Chủ đề “bản địa” - “ngoại lai” và sự suy ngẫm về căn tính văn hóa trong tiểu thuyết g. g. márquez và m. v. llosa
Gabriel Garcia Márquez và Mario Vargas Llosa là hai nhà văn danh tiếng, được đánh giá như
là những tiểu thuyết gia quan trọng bậc nhất của văn học viết bằng tiếng Tây Ban Nha thế kỷ XX,
đặc biệt khi họ đạt giải thưởng Nobel Văn học năm 1982 và 2010. Một mặt, tiểu thuyết của hai ông
đã kế thừa những truyền thống của văn học Mỹ Latinh, mặt khác, chúng vượt ra khỏi những quan
điểm chung về nền văn hóa châu lục. Chủ đề xuất hiện thường xuyên trong tác phẩm của Márquez
và Llosa là “bản địa” - “ngoại lai”, và thông qua cặp vấn đề này, họ đã thể hiện những suy ngẫm
độc đáo về căn tính văn hóa của châu lục.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Chủ đề “bản địa” - “ngoại lai” và sự suy ngẫm về căn tính văn hóa trong tiểu thuyết g. g. márquez và m. v. llosa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chủ đề “bản địa” - “ngoại lai” và sự suy ngẫm về căn tính văn hóa trong tiểu thuyết g. g. márquez và m. v. llosa
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 4 33 CHỦ ĐỀ “BẢN ĐỊA” - “NGOẠI LAI” VÀ SỰ SUY NGẪM VỀ CĂN TÍNH VĂN HÓA TRONG TIỂU THUYẾT G. G. MÁRQUEZ VÀ M. V. LLOSA Lê Ngọc Phương Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Tp. HCM ngocphuongtm@yahoo.com Nhận bài ngày: 6/6/2019; Ngày duyệt đăng: 27/08/2019 Tóm tắt Gabriel Garcia Márquez và Mario Vargas Llosa là hai nhà văn danh tiếng, được đánh giá như là những tiểu thuyết gia quan trọng bậc nhất của văn học viết bằng tiếng Tây Ban Nha thế kỷ XX, đặc biệt khi họ đạt giải thưởng Nobel Văn học năm 1982 và 2010. Một mặt, tiểu thuyết của hai ông đã kế thừa những truyền thống của văn học Mỹ Latinh, mặt khác, chúng vượt ra khỏi những quan điểm chung về nền văn hóa châu lục. Chủ đề xuất hiện thường xuyên trong tác phẩm của Márquez và Llosa là “bản địa” - “ngoại lai”, và thông qua cặp vấn đề này, họ đã thể hiện những suy ngẫm độc đáo về căn tính văn hóa của châu lục. Từ khóa: “bản địa”, “ngoại lai”, căn tính văn hóa, văn học Mỹ Latinh The themes of indigene and exoticism: thinking about cultural identity in novels of G. G. Márquez and M. V. Llosa Abstract Gabriel García Márquez and Mario Vargas Llosa were two famous writers and considered the most significant Spanish-language authors of the 20th century, especially won the Nobel Prizes in Literature in 1982 and in 2010. Many of their novels have inherited traditions of Latin American literature. On the other hand, they were somewhat rebellious from the general point of view of Latin America culture. The themes regularly appeared in Márquez and Llosa's novels as "indigene" and "exoticism", from which they showed unique reflections on the cultural identity of Latin America. Keywords: “indigene”, “exoticism”, cultural identity, Latin American literature Nhắc đến giai đoạn thịnh vượng của tiểu thuyết mới Mỹ Latinh (được mệnh danh là Latin