Chính sách cai trị của Nga hoàng Nicolai II (1894-1917): nội dung và đặc điểm
Cuối thế kỷ XIX, nước Nga bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc khi chưa tiến hành cách mạng dân chủ tư sản. Vì thế, chủ nghĩa đế quốc Nga tồn tại trong khi còn giữ lại nhiều tàn tích của chế độ phong kiến.
Những mâu thuẫn xã hội chằng chéo đã khiến nước Nga trở thành nơi tập trung mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa
đế quốc và là trung tâm cách mạng. Trong bối cảnh đó, sau khi lên nắm quyền Nicolai II đã thực hiện nhiều
chính sách trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội nhằm duy trì chế độ chuyên chế và giải quyết các
mâu thuẫn tồn tại ở Nga. Chính sách cai trị của Nicolai II mang nhiều đặc điểm khác nhau, nhưng xét cho cùng
những chính sách ấy đã không đem lại kết quả như mong muốn của Nga hoàng Nicolai II. Chính sách đối nội
của ông trở thành nguyên nhân quan trọng thổi bùng ngọn lửa cách mạng ở Nga vào đầu thế kỷ XX, thiêu cháy
sự tồn tại của chế độ phong kiến Nga mà Nicolai II trở thành vị Hoàng đế cuối cùng của đất nước rộng lớn ấy.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách cai trị của Nga hoàng Nicolai II (1894-1917): nội dung và đặc điểm
83 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 23, Số 2 (2021): 83-93 *Email: nguyenphuongmai.dhhv@gmail.com TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG Tập 23, Số 2 (2021): 83-93 JOURNAL OF SCIENCE AND TECHNOLOGY HUNG VUONG UNIVERSITY Vol. 23, No. 2 (2021): 83-93 Email: tapchikhoahoc@hvu.edu.vn Website: www.hvu.edu.vn CHÍNH SÁCH CAI TRỊ CỦA NGA HOÀNG NICOLAI II (1894-1917): NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM Nguyễn Phương Mai1*, Nguyễn Thị Thu Hiền1 1Khoa Khoa học Xã hội và Văn hóa Du lịch, Trường Đại học Hùng Vương, Phú Thọ Ngày nhận bài: 06/4/2020; Ngày chỉnh sửa: 26/7/2020; Ngày duyệt đăng: 18/8/2020 Tóm tắt Cuối thế kỷ XIX, nước Nga bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc khi chưa tiến hành cách mạng dân chủ tư sản. Vì thế, chủ nghĩa đế quốc Nga tồn tại trong khi còn giữ lại nhiều tàn tích của chế độ phong kiến. Những mâu thuẫn xã hội chằng chéo đã khiến nước Nga trở thành nơi tập trung mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc và là trung tâm cách mạng. Trong bối cảnh đó, sau khi lên nắm quyền Nicolai II đã thực hiện nhiều chính sách trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội nhằm duy trì chế độ chuyên chế và giải quyết các mâu thuẫn tồn tại ở Nga. Chính sách cai trị của Nicolai II mang nhiều đặc điểm khác nhau, nhưng xét cho cùng những chính sách ấy đã không đem lại kết quả như mong muốn của Nga hoàng Nicolai II. Chính sách đối nội của ông trở thành nguyên nhân quan trọng thổi bùng ngọn lửa cách mạng ở Nga vào đầu thế kỷ XX, thiêu cháy sự tồn tại của chế độ phong kiến Nga mà Nicolai II trở thành vị Hoàng đế cuối cùng của đất nước rộng lớn ấy. Từ khóa: Nicolai II, Sa hoàng, đế quốc Nga, chính sách đối nội của Nga. 1. Đặt vấn đề Sa hoàng Nicolai II lên nối ngôi vào thập niên cuối của thế kỷ XIX, khi tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động to lớn, quan trọng nhất là sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc. Bối cảnh lịch sử ấy đặt ra cho vị Sa hoàng trẻ tuổi nhiều thách thức, làm sao để đưa nước Nga tiếp tục phát triển với những chính sách phù hợp với hoàn cảnh mới. Nicolai II đã thực hiện chính sách đối nội như thế nào trong suốt hơn 20 năm cai trị đất nước Nga rộng lớn? Những nhân tố nào ảnh hưởng đến việc hình thành chính sách đối nội của Nicolai II? Những chính sách ấy có đặc điểm gì? Bài viết sẽ đi vào giải quyết các vấn đề nêu trên. 2. Phương pháp nghiên cứu Bài viết được thực hiện dựa trên quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa đế quốc. Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài là phương pháp lịch sử và phương pháp logic: Nghiên cứu về chính sách cai trị của Sa hoàng Nicolai II, tác giả bài viết đi tìm hiểu những nhân tố tác động đến chính sách của ông, khái quát nội dung từ đó chỉ ra đặc điểm của chính sách và có đánh giá khách quan về nhân vật lịch sử này. Ngoài ra, tác giả bài viết cũng sử dụng phương pháp phân tích, nhận định, đánh giá để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. 84 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Nguyễn Phương Mai và Nguyễn Thị Thu Hiền 3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 3.1. Một vài nét về Nga hoàng Nicolai II (1868 - 1917) 3.1.1. Tiểu sử Sa hoàng Nicolai II tên đầy đủ là Nikolai Aleksandrovich Romanov (tiếng Việt phiên âm là Nicôlai II Rômanốp). Ông là con của Nga hoàng Aleksandr III và Hoàng hậu Maria Feodorovna, Công chúa Dagmar của Đan Mạch. Ông được phong làm Thái tử năm 1881. Giống như các tiên đế, ông được xem là “đệ nhất tín đồ của Chính Thống giáo nước Nga”. Năm 1894, ông chính thức lên nắm quyền ở Nga sau khi Aleksandr III mất. Cũng trong năm này, ông kết hôn với Công chúa Alexandra của Hesse - Darmstadt. Năm 1896, sau lễ đăng quang của Nicolai II, vợ ông chính thức trở thành Hoàng hậu Alexandra Feodorovna của nước Nga. Ông có năm người con, bốn công chúa là: Olga, Tatiana, Maria, Anastasia và Thái tử Aleksei Nikolayevich. Sau hơn 20 năm cai trị nước Nga (1894 - 1917) với nhiều biến cố, nhất là sau Cách mạng tháng Hai năm 1917, Nicolai II buộc phải thoái vị. Cuộc đời vị Sa hoàng cuối cùng của nước Nga và gia đình đã bị xử bắn trong một căn phòng vào ngày 17/7/1918. 3.1.2. Quá trình nắm quyền và cai trị Nicolai II cầm quyền từ ngày 01/11/1894 nhưng lễ đăng quang chính thức vào tháng 5.1896 sau khi vua cha mất. Trong thời gian cai trị nước Nga từ năm 1894 đến năm 1917, Nicolai II đã thực hiện chính sách chống lại các kêu gọi cải cách và tìm cách để duy trì chế độ cai trị tuyệt đối của Sa hoàng. Trong những năm đầu cai trị, Nicolai II đã đẩy nhân dân Nga vào cuộc chiến tranh với Nhật (1904-1905) và phải chịu thất bại thảm hại. Hậu quả lớn của cuộc chiến ấy đã làm bùng nổ cuộc cách mạng 1905-1907, buộc Nicolai II phải nhượng bộ bằng việc phê duyệt thành lập Duma (Quốc hội) mang tính đại diện, hứa hẹn cải cách hiến pháp. Tuy nhiên, vị Sa