc 
đảo Sậu Nam. Ô nhiễm Cu, Pb, Zn trong trầm tích 
quan sát thấy ở phía đông bắc vịnh và các cửa sông 
Đường Hoa, Đầm Hà, bắc đảo Sậu Nam và cửa Bò 
Vàng. Kim loại ô nhiễm mạnh nhất là Hg với hệ số 
ô nhiễm (Ttc) đối với mức hiệu ứng có ngưỡng 
(TEL) là 1,9 - 300, thậm chí vượt cả mức hiệu ứng 
có thể (PEL), sau đó là Cu với hệ số ô nhiễm là 
1,0-14,3, As gây ô nhiễm với hệ số 1,1-4,7, ba kim 
loại Cr, Pb, Zn gây ô nhiễm với hệ số 1,0-1,7. 
Bảng 4. Ô nhiễm các NTVL trong trầm tích tầng mặt so với ISQG 
Kim loại Hàm lượng (mg/kg) Hệ số (Ttc) Số mẫu ô nhiễm Khu vực ô nhiễm 
Cr 52,5 - 73,4 1,0 - 1,4 4/36 Các cửa sông Đầm Hà và Đường Hoa, bắc đảo Sậu Nam 
Pb 30,3 - 51,0 1,0 - 1,7 10/36 Các cửa sông Đầm Hà và Đường Hoa, bắc đảo Sậu Nam 
Zn 124,2 - 212,3 1,0 - 1,7 10/36 Đông bắc vịnh, cửa sông Đường Hoa, bắc đảo Sậu Nam 
As 7,9 - 34,0 1,1 - 4,7 34/36 Toàn vịnh 
Cu 19,1 - 267,1 1,0 - 14,3 17/36 Đông bắc vịnh, cửa sông Đường Hoa, cửa Bò Vàng 
Hg 0,2 - 39,1 1,9 - 300 28/36 Ven biển từ cửa sông Hà Cối đến cửa sông Đường Hoa, bắc đảo 
Sậu Nam, bắc cửa Đại 
4. Kết luận 
Địa hình đóng vai trò quan trọng trong sự phân 
bố của TOC, tỷ lệ cấp hạt mịn và hàm lượng các 
NTVL trong trầm tích tầng mặt vịnh Tiên Yên và 
hệ quả là ô nhiễm NTVL trong trầm tích vịnh. Do 
sự chi phối của địa hình mà hàm lượng TOC và tỷ 
lệ cấp hạt mịn tập trung cao ở trung tâm vịnh, hàm 
lượng các NTVL có xu thế giảm dần từ bờ ra khơi, 
từ phía đông bắc xuống phía tây nam. Hàm lượng 
TOC, tỷ lệ cấp hạt mịn có ảnh hưởng đến mối quan 
hệ, sự phân bố và hàm lượng các NTVL. 
Lời cảm ơn: Tập thể tác giả chân thành cảm ơn 
ThS. Phạm Tiến Đức và PGS.TSKH. Lưu Văn Bôi 
đã giúp đỡ trong quá trình phân tích các NTVL, 
TS. Omori trong quá trình phân tích hàm lượng 
TOC, các Đề tài TN-11-31, QGTĐ 09-04, QGTĐ 
10.31 đã hỗ trợ kinh phí cho nghiên cứu này. 
TÀI LIỆU DẪN 
[1] Nguyễn Thị Thục Anh và Nguyễn Khắc 
Giảng, 2006: Hiện trạng ô nhiễm kim loại nặng của 
trầm tích bãi triều cửa sông vùng vịnh Tiên Yên - 
Hà Cối, Quảng Ninh: Tạp chí Địa chất, số 293, 
trang 1-10. 
[2] Belzunce M. J., Solaun, O., Franco, J., 
Valencia, V., and Borja, Á., 2001: Accumulation of 
organic matter, heavy metals and organic 
compounds in surface sediments along the Nevión 
estuary (Northern Spain): Marine Pollution 
Bulletin, v.42, p.1407-1411. 
[3] Đặng Thúy Bình, Nguyễn Thanh Sơn, 
Nguyễn Thị Thu Nga, 2006: Nghiên cứu sự tích lũy 
kim loại nặng trong Ốc Hương và một số đối tượng 
thủy sản (Vẹm, Hải sâm, Rọng Sụn) tại đảo Điệp 
 16 
Sơn, vịnh Vân Phong, Khánh Hòa: Tạp chí Khoa 
học - Công nghệ thủy sản, số 03-04, tr. 44-52. 
