Chương trình giáo dục trong nhà trường giúp nâng cao nhận thức về sức khoẻ sinh sản: nghiên cứu can thiệp trên học sinh trường THPT Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn
Học sinh ở khu vực miền núi có thể phải đối mặt với những rắc rối do thiếu thông
tin chính xác về sức khoẻ sinh sản (SKSS). Do vậy, các chương trình giáo dục tại trường
học giúp giải quyết vấn đề này là cần thiết. Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định hiệu
quả của chương trình can thiệp giáo dục tại trường học về SKSS trong việc nâng cao nhận
thức của học sinh 17 tuổi tại trường trung học phổ thông Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.
Nghiên cứu được thực hiện trong khoảng thời gian 4 tuần. Tổng cộng có 100 học sinh được
chọn ngẫu nhiên từ học sinh khối 11 của trường và được chia thành 2 nhóm (nhóm đối
chứng và nhóm can thiệp). Một bộ câu hỏi trắc nghiệm gồm 30 câu đã được sử dụng để
kiểm tra kiến thức của tất cả học sinh tham gia liên quan đến SKSS sau can thiệp. Dữ liệu
được phân tích bằng SPSS phiên bản 16.0. Kết quả được biểu diễn theo tỉ lệ phần trăm,
kiểm định Chi-square được sử dụng để kiểm tra hiệu quả can thiệp. Kết quả điều tra trên
450 học sinh cho thấy, có 98,7% học sinh cho rằng giáo dục SKSS cho học sinh là cần
thiết; 80% học sinh đều cho rằng nguồn cung cấp kiến thức giáo dục SKSS thích hợp cho vị
thành niên là “Nhà trường”. Điểm số bài kiểm tra của nhóm can thiệp cao hơn đáng kể so
với nhóm đối chứng sau can thiệp (25,34 so với 17,26, P < 0,001). Học sinh tham gia có
sự gia tăng đáng kể về kiến thức liên quan đến các phương pháp tránh thai, nhiễm khuẩn
lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS (P <0,001). Nhóm can thiệp có tỉ lệ đồng ý
với các quan điểm của pháp lệnh dân số - kế hoạch hóa gia đình của nhà nước cao hơn so
với nhóm đối chứng. Vì vậy, chương trình can thiệp giáo dục SKSS giúp nâng cao kiến
thức và nhận thức của học sinh trường trung học Trang Đình, tỉnh Lạng Sơn về SKSS.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chương trình giáo dục trong nhà trường giúp nâng cao nhận thức về sức khoẻ sinh sản: nghiên cứu can thiệp trên học sinh trường THPT Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn
20 HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1059.2019-0048 Natural Sciences, 2019, Volume 64, Issue 10A, pp. 20-29 This paper is available online at CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC TRONG NHÀ TRƯỜNG GIÚP NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ SỨC KHOẺ SINH SẢN: NGHIÊN CỨU CAN THIỆP TRÊN HỌC SINH TRƯỜNG THPT TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN Dương Thị Anh Đào1* , Nguyễn Thị Hồng Hạnh1, Nguyễn Thị Trung Thu1, Lê Thị Tuyết1, Đỗ Thị Như Trang1 và Nông Văn Nhân2 1 Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2Trường Cao đẳng Y tế Lạng Sơn Tóm tắt. Học sinh ở khu vực miền núi có thể phải đối mặt với những rắc rối do thiếu thông tin chính xác về sức khoẻ sinh sản (SKSS). Do vậy, các chương trình giáo dục tại trường học giúp giải quyết vấn đề này là cần thiết. Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định hiệu quả của chương trình can thiệp giáo dục tại trường học về SKSS trong việc nâng cao nhận thức của học sinh 17 tuổi tại trường trung học phổ thông Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn. Nghiên cứu được thực hiện trong khoảng thời gian 4 tuần. Tổng cộng có 100 học sinh được chọn ngẫu nhiên từ học sinh khối 11 của trường và được chia thành 2 nhóm (nhóm đối chứng và nhóm can thiệp). Một bộ câu hỏi trắc nghiệm gồm 30 câu đã được sử dụng để kiểm tra kiến thức của tất cả học sinh tham gia liên quan đến SKSS sau can thiệp. Dữ liệu được phân tích bằng SPSS phiên bản 16.0. Kết quả được biểu diễn theo tỉ lệ phần trăm, kiểm định Chi-square được sử dụng để kiểm tra hiệu quả can thiệp. Kết quả điều tra trên 450 học sinh cho thấy, có 98,7% học sinh cho rằng giáo dục SKSS cho học sinh là cần thiết; 80% học sinh đều cho rằng nguồn cung cấp kiến thức giáo dục SKSS thích hợp cho vị thành niên là “Nhà trường”. Điểm số bài kiểm tra của nhóm can thiệp cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng sau can thiệp (25,34 so với 17,26, P < 0,001). Học sinh tham gia có sự gia tăng đáng kể về kiến thức liên quan đến các phương pháp tránh thai, nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS (P <0,001). Nhóm can thiệp có tỉ lệ đồng ý với các quan điểm của pháp lệnh dân số - kế hoạch hóa gia đình của nhà nước cao hơn so với nhóm đối chứng. Vì vậy, chương trình can thiệp giáo dục SKSS giúp nâng cao kiến thức và nhận thức của học sinh trường trung học Trang Đình, tỉnh Lạng Sơn về SKSS. Từ khóa: Giáo dục sức khoẻ sinh sản, can thiệp, THPT Tràng Định. 1. Mở đầu Lứa tuổi học sinh trung học phổ thông (THPT) nói riêng và lứa tuổi vị thành niên nói chung là giai đoạn không chỉ tăng trưởng và thay đổi về thể chất mà còn cả sự thay đổi và tăng trưởng về cảm xúc, tâm lí, xã hội và tinh thần [1]. Đây cũng là giai đoạn gia tăng những lo ngại về những vấn đề liên quan đến sức khoẻ sinh sản (SKSS) [2]. Nghiên cứu của Bruce và cộng sự (2003) đã ước tính khoảng 100 triệu cô gái sẽ kết hôn trước 18 tuổi, chiếm một phần ba tổng số các cô gái trong độ tuổi vị thành niên ở các nước đang phát triển [3]. Ở Ấn Độ, 27% thanh thiếu niên nữ đã kết hôn cho rằng họ không được đáp ứng nhu cầu tránh thai. Hơn 35% trong tổng số các trường hợp nhiễm HIV/AIDS được phát hiện ở nhóm tuổi từ 15-24 [4]. Ở Mỹ, theo Finer, tỉ lệ mang thai ngoài ý muốn ở lứa tuổi 15-19 chiếm tới 82% trong tổng số trường hợp mang thai Ngày nhận bài: 19/8/2019. Ngày sửa bài: 29/9/2019. Ngày nhận đăng: 1/10/2019. Tác giả liên hệ: Dương Thị Anh Đào. Địa chỉ e-mail: daodangduc@gmail.com Chương trình giáo dục trong nhà trường giúp nâng cao nhận thức về sức khoẻ sinh sản 21 ở độ tuổi này [5]. Ở Việt Nam, theo báo cáo của Vụ Sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, Bộ Y tế, năm 2015, tỉ lệ mang thai ở tuổi vị thành niên chiếm 2,66% so với tổng số vị thành niên; có 42.354 ca sinh ở độ tuổi này, chiếm 2,53% trong tổng số ca sinh của cả nước; số ca phá thai ở tuổi vị thành niên là 5.548 ca [6]. Do vậy, các chương trình giáo dục SKSS cho vị thành niên nói chung và vị thành niên thuộc các vùng dân tộc thiểu số nói riêng là cần thiết nhằm giảm tỉ lệ kết hôn sớm, giảm mang thai ở tuổi vị thành niên, đáp ứng nhu