Đặc điểm bệnh răng miệng ở trẻ mắc hội chứng thận hư tiên phát tại bệnh viện nhi trung ương
Bệnh răng miệng là một trong những bệnh phổ biến nhất trên toàn cầu và gây ra gánh nặng nghiêm
trọng về sức khỏe và kinh tế, giảm chất lượng cuộc sống. Theo y văn, những trẻ mắc hội chứng thận hư có
sự tác động phá hủy mô cứng và các tổ chức quanh răng khi sử dụng kéo dài các loại thuốc trong điều trị
bệnh. Ngoài ra, sự nhập viện thường xuyên và chế độ ăn uống riêng biệt cũng ảnh hưởng đến việc chăm
sóc và phòng ngừa các bệnh răng miệng. Nghiên cứu này nhằm mục đích mô tả các bệnh răng miệng của
trẻ mắc hội chứng thận hư tiên phát tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt
ngang được thực hiện ở 407 trẻ. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ trẻ nam mắc bệnh cao (309 trẻ chiếm
75,6%), chỉ số vệ sinh răng miệng của trẻ ở ở mức trung bình, 63,9% trẻ viêm lợi, 12,3% trẻ viêm lợi phì đại,
78,6% trẻ bị sâu răng, chỉ số sâu răng sữa của trẻ dmft/dmfs là 5,6/9,9; chỉ số sâu răng vĩnh viễn DFMT/
DMFS là 1,4/1,8; 11,1% trẻ có khiếm khuyết phát triển men răng, gặp chủ yếu là dạng mờ đục ranh giới rõ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm bệnh răng miệng ở trẻ mắc hội chứng thận hư tiên phát tại bệnh viện nhi trung ương
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 53TCNCYH 142 (6) - 2021 ĐẶC ĐIỂM BỆNH RĂNG MIỆNG Ở TRẺ MẮC HỘI CHỨNG THẬN HƯ TIÊN PHÁT TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG Lương Minh Hằng1, , Tống Minh Sơn1, Trần Huy Thịnh1, Phạm Tuệ Minh1, Đinh Việt Hà1, Khuất Thu Hương1, Mai Thị Giang Thanh2 1Trường Đại học Y Hà Nội 2Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông Từ khóa: hội chứng thận hư tiên phát, bệnh răng miệng, viêm lợi, lợi phì đại, sâu răng, khiếm khuyết phát triển men răng. Bệnh răng miệng là một trong những bệnh phổ biến nhất trên toàn cầu và gây ra gánh nặng nghiêm trọng về sức khỏe và kinh tế, giảm chất lượng cuộc sống. Theo y văn, những trẻ mắc hội chứng thận hư có sự tác động phá hủy mô cứng và các tổ chức quanh răng khi sử dụng kéo dài các loại thuốc trong điều trị bệnh. Ngoài ra, sự nhập viện thường xuyên và chế độ ăn uống riêng biệt cũng ảnh hưởng đến việc chăm sóc và phòng ngừa các bệnh răng miệng. Nghiên cứu này nhằm mục đích mô tả các bệnh răng miệng của trẻ mắc hội chứng thận hư tiên phát tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện ở 407 trẻ. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ trẻ nam mắc bệnh cao (309 trẻ chiếm 75,6%), chỉ số vệ sinh răng miệng của trẻ ở ở mức trung bình, 63,9% trẻ viêm lợi, 12,3% trẻ viêm lợi phì đại, 78,6% trẻ bị sâu răng, chỉ số sâu răng sữa của trẻ dmft/dmfs là 5,6/9,9; chỉ số sâu răng vĩnh viễn DFMT/ DMFS là 1,4/1,8; 11,1% trẻ có khiếm khuyết phát triển men răng, gặp chủ yếu là dạng mờ đục ranh giới rõ. Tác giả liên hệ: Lương Minh Hằng Trường Đại học Y Hà Nội Email: minhhang@hmu.edu.vn Ngày nhận: 30/03/2021 Ngày được chấp nhận: 22/04/2021 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Theo