American Boom) nghĩa là nhắc đến hàng loạt tác giả nổi danh nhất. Trong đó hai tiểu thuyết gia tiêu biểu trong giai đoạn này là Gabriel García Márquez (Colombia) và Mario Vargas Llosa (Peru) được gọi là “hai con sư tử của thế hệ/ giai đoạn Bùng nổ” khi họ mang về cho châu lục hai giải Nobel văn học năm 1982 và năm 2010. Đến từ hai quốc gia khác nhau, nhưng Márquez và Llosa có nhiều tiểu thuyết thành công cùng mang chủ đề và cấu trúc nghệ thuật vừa giống lại vừa khác nhau rõ nét. Họ xứng đáng trở thành một cặp nhà văn song hành độc đáo trong lịch sử văn học Mỹ Latinh. Tại Việt Nam, các tác phẩm của Márquez và Llosa đã được dịch từ sớm (thập niên 80 của thế kỷ trước), tuy nhiên Márquez được dịch liên tục và trở thành một trong số những nhà văn nước ngoài được dịch nhiều và nghiên cứu sâu rộng nhất ở Việt Nam. Cho đến nay, đã có nhiều công trình chuyên luận, nhiều bài báo, bài viết ngắn, và cả luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nghiên cứu về tác phẩm Márquez, đặc biệt tập trung vào tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của ông. Trong khi đó, trường hợp Llosa mới chỉ có những bài báo giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Peru này. Ở cấp độ quy mô thì chúng tôi tìm thấy luận văn thạc sĩ tập trung vào tiểu thuyết Trò chuyện trong quán La Catedral. Theo chúng tôi, nhiều VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 4 34 tiểu thuyết của Márquez và Llosa vẫn còn bỏ ngỏ, gọi mời sự tiếp tục nghiên cứu. Hơn nữa, việc tìm hiểu mang tính chất so sánh cặp nhà văn này vẫn chưa được thực hiện công phu. Một vấn đề mà Márquez và Llosa thường xuyên đặt ra trong tác phẩm chính là việc thể hiện và suy ngẫm về căn tính văn hóa dân tộc. Thực chất đây cũng là câu hỏi của nền văn học Mỹ Latinh nói chung. Márquez thuộc nhóm nhà văn ủng hộ cho khuynh hướng viết về nền văn học Mỹ Latinh như nó vốn thế và ông đã thành công rực rỡ khi thể hiện được thực tại Mỹ Latinh, tìm kiếm, khám phá bản sắc vốn có của Mỹ Latinh. Trong khi đó Llosa đại diện cho khuynh hướng biểu hiện một thực tại Mỹ Latinh như nó cần thế, nên thế. Llosa ủng hộ xu hướng quốc tế hóa, hiện đại hóa. vượt ra khỏi tính bản sắc dân tộc, thể hiện những cách tân thi pháp tiểu thuyết. Cả Márquez và Llosa đều đã soi chiếu thực tại Mỹ Latinh dưới những góc độ nghệ thuật khác nhau. Trong bài viết này, chúng tôi chọn tập trung vào vấn đề được xem là đặc trưng nhất của văn học Mỹ Latinh: sự tìm kiếm và giải đáp cho câu hỏi về căn tính văn hóa của dân tộc/ châu lục, thông qua những vấn đề trở đi trở lại trong các sáng tác nơi đây, đặc biệt tiểu thuyết của Márquez và Llosa. 