cầu tránh thai, giảm tỉ lệ nhiễm HIV/AIDS và các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục, góp phần giảm tỉ lệ tử vong ở bà mẹ và trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu tập trung vào dân cư thành thị, ít nghiên cứu ở khu vực nông thôn và miền núi [3, 4, 5]. Trường THPT Tràng Định thuộc huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn - một tỉnh miền núi ở nước ta. Phần lớn học sinh ở đây là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở các thôn, bản xa trung tâm, điều kiện kinh tế khó khăn. Kết quả điều tra thực trạng hiểu biết về SKSS cho thấy nhận thức của học sinh tại đây còn nhiều hạn chế. Có 12,9% học sinh không biết về hậu quả của quan hệ tình dục trước hôn nhân; 30,4% học sinh không biết nạo, phá thai có phải là biện pháp tránh thai hay không và 20,8% học sinh không biết bất kỳ biện pháp tránh thai nào. Tỉ lệ học sinh biết 3 loại nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục trở lên còn thấp (32,9%), nhiều học sinh hiểu không đúng về con đường lây truyền các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục. Vì vậy, nghiên cứu này được tiến hành nhằm mục tiêu nâng cao nhận thức về SKSS cho học sinh trường THPT Tràng Định, từ đó giúp các em có thể chủ động bảo vệ sức khỏe bản thân và tuyên truyền cho những người xung quanh. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 2.1.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện trên học sinh trường THPT Tràng Định, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn Nghiên cứu được chia thành hai giai đoạn: - Giai đoạn 1: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 450 học sinh (gồm 150 học sinh khối 10, 150 học sinh khối 11, 150 học sinh khối 12). - Giai đoạn 2: Nghiên cứu can thiệp trên 100 học sinh khối 11 (17 tuổi). Cỡ mẫu cho nghiên cứu cắt ngang và nghiên cứu can thiệp được tính theo công thức tính cỡ mẫu dùng cho nghiên cứu y sinh [7]. Học sinh được chọn theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, loại trừ những học sinh mắc các rối loạn tâm thần. Học sinh được giải thích mục ... ao tương ứng là 74,0%; 76,0%; 28,0% và 28,0%. Đối với các bệnh như “Nhiễm khuẩn mụn rộp Herpes”, “Nhiễm khuẩn sùi mào gà”, “Nhiễm khuẩn nấm Candida”, “Nhiễm khuẩn viêm gan B”, tỉ lệ học sinh “Biết rõ nguyên nhân, triệu chứng và cách phòng tránh” ở nhóm ĐC tương ứng là 2,0% 14,0%; 4,0% và 20,0%. Còn ở nhóm TN0 tỉ lệ này tăng lên tương ứng là 64,0%; 70,0%; 60,0% và 76,0%. Tỉ lệ học sinh “Biết rõ nguyên nhân, triệu chứng và cách phòng tránh” giữa nhóm ĐC và TN0 có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê (P < 0,001). Hình 4. Tỉ lệ học sinh biết rõ nguyên nhân, triệu chứng và cách phòng tránh các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS * P < 0,001, P thu được từ kiểm định Chi-square 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100% 12.0% 18.0% 4.0% 6.0% 2.0% 14.0% 4.0% 20.0% 74.0%74.0% 76.0% 28.0% 28.0% 64.0% 70.0% 60.0% 76.0% 92.0% Đối chứng Thực nghiệm * * * * * * * * * Dương Thị Anh Đào*, N.T.H.Hạnh, N.T.T.Thu, L.T.Tuyết, Đ.T.N.Trang và N.V. Nhân 26 Đối với “HIV/AIDS”, mặc dù đây là hội chứng được tuyên truyền sâu rộng nhất so với