số liệu của Tổ chức Y tế thế giới trong nghiên cứu gánh nặng bệnh tật toàn cầu 2017 ước tính rằng các bệnh răng miệng ảnh hưởng đến 3,5 tỷ người trên toàn thế giới, trong đó sâu răng không được điều trị là một trong những bệnh không truyền nhiễm phổ biến nhất.1 Tại Việt Nam, Liên đoàn nha khoa quốc tế đã cảnh báo Việt Nam là một trong những nước có tỉ lệ trẻ mắc bệnh răng miệng cao nhất thế giới. Năm 2010, theo kết quả điều tra của Viện Đào đào tạo Răng Hàm Mặt - Trường Đại học Y Hà Nội tại năm tỉnh thành trong cả nước thấy: tỉ lệ sâu răng sữa của trẻ từ bốn đến tám tuổi là 81,6%; sâu răng vĩnh viễn là 16,3%; 90,6% trẻ có cặn bám và 81,1% trẻ có cao răng.2 Đó là kết quả nghiên cứu trên những trẻ bình thường không có bệnh toàn thân kèm theo. Vậy câu hỏi đặt ra là: Sức khỏe răng miệng ở những trẻ có bệnh toàn thân như thế nào? Với những trẻ có bệnh toàn thân thì sức khỏe răng miệng ra sao, có có sự ảnh hưởng qua lại giữa bệnh răng miệng và bệnh toàn thân hay không? Tại Việt Nam hiện tại chưa có nhiều nghiên cứu đề cập đến tình trạng răng miệng ở trẻ mắc hội chứng thận hư tiên phát (HCTHTP). Năm 2018, nghiên cứu của Tống Minh Sơn và cộng sự (CS) trên 236 trẻ ở độ tuổi 6 – 14 thấy tỉ lệ sâu răng chung ở mức cao (90,7% trẻ), trong đó:3 tỉ lệ sâu răng sữa của trẻ 6 – 8 tuổi là 93,0%, chỉ số dmft/dmfs là 6,6/12,5. Tỉ lệ sâu răng vĩnh viễn cao và gia tăng theo tuổi: 73,4% ở trẻ 9 – 11 tuổi và 87,1% ở trẻ 12 – 14 tuổi. Chỉ số DMFT/DMFS tăng theo lứa tuổi. Nhóm trẻ 9 – 11 tuổi có DMFT/ DMFS là 2,4/3,9 trong khi nhóm 12 – 14 tuổi có DMFT/DMFS là 3,6/5,3. Không chỉ riêng tỉ lệ sâu TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 54 TCNCYH 142 (6) - 2021 răng cao mà tỉ lệ viêm lợi của trẻ mắc HCTHTP cũng cao, theo Phạm Thị Phượng (2017) và CS:4 90,7% trẻ mắc HCTHTP có viêm lợi, 78,2% trẻ dùng cyclosporin có phì đại lợi; 85,6% trẻ có cao răng. Chỉ số vệ sinh răng miệng đơn giản (OHI-S) là 2,9 ± 1,2; trong đó hơn 50% trẻ có chỉ số vệ sinh đơn giản kém. Theo số liệu thống kê của Bệnh viện Nhi Trung ương trong 10 năm (1981 - 1990) số trẻ mắc hội chứng thận hư chiếm 1,7% tổng số trẻ điều trị nội trú và trên 46,0% tổng số trẻ của khoa Thận – Lọc máu.5 Trong số đó, trẻ mắc HCTHTP chiếm hơn 96,0% nên chúng tôi quyết định tiến hành nghiên cứu trên nhóm trẻ mắc HCTHTP tại bệnh viện. Xuất phát từ các vấn đề trên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài mô tả “Đặc điểm bệnh răng miệng ở trẻ mắc hội chứng thận hư tiên phát tại Bệnh viện Nhi Trung ương” II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Trẻ em được chẩn đoán hội chứng thận hư tiên phát tại khoa Thận - Lọc máu Bệnh viện Nhi Trung ương với những tiêu chuẩn chẩn đoán của ISKDC (International study of Kidney diseases in Children):6 - Protein niệu ≥ 50mg/kg/24 giờ. - Protein máu < 56 g/l. - Albumin máu < 25 g/l. Hoặc chỉ số protein/creatinine niệu > 0,2g/mmol. 2. Phương pháp Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu, chọn mẫu: Theo công thức tính ước