1. Từ phức cảm lưu vong đến cuộc tìm kiếm căn tính văn hóa trong văn học Mỹ Latinh Trước khi thực dân châu Âu xâm lược (vào thế kỷ XV), châu Mỹ Latinh đã là nơi cư ngụ của hàng trăm cộng đồng thị tộc mà trong đó người da đỏ chiếm đa số. Những bộ tộc này vốn xây dựng được những nền văn hoá riêng biệt, độc đáo như: Aztec, Inca và Maya có lịch sử lâu đời trên 2000 năm và gắn bó nhau sâu sắc. Thế nhưng, khi người Tây Ban Nha mang theo bệnh đậu mùa và cuộc xâm lấn, thổ dân không chống cự nổi và số dân bản địa đã bị giảm mạnh. Theo gót chân chinh phạt, nền văn hóa châu Âu bước vào vùng đất mới và dồn người da đỏ bản địa vào thế bại trận, khiến họ trở thành kẻ cư trú tạm bợ trên mảnh đất quê hương của mình. “Họ là kẻ cô đơn lang thang suốt ba trăm năm và đến ngày nay, họ vẫn cô đơn trong xã hội hiện đại” (Paz, 1998: 111). Khu vực này trở thành cuộc hợp lưu của những chủng tộc: người da đen châu Phi, người da vàng châu Á, và người lai giữa các chủng tộc này. Không khó hiểu khi văn học nơi đây chứa đựng trí tưởng tượng sôi sục, tình yêu âm nhạc, sự tín ngưỡng nguyên thủy của người da đen, tính duy cảm và những câu chuyện huyền bí phương Đông của người da vàng, sự thông minh và tư duy duy lý của người da trắng. Tất cả hòa vào nhau khiến Mỹ Latinh trở thành nơi gặp gỡ vừa sôi động, vừa đau thương giữa những sắc tộc, nơi hợp lưu nh ... của dân tộc ông, cái gì làm nên bản sắc dân tộc, dân tộc tính, cấu trúc tư tưởng của dân tộc ông? Và Colombia hay Mỹ Latinh sẽ như thế nào trước những đối đầu với ngoại lai và những xung đột mang tính nội tại? Theo chúng tôi, đây chính “trục chính” về mặt tư tưởng của tiểu thuyết Márquez. Tâm lý của Márquez đối với Công ty Liên hiệp hoa quả là một cảm xúc vừa yêu vừa ghét, điển hình cho thái độ vùng Caribbean đối với người Mỹ. Công ty này giải quyết nguồn lao động Colombia, đem đến sự giàu sang từ nguồn xuất khẩu hoa quả, nhưng đồng thời bỏ rơi nhân dân thành phố, đối xử bất công đối với người lao động. Thích và ghét các nước thực dân, đế quốc, đó là nỗi niềm có tính nước đôi hiện diện trên nhiều tiểu thuyết Márquez. Ngược lại, đối với vùng đất đậm chất tâm linh, Márquez đã không ít lần bị dày vò bởi cảm giác vừa luyến lưu, vừa muốn rời bỏ. Một biểu hiện rõ là Márquez viết rất hay và đầy cảm xúc về những con người thổ dân bản địa, những tập quán, những huyền thoại, và cả VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 4 38 tính dục nội hôn trong truyền thống xa xưa. Tập quán nội hôn này có nguồn gốc sâu xa từ tất cả những bộ lạc nguyên thủy, đồng thời là một tấm gương phản ánh đặc điểm tính dục nam: những con người yếu đuối luôn tìm một “anima” mạnh mẽ (kinh nghiệm) cho mình. Họ tìm kiếm chính mình qua người mẹ, người chị, người cháu, người em của mình - những người gần gũi nhất và an toàn nhất đối với họ. Điều này cho thấy nỗi cô đơn và sự mong muốn “đóng kín” trong chính mình, bộ tộc của mình. Cảm giác “nhớ quê nhà” và quan hệ tính dục cùng dòng họ luôn đi cùng với cảm giác cô đơn hoài cổ. Chúng luôn lẩn quẩn trên nhiều tiểu thuyết của Márquez với vẻ đẹp đậm chất thơ mộng, ít nhiều cho thấy Márquez thỉnh thoảng đã bị kẹt lại trong niềm nhớ nhung quá khứ. Quá khứ đối với ông là những vàng son đẹp đẽ, nó kiến tạo lịch sử Mỹ Latinh và lịch sử của số phận ông. Márquez yêu