các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục khác nhưng tỉ lệ học sinh ở nhóm ĐC “Biết rõ nguyên nhân, triệu chứng và cách phòng tránh” cũng chỉ đạt 74,0%. Trong khi đó nghiên cứu của Dương Thị Anh Đào và cộng sự ở Sinh viên Cao đẳng Y Thái Bình là 78% [20] và qua nghiên cứu chúng tôi thấy vẫn còn 6,0% học sinh chưa từng nghe về HIV/AIDS. Ở nhóm TN0 tỉ lệ học sinh “Biết rõ nguyên nhân, triệu chứng và cách phòng tránh” đối với HIV/AIDS đã tăng lên đáng kể, chiếm 92,0%. Tỉ lệ học sinh hiểu biết về HIV/AIDS giữa nhóm ĐC và TN0 có sự sai khác ý nghĩa (P<0,05). * Quan điểm về kế hoạch hóa gia đình Quan điểm về kế hoạch hóa gia đình của học sinh được thể hiện trong Bảng 2. Với quan điểm “Trinh tiết trước hôn nhân là quan trọng”, tỉ lệ học sinh không đồng ý với quan điểm này ở nhóm ĐC và TN0 khá cao tương ứng là 46% và 44%. Điều này cho thấy, ngày nay có nhiều bạn trẻ thích sống theo lối sống tự do của phương tây nên các bạn thể hiện ý kiến không quan trọng vấn đề trinh tiết trước hôn nhân. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều ý kiến theo quan niệm văn hóa truyền thống Việt Nam, đó là coi trọng trinh tiết trước hôn nhân, do đó tỉ lệ đồng ý nhóm TN0 là 52% cao hơn nhóm ĐC (30%). Hầu hết nhóm ĐC và TN0 đều đưa ra quan điểm “Đồng ý” cao hơn so với “Không đồng ý” hoặc “Chưa rõ” (P < 0,05). Bảng 2. Quan điểm về vấn đề kế hoạch hóa gia đình của học sinh Quan điểm Đối chứng Thực nghiệm P Đồng ý n (%) Chưa rõ n (%) Không đồng ý n (%) Đồng ý n (%) Chưa rõ n (%) Không đồng ý n (%) Trinh tiết trước hôn nhân là quan trọng 15 (30) 12 (24) 23 (46) 26 (52) 2 (4) 22 (44) 0,006 Chỉ QHTD trong hôn nhân 31 (62) 18 (36) 1 (2) 44 (88) 1 (2) 5 (10) 0,112 Nên sử dụng các biện pháp tránh thai trong QHTD trước hôn nhân 42 (84) 7 (14) 1 (2) 44 (88) 1 (2) 5 (10) 0,029 Tuổi kết hôn của nữ thích hợp từ 20 tuổi trở lên 43 (86) 4 (8) 3 (6) 47 (94) 0 (0) 3 (6) 0,148 Tuổi kết hôn của nam thích hợp từ 22 tuổi trở lên 45 (90) 3 (6) 2 (4) 46 (92) 0 (0) 4 (8) 0,191 Khoảng cách giữa 2 lần sinh là 5 năm 32 (64) 16 (32) 2 (4) 46 (92) 3 (6) 1 (2) 0,001 Mỗi gia đình chỉ nên có 1 hoặc 2 con 48 (96) 2 (4) 0 (0) 49 (98) 0 (0) 1 (2) 0,499 Tuổi sinh con đầu lòng ở nữ thích hợp từ 22 tuổi trở nên 36 (72) 12 (24) 2 (4) 44 (88) 2 (4) 4 (8) 0,011 Chương trình giáo dục trong nhà trường giúp nâng cao nhận thức về sức khoẻ sinh sản 27 Các kết quả của chúng tôi đều thấp hơn so với trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Hạnh và cộng sự, do sự khác nhau về đối tượng nghiên cứu - đối tượng trong nghiên cứu của chúng tôi là các học sinh lớp 11, chưa có sự hiểu biết nhiều các vấn đề về kế hoạch hóa gia đình [13]. Với quan điểm “Khoảng cách giữa hai lần sinh là 5 năm”, tỉ lệ học sinh đồng ý ở nhóm thực nghiệm cao hơn hẳn so với nhóm đối chứng (92% so với 64%, P = 0,001). Tỉ lệ học sinh không đồng ý “Nên sử dụng biện pháp tránh thai trong QHTD trước hôn nhân” ở cả nhóm TN0 cao hơn nhóm ĐC (10% so với 2%, P = 0,029). Tỉ lệ học sinh không rõ về tuổi sinh con đầu lòng ở nhóm ĐC là 24%, trong khi đó tỉ lệ này ở nhóm TN0 chỉ là 4% (P = 0,011). Như vậy, quan điểm về SKSS của học sinh có sự khác biệt giữa nhóm ĐC và nhóm TN0. Như vậy, chương trình can thiệp bằng giáo dục tại nhà trường giúp nâng cao nhận thức của học sinh trường Tràng Định về SKSS. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra hiệu quả các các chương trình giáo dục SKSS trong nhà trường. Theo nghiên cứu của Coyle [21] trên 3.869 học sinh ở 20 trường trung học ở California và Texas, sau 31 tháng, chương trình “Lựa chọn an toàn” có hiệu quả rất lớn trong việc giảm các hành vi nguy cơ đối với HIV, các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục khác và mang thai đồng thời tăng cường hành vi sử dụng bao cao su, giảm tần suất giao hợp so với ba tháng trước khi khảo sát, tăng tỉ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai khác. Khi tiến hành phân tích tổng hợp 97 nghiên cứu về hiệu quả của các chương trình giáo dục SKSS trong nhà trường, Kirby [11] cũng chỉ ra rằng 34% trong số 73 chương trình can thiệp về thời điểm bắt đầu quan hệ tình dục đã làm tăng tuổi bắt đầu quan hệ tình dục ở vị thành niên. Tuy nhiên, tại Việt Nam, các chương trình giáo dục SKSS trong trường học còn hạn chế, đặc biệt là ở miền núi. Hầu hết các chương trình là chương trình thí điểm của các tổ chức phi chính phủ được tài trợ chủ yếu bởi các nguồn lực quốc tế ở một số địa điểm cụ thể [22]. Do đó, tính bền vững của các chương trình này là một vấn đề cần quan tâm. Kết quả nghiên cứu này đã chỉ ra rằng chương trình can thiệp có hiệu quả trong nâng cao nhận thức của học sinh về SKSS. Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn còn tồn tại một số hạn chế như cỡ mẫu cho nghiên cứu chưa cao; thời gian can thiệp còn ngắn; mới có chỉ có một lần đánh giá sau can thiệp. Do vậy, cần có những nghiên cứu dài hạn hơn giúp thay đổi nhận thức, quan điểm và hành vi liên quan đến SKSS của vị thành niên một cách bền vững. 3. Kết luận 98,7% học sinh cho rằng cần phải giáo dục SKSS cho vị thành niên với các nội dung SKSS mong muốn được học như SKSS vị thành niên (66,0%), các nhiễm khuẩn LTQDTD và HIV/AIDS (57,6%), các biện pháp tránh thai và nguồn cung cấp (52,0%). Sau can thiệp, điểm trung bình bài kiểm tra về kiến thức SKSS ở nhóm TN0 cao hơn hẳn so với nhóm ĐC (25,34 so với 17,26, P < 0,001). Hiểu biết về các biện pháp tránh thai, nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS ở nhóm TN0 cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm ĐC (P < 0,001). Nhóm TN0 có tỉ lệ đồng ý với những quan điểm theo pháp lệnh dân số - kế hoạch hóa gia đình của Nhà nước cao hơn so với nhóm ĐC. Như vậy, chương trình can thiệp bằng giáo dục tại nhà trường giúp nâng cao nhận thức của học sinh trường Tràng Định về SKSS. Cần tiếp tục thực hiện những nghiên cứu tiếp theo để có thêm dữ liệu, làm cơ sở đưa ra các phương pháp giáo dục phù hợp với lứa tuổi vị thành niên, giúp các em có hiểu biết đúng đắn về SKSS và biết cách bảo vệ sức khỏe cho bản thân và trợ giúp những người xung quanh. Dương Thị Anh Đào*, N.T.H.Hạnh, N.T.T.Thu, L.T.Tuyết, Đ.T.N.Trang và N.V. Nhân 28 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. J. Goldenring, 2004. Puberty and adolescence. A Review provided by VeriMed Healthcare Network. Medline plus US National library of Medicine. [2]. Guidelines on Reproductive Health, 