tính cỡ mẫu cho một tỉ lệ trong cộng đồng - n: cỡ mẫu tối thiểu cần có. - Z1 - α/2: hệ số giới hạn tin cậy, với α = 0,05 ta có Z1-α/2 = 1,96. - d: khoảng sai lệch mong muốn, chọn d = 0,05. - p: tỷ lệ viêm lợi phì đại ở trẻ mắc bệnh hội chứng thận hư tiên phát của tác giả Phạm Thị Phượng và cộng sự p = 0,782.4 - Cỡ mẫu nghiên cứu sau khi áp dụng công thức: n = 262 trẻ em. Trên thực tế chúng tôi đã khám và thu thập dữ liệu của 407 trẻ. Thu thập thông tin: Gửi thư xin ý kiến đồng ý tham gia nghiên cứu cho trẻ và gia đình. Gửi bộ câu hỏi phỏng vấn đền phụ huynh của trẻ để thu thập thông tin về cá nhân, đặc điểm bệnh, thói quen vệ sinh răng miệng, thói quen ăn uống của đối tượng nghiên cứu. Tiêu chuẩn đánh giá: Phương pháp đánh giá vệ sinh răng miệng đơn giản OHI-S của Green và Vermillion (1964)7 gồm có hai chỉ số Chỉ số cặn bám đơn giản (DI- S) và chỉ số cao răng (CI-S). Phương pháp đánh giá lợi GI theo Loe và Silness (1963) 8 được ghi nhận ở bốn mức độ, từ 0 - 3. Phương pháp đánh giá phì đại lợi GOI theo McGaw và cộng sự (1988).9 Phương pháp đánh giá và phát hiện sâu răng quốc tế ICDAS/ICCMS10 trên lâm sàng. Phương pháp đánh giá và phát hiện khiếm khuyết phát triển men răng (KKPTMR) trên lâm sàng năm 1989.11 Thời gian ng ... hóm đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi được thể hiện ở Bảng 3. Tỉ lệ viêm lợi chiếm 63,9%. Tỉ lệ viêm lợi ở nhóm tuổi 13 - 18 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (77,0%). Tỉ lệ phì đại lợi chiếm 12,3%. Tỉ lệ phì đại lợi ở nhóm tuổi 13 - 18 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất (20,3%). Sự khác biệt giữa các nhóm tuổi có ý nghĩa thống kê với p < 0,001 (test khi bình phương). Bảng 4. Đặc điểm sâu răng sữa theo nhóm tuổi Đặc điểm Nhóm tuổi DMFT (TB ± SD) DMFS (TB ± SD) DT MT FT DMFT DS MS FS DMFS 3 - 6 tuổi (n = 122) 5,90 ± 4,87 0,07 ± 0,34 0,20 ± 0,71 6,17 ± 4,92 10,07 ± 12,08 0,13 ± 0,65 0,31 ± 1,29 10,51 ± 12,17 7 - 12 tuổi (n = 145) 4,71 ± 3,72 0,19 ± 0,65 0,28 ± 0,89 5,18 ± 3,88 8,82 ± 9,09 0,32 ± 1,19 0,33 ± 1,04 6,14 ± 9,29 Tổng (n = 267) 5,25 ± 4,32 0,14 ± 0,53 0,24 ± 0,81 5,63 ± 4,40 9,39 ± 10,56 0,23 ± 0,98 0,32 ± 1,16 9,94 ± 10,70 p (Kwallis test) > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 Trong Bảng 4 ta thấy ở 407 trẻ tham gia nghiên cứu, có 267 trẻ còn răng sữa chỉ số DMFT/DMFS là 5,63/9,94. Trung bình mỗi trẻ có 5,25 răng sữa bị sâu và 9,39 mặt răng bị sâu. Chỉ số DMFT/DMFS theo từng nhóm tuổi có sự khác nhau, chỉ số DMFT/DMFS ở nhóm tuổi 3 - 6 tuổi cao nhất. Bảng 5. Đặc điểm sâu răng vĩnh viễn theo nhóm tuổi Đặc điểm Nhóm tuổi DMFT (TB ± SD) DMFS (TB ± SD) DT MT FT DMFT DS MS FS DMFS 3 - 6 tuổi (n = 37) 0,19 ± 0,74 0 0 0,19 ± 0,74 0,19 ± 0,74 0 0 0,19 ± 0,74 7 - 12 tuổi (n = 208) 1,17 ± 1,68 0,03 ± 0,23 0,05 ± 0,31 1,25 ± 1,74 1,50 ± 2,35 0,05 ± 0,41 0,05 ± 0,31 1,61 ± 2,42 13 - 18 tuổi (n = 74) 2,07 ± 1,95 0 0,19 ± 0,87 2,26 ± 2,28 2,95 ± 3,23 0 0,24 ± 1,27 3,19 ± 3,70 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 58 TCNCYH 142 (6) - 2021 Đặc điểm Nhóm tuổi DMFT (TB ± SD) DMFS (TB ± SD) DT MT FT DMFT DS MS FS DMFS Tổng (n = 319) 1,26 ± 1,75 0,02 ± 0,18 0,08 ± 0,49 1,36 ± 1,89 1,69 ± 2,59 0,03 ± 0,33 0,09 ± 0,66 1,81 ± 2,79 p (Kwallis test) 0,05 > 0,05 0,05 > 0,05 < 0,001 Bảng 5, trong 407 trẻ trong nghiên cứu có 319 trẻ có răng vĩnh viễn. Chỉ số DMFT/DMFS chung là 1,36/1,81. Trung bình mỗi trẻ có 1,26 răng vĩnh viễn sâu. Ít trẻ bị mất răng hoặc trám răng do sâu. Chỉ số DMFT/DMFS đối với từng nhóm tuổi có sự thay đổi khác nhau, tăng dần theo nhóm tuổi. Nhóm 13-18 tuổi có chỉ số DMFT/DMFS cao nhất là 2,26/3,19. Trung bình mỗi trẻ ở nhóm tuổi này có 2,07 răng vĩnh viễn bị sâu và 2,95 mặt răng bị sâu. Không có răng mất do sâu nhưng hầu như cũng không có răng được trám phục hồi do sâu răng. Sự khác biệt chỉ số sâu răng giữa các nhóm tuổi là có ý nghĩa thống kê. Bảng 6. Tỉ lệ khiếm khuyết phát triển men răng vĩnh viễn theo loại tổn thương Loại tổn thương Số trẻ (n = 407) % 0. Bình thường 362 88,9 1. Mờ đục ranh giới rõ 23 5,7 2. Mờ đục lan tỏa (không có ranh giới rõ) 9 2,2 3. Thiểu sản men 12 3,0 4. Các loại khiếm khuyết khác 1 0,3 5. Mờ đục ranh giới rõ và lan tỏa 1 0,3 6. Mờ đục ranh giới rõ và thiểu sản men 0 0 7. Mờ đục lan tỏa và thiểu sản men 0 0 8. Phối hợp cả ba loại tổn thương 0 0 9. Không ghi nhận được 0 0 Theo bảng 6 ta thấy nếu phân loại theo tổn thương thì trẻ có tổn thương dạng mờ đục có ranh giới rõ chiếm tỉ lệ cao nhất (chiếm 5,7%), đứng thứ 2 là trẻ có tổn thương dạng thiểu sản men (3,0%), sau đó là đến dạng mờ đục lan tỏa (2,2%), những dạng tổn thương khác hầu như là hiếm gặp trong nhóm trẻ nghiên cứu. IV. BÀN LUẬN Sau khi tiến hành thu thập thông tin, khám răng miệng cho trẻ được chẩn đoán là mắc HCTHTP tại Khoa Thận - lọc máu Bệnh viện Nhi Trung ương, nghiên cứu xác định được 407 trẻ đưa vào nghiên cứu. Trong nghiên cứu này, trẻ nam có tỉ lệ mắc hội HCTHTP cao hơn nữ (309 so với 98), kết quả này cũng tương tự như các nghiên cứu khác thực hiện ở Việt Nam cũng như nước ngoài về đặc điểm dịch tễ mắc hội chứng thận hư gặp ở trẻ trai nhiều hơn trẻ gái, tỷ lệ trai/gái TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 59TCNCYH 142 (6) - 2021 là 3/1.5 Về thể bệnh: đa số các bệnh nhân trong nghiên cứu có thể bệnh kháng thuốc (239/407 trường hợp) và có 191/407 trường hợp bị tái phát từ 3 lần trở lên chiếm 46,9%, tình trạng kháng thuốc và tái phát nhiều lần này sẽ khiến trẻ phải dùng thêm nhiều thuốc ức chế miễn dịch khác để điều trị, tác dụng phụ của những thuốc này là gây nguy cơ nhiễm trùng cao, gây ra phì đại lợi cho trẻ, tăng nguy cơ mắc các bệnh răng miệng trong thời gian điều trị bệnh toàn thân. Bảng 2 cho biết chỉ số vệ sinh răng miệng đơn giản đạt mức trung bình. Điều này được giải thích do kiến thức - thái độ - hành vi chăm sóc răng miệng của trẻ chưa tốt, gia đình chưa hướng dẫn trẻ vệ sinh răng miệng đúng cách, chưa hiểu rõ vai trò quan trọng của việc chải răng hằng ngày của trẻ. Chăm sóc răng miệng không tốt sẽ dẫn đến tăng tỉ lệ bệnh