thích những gì hiện đại, nhưng cũng sợ rằng hiện đại hay văn minh sẽ làm phai nhạt những giá trị riêng thuộc về châu Mỹ Latinh. Đặc trưng tư tưởng này đã làm nên dấu ấn của Márquez, chi phối toàn bộ cấu trúc các tác phẩm như Bão lá, Trăm năm cô đơn, cả những truyện ngắn như Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Biển của thời đã mất và khiến ông mang dáng vẻ “bản địa” hơn hết thảy những nhà văn Mỹ Latinh khác. Đi từ tâm lý này, hầu hết các tiểu thuyết mang phong cách hiện thực huyền ảo của Márquez đều thể hiện đẹp đẽ không khí lãng mạn ảo diệu của nền văn hóa dân gian vẫn hiện tồn trong tập quán và tâm linh vùng ven biển Caribbean. Cách kể của Márquez có nhiều điểm tương đồng với cách kể những câu chuyện thần thoại và cổ tích. Người kể mặc nhiên thừa nhận các yếu tố hoang đường mà không giải thích, phân tích hay hoài nghi. Mỹ Latinh là vùng đất của nền văn hóa lai, vì thế mối quan tâm và quan niệm của các nhà văn về bản sắc văn hóa cũng có phần khác biệt. Asturias thường xuyên thể hiện hình ảnh nền văn hóa của người da đỏ và nỗi niềm hoài cổ. Amado lại có mối quan tâm sâu sắc đến văn hóa người da đen và vấn đề phân biệt chủng tộc. Borges và Paz thể hiện tầm cỡ của sự uyên bác, quan tâm văn hóa từ cổ chí kim, từ phương Tây sang phương Đông, ủng hộ phương hướng hiện đại hóa, quốc tế hóa. Trong khi đó, Márquez và Llosa sở trường với việc tái hiện nền văn hóa của người da trắng và người lai, thỉnh thoảng bộc lộ tình thế lưỡng lự/ lưỡng phân, trạng thái nước đôi khi đứng giữa tính chất hiện đại của văn minh phương Tây và sự lung linh huyễn hoặc của văn hóa bản địa. Thế nhưng, tư tưởng của Márquez và Llosa vẫn có nhiều sự khác biệt. Márquez có một tuổi thơ gắn bó chặt với vùng ven biển Caribbean, khu làng huyền bí với những người phụ nữ nhạy cảm và phong phú đời sống tâm linh. Trong ông đã dần hình thành nên nguyên tắc sống cũng như nguyên tắc sáng tác: Tin vào những gì mình tin là thực. Điều đó khiến tác phẩm của Márquez luôn có khuynh hướng sáng tạo nên cặp hình ảnh mang tính biểu tượng giữa cái nội sinh và ngoại sinh, đặc biệt là cặp mã “làng Macondo” và “Công ty Liên hiệp hoa quả”. Nỗi u hoài và sự giễu nhại trên các tác phẩm của Márquez gắn với sự tàn phai của nền văn hóa bản địa, sự xâm lấn dữ dội của văn hóa phương Tây trên quê hương ông. Cùng giai đoạn văn chương với Márquez, Llosa là một trường hợp có phần khác biệt. Llosa yêu thích nền văn hóa đậm màu sắc địa phương như ông từng viết: “Trong thế kỷ này, cái thế giới chúng ta sống sẽ kém sinh động và không có nhiều màu sắc như là cái thế giới mà chúng ta đã bỏ lại phía sau. Những buổi lệ hội, đồ trang sức, phong tục, nghi lễ, nghi thức và tín ngưỡng, tức là những thứ đã tạo cho nhân lọai sự khác biệt mang màu sắc dân tộc và văn hóa dân gian, đang dần dần biến mất hoặc sẽ thu mình vào trong những nhóm thiểu số” (Llosa, 2009). Nhưng với Llosa, hiện đại hóa là quá trình tất yếu không thể tránh được, từ các quốc