[4] Buccolieri A., Buccolieri, G., Cardellicchio, 
N., Dell Atti, A., Di Leo, A., and Maci, A., 2006: 
Heavy metals in marine sediments of Taranto Gulf 
(Ionian Sea, Southern Italy): Marine Chemistry, 
v.99, p.227-235. 
[5] Cardoso A., Boaventura, G., Silva, E., and 
Brod, J., 2001: Metal distribution in sediments 
from the Ribiera bay, Rio de Janeiro - Brazil: 
Journal of Brazilian Chemical Society, v.12, 
p.767-774. 
[6] Carman C.M.I., Xiang-Dong, L., Gan, Z., 
Onyx, W.H.W., and Yok-Sheung, L., 2007: Trace 
metal distribution in sediments of the Pearl River 
Estuary and the surrounding coastal area, South 
China: Environmental Pollution, v.147, p.311-323. 
[7] Phạm Thị Hồng Hà, Nguyễn Văn Khánh, và 
Lê Thị Quế, 2009: Nghiên cứu tích lũy kim loại 
nặng chì (Pb) và cadmium (Cd) ở loài Sò Lông 
(Anadara subcrenata Lischke) và Ngao dầu 
(Meretrix Meretrix Linnaeus) vùng cửa sông thành 
phố Đà Nẵng: Tạp chí Sinh học, số 31(3), tr.87-93. 
[8] Nguyễn Văn Khánh và Phạm Văn Hiệp, 
2009: Nghiên cứu sự tích lũy kim loại nặng 
cadmium (Cd) và Chì (Pb) của loài Hến (Corbicula 
Sp.) vùng cửa sông ở thành phố Đà Nẵng: Tạp chí 
Khoa học và Công nghệ, số 1(30), 83-89. 
[9] Nguyễn Văn Khánh, Võ Văn Minh, Phạm 
Thị Hồng Hà, và Dương Công Vinh, 2010: Hàm 
lượng As, Pb tích lũy trong loài Hến (Corbicula 
sp.) và Hàu sông (Ostrea rivularis Gould, 1981) tại 
cửa sông Cu Đê, thành phố Đà Nẵng: Tạp chí 
Khoa học và Công nghệ Biển, tập 1, tr.27-35. 
[10] Müller G., 1979: Schwermetalle in den 
sedimenten des Rheins - VeraE' nderungenseit 
1971: Umschau, v. 79, p.778-783. 
[11] Muller P. J., 1977: C/N ratios in Pacific 
deep-sea sediments: effect of inorganic ammonium 
and organic nitrogen compounds sorbed by clays: 
Geochimica et Cosmochimica Acta, v.41, p.765-
776. 
[12] Owens M., and Cornwell J., 1995: 
Sedimentary evidence for decreased heavy metal 
input to the Chesapeake bay: AMBIO, v.XXIII, 
p.30-36. 
[13] Pekey H., 2006: The distribution and 
sources of heavy metals in Izmit Bay surface 
sediments affected by a polluted stream: Marine 
Pollution Bulletin, v.52, p.1197-1208. 
[14] Prudente S. M., Ichihashi, H., and 
Tatsukawa, R., 1994: Heavy metal concentrations 
in sediments from Manila bay, Philippines and 
inflowing rivers: Environmental Pollution, v. 86, p. 
83-88. 
[15] Rojas N., and Silva N., 2005: Early 
diagenesis and vertical distribution of organic 
carbon and total nitrogen in recent sediments from 
southern Chilean fjords (Boca del Guafo to 
Pulluche Channel): Investigaciones Marinas, v.33, 
p.183-194. 
[16] Roussiez V., Ludwig, W., Probst, J.-L., and 
Monaco, A., 2005:, Background levels of heavy 
metals in surficial sediments of the Gulf of Lions 
(NW Mediterranean): An approach based on 133Cs 
normalization and lead isotope measurements: 
Environmental Pollution, v. 138, p.167-177. 
[17] Sari E., and Cagatay M. N., 2001: 
Distributions of heavy metals in the surface 
sediments of the Gulf of Saros, NE Aegean Sea: 
Environment International, v.26, p.169-173. 