1995. New York: United Nations Population Information Network (popin); UNFPA. [3]. J. Bruce J and S. Clark S., 2003. Including Married Adolescents in Adolescent Reproductive Health and HIV/AIDS Policy, presented at WHO/UNFPA/Population Council Technical Consultation on Married Adolescents, Geneva. [4]. Government of India, New Delhi, 2007. National Family Health Survey (NFHS-3) 2005-06. [5]. L.B. Finer and M.R. Zolna, 2011. Unintended pregnancy in the United States: incidence and disparities, 2006. Contraception, 84(5), 478-485. [6]. Vụ Sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, 2015. Bộ Y tế. [7]. Nguyễn Văn Tuấn, 2008. Y học thực chứng, NXB Y học. [8]. Dương Thị Anh Đào, Nguyễn Thị Quyên, 2017. Thực trạng và giải pháp nâng cao nhận thức về SKSS của sinh viên trường Cao đẳng Asean, Tỉnh Hưng Yên. Tạp chí Khoa học – ĐHSP Hà Nội, 62 (3), 127 -134. [9]. B. Francis and C. Skelton, 2001. Men Teachers and the Construction of Heterosexual Masculinity in the Classroom. Sex Education, 1 (1), 9-21. [10]. D.J. Chambers, van Loon and E. Tincknell, 2004. Teachers' Views of Teenage Sexual Morality. British Journal of Sociology of Education, 25(5), 253-276. [11]. D. Kirby, 2011. The impact of sex education on the sexual behaviour of young people. United Nations. Department of Economic and Social Affairs, Population Division. [12]. M. Henderson, D. Wight, G.M. Raab, C. Abraham, A. Parkes, S. Scott, G. Hart, 2007. Impact of a theoretically based sex education programme (SHARE) delivered by teachers on NHS registered conceptions and terminations: final results of cluster randomised trial. BMJ, 334(7585), 133. [13]. Nguyen Thi Hong Hanh, Duong Thi Anh Dao, Le Thi Tuyet, Nguyen Thi Trung Thu, Nguyen Phuc Hung, 2014. Knowledge and personal opinions of secondary school biology teachers in Ha Noi and Dien Bien about reproductive health. Journal of Science of HNUE, 9, 3-10. [14]. Bộ Y tế và Tổng cục DS - KHHGĐ, 2010. Điều tra quốc gia về vị thành niên, thanh niên SAVY 2, Hà Nội. [15]. Bộ Y tế – Tổng cục DS/KHHGĐ, 2009. Những điều giáo viên cần biết để giáo dục kĩ năng sống và SKSS vị thành niên, Hà Nội. [16]. Bộ Y tế – Tổng cục DS/KHHGĐ, 2009. Những điều cha mẹ cần biết để giáo dục kĩ năng sống và SKSS vị thành niên, Hà Nội. [17]. Nguyễn Thị Nga, Hứa Thanh Thủy, Nguyễn Thái Quỳnh Chi, Đinh Thu Hà, Nguyễn Thu Hà, Nguyễn Thanh Hương, 2012. Kiến thức, thái độ và thực hành về SKSS và sức khỏe tình dục của vị thành niên và phụ nữ 15 – 49 tại huyện Na Rì, Bắc Kạn. Tạp chí Y tế Công cộng, 26. [18]. Tôn Thất Chiểu, 2012. Khảo sát đánh giá nhận thức, thái độ, hành vi về SKSS của vị thành niên – thanh niên 15 – 24 tuổi vùng ven biển, đầm phá, vạn đò tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2010, Tạp chí Y học thực hành, 805. [19]. Vụ Sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, 2010. Bộ Y tế. Chương trình giáo dục trong nhà trường giúp nâng cao nhận thức về sức khoẻ sinh sản 29 [20]. Dương Thị Anh Đào, Đỗ Thị Như Trang, Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Hoàng Thị Loan Thanh, 2016. Thực trạng kiến thức, thái độ, hành vi về sinh sản của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình. Hội