gia tân tiến cho đến các quốc gia đang phát triển. Hoàn toàn bản sắc chỉ là trường hợp một đất nước sống trong tình trạng cô lập hoàn toàn, chấm dứt mọi trao đổi với các dân tộc khác và thực hiện một nền kinh tế tự cấp tự túc – giống như một vài bộ lạc ở châu Phi hay những bộ lạc sống trong rừng già Amazon. Với Llosa, “bản sắc văn hóa dưới hình thức như thế sẽ đưa xã hội trở lại với cách sống của thời tiền TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 4 39 sử” (Llosa, 2009). Chết trong dãy Andes là một minh chứng cho tư tưởng của ông. Ai là kẻ gây ra tội ác? Đáp án đã sáng tỏ: nghi phạm giết người hóa ra là du kích Con Đường Sáng và một cặp nọ vốn là người bán quán trong vùng kiêm biểu diễn những màn lạ lùng gợi nhớ tập tục của người Inca. Những vụ giết người tàn bạo mang tính chất chính trị ở địa phương luôn gắn với các nghi lễ hy sinh của người Inca cổ. Cảnh quan hoang dã của dãy Andes cũng chính là sự hoang dã của những tập tục nguyên thủy. Cuốn sách tràn ngập những huyền thoại nguyên thủy với hình tượng cổ thần, sơn tinh, ma quỷ và phù thủy. Chết trong dãy Andes là một trong những tác phẩm nói lên rằng Llosa ngưỡng mộ nền văn hóa bản địa - bất cứ ở một khu vực nào, nhưng ông cũng nghi ngờ sự tồn tại tích cực của nó giữa thời hiện đại. Trong bài viết: “Mario Vargas Llosa versus barbarism” (tạm dịch: Mario Vargas Llosa chống lại sự man rợ), De Castro phân tích: Llosa luôn ở vị trí đứng giữa: sự văn minh khai hóa và sự hoang dã, cổ sơ và tầm nhìn thế giới đặt ở dưới nó. Nhưng sự thực là những gì ông thể hiện về tính lưỡng phân không giống về căn bản với bản dịch thế kỷ XIX trong ô giá trị chính của thực dân (De Castro, 2010: 5-21). Tính lưỡng phân (dichotomy between civilization and barbarism) đối với Vargas Llosa là sự mâu thuẫn giữa chủ nghĩa văn minh và chủ nghĩa bản địa không chỉ liên quan đến Argentina, Peru, rộng hơn là Mỹ Latinh mà thậm chí là các khu vực khác trên thế giới như châu Phi, châu Á. Khác với quan điểm của “các ô giá trị của thực dân”, Llosa không có cái nhìn chia rẽ và phân biệt xấu - tốt, cao quý - thấp hèn Ông luôn có niềm tin về mối quan hệ giữa giá trị tự do và văn minh, một văn hóa dân chủ, khoan dung, đa nguyên, nhân quyền mới là điều con người cần thiết. Con người cá nhân cần nhất là sự tự do rời bỏ những tôn ti trật tự, những tập quán đã đặt lên họ những thiết chế vô hình và khủng khiếp. Không có gì ngạc nhiên nếu Llosa đưa ra những tuyên bố đặt trên sự nhận diện con người cá nhân, nhóm, những trào lưu chính trị, vượt lên cả những chủ nghĩa văn minh hay man rợ. Vì vậy, chúng tôi cho rằng trên tác phẩm của Llosa, hiếm có cặp mã mang tính đối lập về mặt văn hóa như trường hợp Márquez. Tác phẩm của Llosa thường hòa lẫn, đan xen nhiều biểu tượng, nhưng tựu trung vẫn là hình ảnh của một Peru chuyển mình trong nền đô thị hóa, tư bản hóa. Ở giai đoạn thịnh vượng của tiểu thuyết, với sự nhiệt thành của tuổi trẻ, Llosa phê phán mạnh mẽ nạn phân