viêm lợi ở trẻ. Ngược lại thì những tác dụng phụ của thuốc khi điều trị HCTHTP lại gây ra bệnh viêm lợi, phì đại lợi khiến việc vệ sinh răng miệng của trẻ khó khăn hơn. Kết quả này tương đương với kết quả của tác giả N.S Venkatesh Babu và Sinjana Jana12 nhưng thấp hơn kết quả của Phạm Thị Phượng và CS.4 Bảng 3 cho thấy tỉ lệ viêm lợi chiếm 63,9% trong đó nhóm 13 – 18 tuổi có tỉ lệ cao nhất (77,0%) điều này cho thấy những trẻ điều trị bệnh lâu dài và nhiều lần tái phát thì có nguy cơ viêm lợi cao. Ví dụ như chứng khô miệng gặp phải khi trẻ sử dụng thuốc điều chỉnh huyết áp là một trong những nguyên nhân làm tăng nguy cơ viêm lợi. Tuy nhiên đa số trẻ chỉ mắc viêm lợi độ 1 (48,4%). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của tác giả N.S Venkatesh Babu và Sinjana Jana: 66,0% trẻ có viêm lợi mức độ nhẹ. Điều này được giải thích việc thiếu phản ứng viêm có thể do sự ngăn chặn của các yếu tố viêm hoặc do giảm nồng độ hemoglobin dẫn tới lợi nhợt nhạt mặc dù có dấu hiệu viêm. Có 50/407 trẻ (chiếm 12,3%) bị phì đại lợi.Trẻ thuộc thể bệnh kháng thuốc với chỉ định điều trị kết hợp Cyclosporin có nguy cơ bị phì đại lợi cao nhất. Kết luận này đã được báo cáo trong rất nhiều nghiên cứu của các tác giả như Wright G, Welbury R.R, Hosey M.T hay Suzanne D.A và CS. Mặc dù tỉ lệ viêm lợi và lợi phì đại ở trẻ mắc HCTHTP khá cao nhưng hầu hết cha mẹ trẻ chưa có kiến thức về bệnh răng miệng, chỉ đưa trẻ đi khám răng hàm mặt khi con bị đau và chưa hiểu mối liên quan giữa bệnh răng miệng và bệnh toàn thân mà trẻ đang mắc phải. Kết quả của chúng tôi thấp hơn nghiên cứu của Phạm Thị Phượng và CS4 và một số nghiên cứu trên những trẻ mắc bệnh lý thận mạn tính. Sự khác biệt này có thể do đối tượng nghiên cứu của chúng tôi khác độ tuổi của các tác giả khác và nghiên cứu của chúng tôi về thời gian dùng thuốc Cyclosporin ngắn hơn. Bảng 4 cho thấy, có 267 trẻ có răng sữa chỉ số DMFT/DMFS là 5,63/9,94. Chỉ số răng sữa sâu không được điều trị của nhóm trẻ mắc HCTHTP là khá cao (5,25) trong khi chỉ số răng sữa được điều trị (bao gồm mất răng và trám răng) thì rất thấp (0,14 và 0,24), sự quan tâm của cha mẹ với bộ răng sữa không cao, cha mẹ nghĩ rằng răng sữa sẽ sớm được thay thế bằng răng vĩnh viễn. Nếu cứ để tình trạng sâu răng không được điều trị như vậy kéo dài sẽ ảnh hưởng lớn đến sức nhai, đến chất lượng hàm răng vĩnh viễn cũng như ảnh hưởng đến tình trạng và kết quả điều trị bệnh mà trẻ đang mắc phải. Chỉ số dmft/dmfs theo từng nhóm tuổi có sự khác nhau, trong đó DMFT/DMFS ở nhóm tuổi 3 – 6 tuổi cao nhất. Kết quả của chúng tôi tương tự với tác giả Tống Minh Sơn và CS,3 Phạm Thị Phượng và CS.4 Bảng 5 cho thấy chỉ số DMFT/DMFS của nhóm đối tượng nghiên cứu là 1,36/1,81. Trung bình mỗi trẻ có 1,26 răng vĩnh viễn sâu. Chỉ số DMFT đối với từng nhóm tuổi có sự thay TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 60 TCNCYH 142 (6) - 2021 đổi khác nhau, tăng dần theo nhóm tuổi. Điều nay phù hợp với quá trình thay răng sữa bằng răng vĩnh viễn của trẻ và