[18] Trần Đức Thạnh, 2009: Nguy cơ suy thoái 
môi trường và suy giảm đa dạng sinh học Vịnh Hạ 
Long: Tạp chí Hàng hải, tr.53-54. 
[19] Phạm Văn Thơm, Lê Thị Vinh, Dương 
Trọng Kiểm, Nguyễn Hồng Thu, và Phạm Hữu 
Tâm, 2006: Ảnh hưởng của các hoạt động kinh tế 
đối với chất lượng môi trường đầm Thủy Triều - 
Vịnh Cam Ranh: Tạp chí Khoa học và Công nghệ 
Biển, số 3, tr.66-77. 
[20] Nguyễn Ngọc Tuấn, Nguyễn Giằng, 
Nguyễn Thanh Tâm, Lê Như Tồn, và Minh Trương 
Tri, 2008: Đánh giá hàm lượng một số kim loại 
nặng Cu, Pb, Cd, Hg và As trong nước, trầm tích 
và một số vịnh vật (Vẹm xanh và Sò lông) tại vùng 
đầm Nha Phu, tỉnh Khánh Hòa: Tạp chí phân tích 
Hóa, Lý và Sinh học, số 13, tr.100-105. 
[21] Turekian K. K., and Wedepohl K. H., 
1961: Distribution of the Elements in Some Major 
Units of the Earth's Crust: Geological Society of 
America Bulletin, v.72, p.175-192. 
[22] Valdés J., Vargas, G., Sifeddine, A., 
Ortlieb, L., and Guinez, M., 2005: Distribution and 
enrichment evaluation of heavy metals in 
Mejillones Bay (23oS), Northern Chile: 
Geochemical and statistical approach: Marine 
Pollution Bulletin, v.50, p.1558-1568. 
 17
[23] Lê Thị Vinh, Phạm Văn Thơm, Nguyễn 
Hồng Thu, Dương Trọng Kiểm, và Phạm Hữu 
Tâm, 2007: Hành vi của các yếu tố dinh dưỡng và 
kim loại nặng trong khu vực cửa sông Cái và vịnh 
Nha Trang: Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển, 
tập 3, tr.31-43. 
[24] Vinogradov A. P., 1967: Introduction in 
geochemistry of ocean: Moscow, Russian, Nauka, 
142p. 
[25] Zhang L., Ye, X., Feng, H., Jing, Y., 
Ouyang, T., Yu, X., Liang, R., Gao, C., and Chen, 
W., 2007: Heavy metal contamination in western 
Xiamen Bay sediments and its vicinity, China: 
Marine Pollution Bulletin, v.54, p.974-982. 
[26] Zwolsman J., Van Eck, G., and Burger, G., 
1996: Spatial and temporal distribution of trace 
metals in sediments from the Scheldt estuary, 
south-west Netherlands: Estuarine, Coastal and 
Shelf Science, v.43, p.55-79. 
SUMMARY 
Spatial distribution of trace elements in surface sediments of Tien Yen Bay, northeast Vietnam 
The Tien Yen Bay in Quang Ninh province (northeast Vietnam) is abundant in natural resources, such as mangrove 
ecosystems, wetlands, and other biological resources. These ecosystems are highly sensitive to environmental pollution 
(i.e., trace element concentration). Yet, there still remains a major deficiency of information on trace element 
concentrations from the region. The purpose of this study was to examine the spatial distribution of 13 trace elements 
(Ni, Co, V, Cd, Cu, Mn, Mo, Cr, Pb, Zn, As, Hg, Sb) in surface sediments of Tien Yen Bay, in order to understand the 
mechanisms of trace element concentrations and to assess sediment quality. The results showed that the surface 
sediments were composed of sandy mud, muddy sand, and sand. The trace elements were highly concentrated in 
sediments close to river mouths and were decreased toward offshore and southeastern part of the bay. The trace 
elements positively correlated with each other. The trace element concentrations were controlled by the TOC content 
and the fine sediment grain size (<0,063mm). According to the Canadian ISQGs, Geo-accumulation index, and Pollution 
load index, the surface sediments were contaminated by trace elements (As, Hg, Sb, Cu, Pb, Zn, Cd, Cr, Mo). 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_phan_bo_cac_nguyen_to_vi_luong_trong_tram_tich_tang.pdf