biệt chủng tộc, nạn tôn sùng quyền lực, tôn sùng những vị trưởng lão nhiều tuổi nhiều quyền thế Thành phố và lũ chó là một xã hội Peru hậu thực dân thu nhỏ, ở đó người ta thấy một nền giáo dục quân phiệt, một cách ứng xử theo lối quyền lực và phân biệt chủng tộc, phân biệt giai cấp xã hội. Tác phẩm cho thấy con người đã tiếp tục “di sản” lạc hậu đáng thương: triết lý quyền lực chi phối mọi ngóc ngách. Trong tác phẩm Thành phố và lũ chó, ta cũng bắt gặp rất nhiều nhân vật da màu bị mọi người khinh rẻ gọi bằng “thằng da đen”, “gã da đen”, “tên da đen” hoặc “đồ dân rừng rú”, “quân rừng rú hèn nhát”, “thằng miền thượng”. Tính cách của họ cũng được mặc định bởi những tính từ như: “mông muội”, “xấu xa”, “dơ bẩn”, “phản trắc và hèn nhát”, “vẹo vọ ngay đến cả linh hồn”. Peru của nửa sau thế kỷ XX vẫn là xã hội của nạn phân biệt chủng tộc, phân biệt đẳng cấp xã hội hết sức sâu sắc. Tác phẩm là thế giới của những cô gái da màu làm điếm. Họ là công cụ làm thỏa mãn bản năng tính dục của đàn ông, mỗi ngày “tiếp” hàng chục những học viên trốn ra từ trường quân sự. Giống với Márquez trong Sống để kể lại, Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi hay Tình yêu thời thổ tả, Llosa cho thấy nỗi cay đắng của những cô gái điếm - luôn luôn là những cô gái lai da màu - tầng lớp bị xếp vào loại hạ đẳng và làm những nghề thấp kém nhất xã hội. Cũng giống với Márquez, Llosa nghiêng về việc mô tả người da trắng trong xã hội, nhưng đồng thời tiểu thuyết của ông vẫn luôn cho thấy nạn phân biệt chủng tộc còn tồn tại trong văn hóa Mỹ Latinh. Ta đọc thấy những đối thoại giữa các thế hệ lịch sử, giữa các nền văn hóa, các chủng tộc khác nhau. Ta thấy những y phục rực rỡ của thổ VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 4 40 dân da đỏ miền núi, những vẻ nhếch nhác của người da đen trong khu ổ chuột, và cả vẻ kiêu kỳ của người da trắng giữa những tòa cao ốc đồ sộ. Toàn bộ tác phẩm là một xã hội bị phân rã sâu sắc giữa giàu - nghèo, đẹp đẽ - xấu xí, văn minh - lạc hậu Đi từ cảm quan này, Llosa đã sử dụng bút pháp tự sự tương ứng: phân mảnh cốt truyện, sự kiện, nhân vật, điểm nhìn để làm rã hết mọi ranh giới, tiêu chí phân biệt của hậu thực dân. Trong cuộc sống và hành trình viết, Llosa tìm cách thoát khỏi tình trạng mắc kẹt vào bản sắc của ngôn ngữ, chính quyền, phong tục, nhà thờ, thói quen nơi ông sinh ra. Ông muốn kiến tạo cái bản sắc của cá nhân, không phải là bản sắc chung của cộng đồng. Đứng trước câu hỏi về bản sắc châu Mỹ Latinh, Llosa cho rằng “phong cách Tây Ban Nha” hay “phong cách da đỏ” đều là những câu trả lời đậm màu sắc phân biệt chủng tộc. Châu Mỹ Latinh không có một mà có nhiều bản sắc văn hóa, không có bản sắc nào có thể tuyên bố là hợp pháp hơn hay trong sạch hơn những bản sắc khác. Trong tác phẩm của mình, Llosa phản ánh xã hội hiện đại còn nhiều di chứng “man rợ” (barbarism). Sự man rợ không phải ở những nghi lễ cổ xưa, bí hiểm mà là ở man rợ trong cách đối xử giữa con