phù hợp với đặc điểm bệnh đã được WHO 13 đưa ra, đó là: tuổi càng tăng thì càng có sự tích lũy sâu răng. Răng bị sâu nhiều nhất là răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất (răng mọc vào lúc trẻ 6-7 tuổi) và cha mẹ thường nghĩ rằng đó vẫn là răng sữa nên tỉ lệ răng vĩnh viễn sâu được điều trị là rất thấp (0,08). Điều này chứng tỏ sự quan tâm của gia đình và xã hội đến sức khỏe răng miệng cho nhóm trẻ mắc HCTHTP còn rất hạn chế, truyền thông sức khỏe răng miệng vẫn chưa đủ mạnh khiến bố mẹ đưa trẻ đi khám và điều trị, đặc biệt là thăm khám định kì và điều trị dự phòng. Bảng 6 cho thấy có 11,1% trẻ có KKPTMR vĩnh viễn, trong đó 5,7% với loại tổn thương mờ đục có ranh giới rõ chiếm tỉ lệ cao nhất, kế đến là ổn thương thiểu sản men (3,0%), đứng thứ 3 là tổn thương mờ đục lan tỏa với 2,2% số trẻ. Các loại tổn thương khác điều hiếm gặp. Về sự phổ biến của các loại tổn thương, kết quả của chúng tôi tương tự với nghiên cứu của V.T.N Ngọc thực hiện tại 2 huyện Kim Bảng và A Lưới. Tỉ lệ trẻ mắc KKPTMR của chúng tôi thấp hơn kết quả nghiên cứu của Weraarchakul và CS tại Thái Lan (27,8%), Subramaniam và CS tại Ấn Độ (76,2%), có thể do số lượng nghiên cứu khác nhau và môi trường sinh sống khác nhau. V. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 407 trẻ mắc hội chứng thận hư tiên phát tại Khoa Thận - Lọc máu Bệnh viện Nhi Trung Ương cho thấy các bệnh răng miệng chủ yếu gặp trên đối tượng bệnh nhân trong giai đoạn nghiên cứu là bệnh viêm lợi, lợi phì đại, sâu răng sữa, khiếm khuyết phát triển men răng và vệ sinh răng miệng chưa tốt. Có sự ảnh hưởng qua lại giữa bệnh răng miệng và bệnh toàn thân. Cần tăng cường kiến thức, hành vi, thái độ của trẻ và gia đình có trẻ mắc HCTHTP về bệnh răng miệng. Các can thiệp sớm như thăm khám định kì, điều trị dự phòng bệnh răng miệng nên khuyến cáo cho những trẻ mắc HCTHTP lần đầu để nâng cao sức khỏe răng miệng và dự phòng các biến chứng do điều trị bệnh toàn thân gây ra. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Kassebaum NJ, Smith AGC, Bernabé E, et al. Global, Regional, and National Prev- alence, Incidence, and Disability-Adjusted Life Years for Oral Conditions for 195 Coun- tries, 1990-2015: A Systematic Analysis for the Global Burden of Diseases, Injuries, and Risk Factors. J Dent Res. 2017;96(4):380-387. doi:10.1177/0022034517693566. 2. Trương Mạnh Dũng, Vũ Mạnh Tuấn. thực trạng bệnh răng miệng và một số yếu tố liên quan ở trẻ 4-8 tuổi tại 5 tỉnh thành của Việt Nam năm 2010. Tạp chí Học Thực Hành. 2011;12:56-59. 3. Son TM, Huong NT, Hanh TTM, et al. Dental Caries Status and Relevant Factors in Children with Primary Nephrotic Syndrome in National Children Hospital, Vietnam. Int J Oral Craniofacial Sci. 2018;4(1):001-004. 4. Phạm Thị Phượng, Tống Minh Sơn, Lê Hưng. Thực trạng sâu răng, viêm lợi và một số yếu tố liên quan ở trẻ em mắc hội chứng thận hư tiên phát tại Bệnh viện Nhi Trung ương”. Tạp Chí Học Thực Hành. 2017;(1060):19-21. 