nghị khoa học Quốc gia lần thứ 2 về nghiên cứu và giảng dạy Sinh học ở Việt Nam, Nhà Xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 137-143. [21]. K. Coyle, K. Basen-Engquist, D. Kirby, G. Parcel, S. Banspach, J. Collins, R. Harrist, 2001. Safer choices: reducing teen pregnancy, HIV, and STDs. Public health reports, 116(1S), 82- 93. [22]. Nguyen Thi Hong Hanh, Do Thi Nhu Trang, Nguyen Thi Trung Thu, Le Thi Tuyet, Nguyen Phuc Hung and Duong Thi Anh Dao, 2017. Improving quality of sexual and reproductive health education: pilot intervention with teachers in secondary schools and pedagogical students in some educational institutions in Vietnam, Chemical and Biological Science, Hanoi National University of Education, 62(10), 176-184. ABSTRACT The effect of a school-based educational program on awareness about reproductive health: an intervention study on students at Trang Dinh High School, Lang Son province Duong Thi Anh Dao 1* , Nguyen Thi Hong Hanh 1 , Nguyen Thi Trung Thu 1 , Le Thi Tuyet 1 , Do Thi Nhu Trang 1 and Nong Van Nhan 2 1 Faculty of Biology, Hanoi National University of Education 2 Lang Son Medical College Students in mountainous areas may face troubles due to lack of correct information regarding reproductive health. Therefore, school-based educational programs that help solve this problem are necessary. The objective of this study is to determine the effectiveness of a school- based educational intervention program on reproductive health to improve the awareness of students aged 17 years in Trang Dinh High School, Lang Son province. The study was carried out over a period of 4 weeks. A total of 100 students were randomly selected from this school, and divided into 2 groups (control group and intervention group). A 30-item-structured questionnaire was used to test the knowledge of all the participants about the reproductive health after the education session. The data was analyzed using SPSS version 16.0 for Windows. Findings were described in terms of proportions and percentages; Chi-square test was used to test the effect of intervention. Survey results of 450 students showed that 98.7% of students said that it is necessary for adolescent reproductive health education; 80% of students said that "the school" is the best source of knowledge of reproductive health education. The reproductive health knowledge score of intervention group was significantly higher than that of the control group after intervention (25.34 vs. 17.26, P < 0.001). There was a significant increase in overall knowledge regarding contraceptive methods, sexually transmitted infections and HIV/AIDS (P < 0.001). The intervention group has a higher rate of agreeing with the viewpoints of the national population-family planning ordinance than that of the control group. Thus, the reproductive health education intervention programme improves the knowledge and awareness among students of Trang Dinh High School, Lang Son province regarding reproductive health. Keywords: Reproductive health education, intervention, Trang Dinh high school.
File đính kèm:
- chuong_trinh_giao_duc_trong_nha_truong_giup_nang_cao_nhan_th.pdf