người khác tầng lớp, sự man rợ ở thiết chế văn hóa, chế độ chính trị ở thời hiện đại. Trên một diện rộng, một hệ thống nhân vật của Llosa được thể hiện phong phú bằng một giọng văn u buồn nhưng quyết liệt. Nhiều thiên tiểu thuyết của ông đều là những bản cáo trạng hết sức đanh thép. Có thể nói, hệ quả của cuộc giao lưu chính trị - văn hóa ở đất nước này vẫn để lại những hệ lụy sâu sắc. Llosa từng băn khoăn đứng giữa những lựa chọn: chủ nghĩa quốc tế hay chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa hiện đại hay chủ nghĩa bản địa? Tiểu thuyết của ông nói lên nỗi băn khoăn đó, và nó cũng gợi ý câu trả lời: bất cứ sự lựa chọn nào cũng cần đặt trên chủ nghĩa tự do cho con người, đó mới là quan trọng nhất. Llosa cùng quan điểm với nhà văn giai đoạn Tiền phong - Jorge Luis Borges khi cho rằng: Chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa toàn cầu là một cách mở rộng đáng kể chân trời cho tự do cá nhân. Ủng hộ cho khuynh hướng liên văn hóa này, Llosa được/bị xem là nhà văn ít tính Mỹ Latinh nhất, ngược với người cùng thời của ông là Márquez. Kết luận Có thể nói thông qua việc thể hiện chủ đề về căn tính văn hóa và cặp hình tượng “bản địa” - “ngoại lai”, Márquez và Llosa đã đề xuất những tư tưởng, quan điểm khác nhau về việc xây dựng và phát triển đời sống văn hóa của châu lục mình. Tuy nhiên, cho dẫu những quan niệm và phong cách viết của hai nhà văn này có sự khác biệt hay đối nghịch thì những đóng góp của họ đối với phương diện tư tưởng, văn hóa, và văn học đều lớn lao. Họ xứng đáng là những nhà văn dấn thân đối với sứ mệnh của chính mình, của châu lục. Theo chúng tôi, sự đóng góp lớn của các nhà văn Mỹ Latinh còn nằm ở chỗ họ đã nối kết được tính truyền thống và hiện đại, tính bản địa và quốc tế. Nói cách khác, họ đã viết bằng tiếng nói của địa phương để lan tỏa vào khung cảnh văn chương thế giới, họ đi đến cái chung mà không mất đi những chủ đề riêng, những quan niệm cá nhân của chính mình. Tài liệu tham khảo Lê Huy Bắc (2009). Chủ nghĩa Hiện thực huyền ảo và Gabriel García Márquez. Hà Nội, Nxb Giáo dục Việt Nam. De Castro J. E. (2010). Mario Vargas Llosa versus barbarism. Latin American Research Review, 45 (2), pp. 5-26. doi: 10.2307/27919193. Llosa, M. V. (2009). The culture of liberty, Foreign Policy, November 20. Phạm Nguyên Trường (dịch) (2012), Nền văn hóa của tự do. goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van- hoa/nen-van-hoa-cua-tu-do, 09/01/2019. Márquez, G. G. (2002). Vivir para contaria. Edith Grossman's English translation 2003, Living to Tell the Tale. Lê Xuân Quỳnh (dịch) (2007). Sống để kể lại. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Tổng hợp. Paz, O. (-). Thơ văn và tiểu luận. Nguyễn Trung Đức (chọn và dịch) (1998). Đà Nẵng, Nxb Đà Nẵng. Stavans, I. (2010). Gabriel García Márquez: The early years, 1st ed. St. Martin's Press; 237 pp.
File đính kèm:
- chu_de_ban_dia_ngoai_lai_va_su_suy_ngam_ve_can_tinh_van_hoa.pdf