5. Lê Nam Trà, Trần Đình Long, Đỗ Bích Hằng. Tình hình bệnh thận, tiết niệu của trẻ em được điều trị tại Viện Nhi 1981-1990. Kỷ yếu Công Trình Nhi Khoa. Published online 1994:161-162. 6. Kliegman RM, Geme JSt. Nephrotic Syn- drome. In: Nelson Textbook of Pediatrics. Vol 2. 21st Edition. Elsevier; 2019:4264 / 15739. Accessed April 4, 2020. https://www.elsevier. com/books/nelson-textbook-of-pediatrics-2-vol- ume-set/kliegman/978-0-323-52950-1. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 61TCNCYH 142 (6) - 2021 7. Greene JC. The Oral Hygiene In- dex--development and uses. J Periodontol. 1967;38(6):Suppl:625-637. doi:https://doi. org/10.1902/jop.1967.38.6_part2.625. 8. Loe H, Silness j. periodontal disease in pregnancy. i. prevalence and severi- ty. Acta Odontol Scand. 1963;21:533-551. doi:10.3109/00016356309011240. 9. McGaw WT. Cyclosporine-induced gingi- val over An ultrastructural stereo. 1988;65(2):5. 10. Honkala E, Runnel R, Honkala S, et al. Measuring Dental Caries in the Mixed Den- tition by ICDAS. Int J Dent. 2011;2011:1-6. doi:10.1155/2011/150424. 11. Clarkson J, O’Mullane’ D. A Modified DDE Index for Use in Epidemiological Studies of Enamel Defects. Published online 1989:7. 12. Babu NSV, Jana S. Assessment of Oral Health Status in Children Suffering from Nephrotic Syndrome. 2014;2(2):5. 13. Petersen PE. The World Oral Health Report 2003: continuous improvement of oral health in the 21st century--the approach of the WHO Global Oral Health Programme. Community Dent Oral Epidemiol. 2003;31 Suppl 1:3-23. doi:10.1046/j..2003.com122.x. Summary THE ORAL HEALTH OF CHILDREN WITH PRIMARY NEPHROTIC SYNDROME IN THE VIETNAM NATIONAL HOSPITAL OF PEDIATRICS Oral disease is one of the most common diseases globally, causing serious health and economic burdens and reducing the quality of life. According to the literature, patients with nephrotic syndrome have destroyed hard tissue and surrounding parts of the teeth due to long-term drug treatment. In addition, regular hospitalization and specific diet also affect the care and prevention of oral diseases. The purpose of this study is to describe the oral and dental diseases of children with primary nephrotic syndrome at the National Hospital of Pediatrics. This cross-sectional descriptive study was performed in 407 children diagnosed for primary nephrotic disease. The results are as follows: 75.6% of children are boys, the oral hygiene index is average, 63.9% children with gingivitis, 12.3% children with hypertrophic gingivitis, 78.6% children with caries, the index of dental caries in primary dentition (dmft/dmfs) is 5.6 ± 4.4/9.9 ± 10.7; permanent dentition (DMFT/DMFS) is 1.4 ± 1.9/1.8 ± 2.8; 11,1% children have developmental defects of enamel with demarcated opacities as the most common defect. Keywords: primary nephrotic syndrome, oral disease, oral hygiene, dental caries, gingivitis, hypertrophic gingivitis, developmental defects of enamel.
File đính kèm:
- dac_diem_benh_rang_mieng_o_tre_mac_hoi_chung_than_hu_tien_ph.pdf