hoàng này đã sớm rút lại các nhượng bộ với nhân dân và liên tục giải tán Duma. Năm 1914, với tham vọng mở rộng lãnh thổ, đàn áp phong trào trong nước, ông đã ra lệnh tổng động viên quân đội vào tháng 8 năm 1914, đẩy nhân dân Nga vào cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Cuộc chiến đã khiến cho nước Nga lâm vào tình trạng khủng hoảng, sự bất mãn của công chúng ngày càng tăng khi thực phẩm trở nên khan hiếm, binh lính mệt mỏi vì chiến tranh. Đồng thời, những thất bại nặng nề dưới tay Đức đã chứng minh cho một nước Nga lạc hậu, yếu kém dưới thời Nicolai II. Chiến tranh khiến nước Nga lâm vào khủng hoảng, sự bất mãn với Nga hoàng ngày càng dâng cao. Những cuộc đình công diễn ra liên tục khiến chế độ của Sa hoàng cuối cùng không còn lý do để có thể tồn tại. Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Hai năm 1917, Nicolai II buộc phải thoái vị. Ông trở thành vị Sa hoàng cuối cùng của nước Nga phong kiến. 3.2. Nhân tố tác động đến sự hình thành chính sách cai trị của Nga hoàng Nicolai II 3.2.1. Nhân tố kh ... hổ về vật chất mà cả về tinh thần. Ngoài ra, chính phủ Nga hoàng còn tìm cách làm giảm đến mức tối thiểu ảnh hưởng của các danh nhân văn hóa Nga: rút phép thông công đối với Lev Tolstoi (năm 1901), không phê chuẩn việc bầu M. Gorki là viện sỹ danh dự (năm 1902), cấm tổ chức kỷ niệm 30 năm ngày mất của nhà văn Turgenev... Đối với các dân tộc ngoại vi, chính quyền Nga hoàng thực hiện chính sách “Nga hóa”. Với chính sách này, các hoạt động xuất bản sách báo bằng tiếng mẹ đẻ và dạy tiếng mẹ đẻ cho trẻ em của các dân tộc đều bị cấm. Ngoài ra, chính quyền còn tiến hành các cuộc di dân lớn. Tóm lại, vấn đề cơ bản trong chính sách đối nội của Nga hoàng Nicolai II là nhằm “bảo vệ những cơ sở Nhà nước”. Đó là sự tập trung quyền lực vào tay Hoàng đế, là sự duy trì chế độ chuyên chế. V. I. Lênin đã nhận xét về chế độ ấy: “Chế độ chuyên chế của Nga hoàng là quyền vô hạn độ của Nga hoàng. Nhân dân không được dự chút nào vào việc tổ chức nhà nước và quản lý nhà nước. Việc ban bố tất cả các pháp luật, việc bổ nhiệm tất cả các quan chức đều do một mình Nga hoàng làm, dựa vào quyền chuyên chế, độc đoán vô hạn độ của hắn”. Chế độ Nga hoàng còn là “chế độ chuyên chế của bọn quan lại. Chế độ chuyên chế của Nga hoàng là sự lệ thuộc kiểu nông nô của nhân dân vào bọn quan lại, nhất là cảnh sát. Chế độ chuyên chế của Nga hoàng là chế độ chuyên chế của cảnh sát” [6]. 3.4. Đặc điểm chính sách cai trị 3.4.1. Chính sách đối nội của Nga hoàng Nicolai II là sự kết hợp giữa chính sách đàn áp và cải cách mị dân Nga hoàng Nicolai II lên nắm quyền năm 1894, ông đã thực hiện chính sách đối nội phản động. Chính sách ấy của chính phủ Nga hoàng là sự kết hợp giữa chính sách đàn áp và chính sách cải cách mị dân. Năm 1896, “Hội liên hiệp đấu tranh để giải phóng gia cấp công nhân” do V.I. Lênin đã thành lập, đã chỉ huy 3 vạn công nhân dệt ở Saint Peterburg bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm. Sau khi đã bắt trên 1.000 công nhân, chính phủ Nga hoàng âm mưu phá tan cuộc bãi công bằng các cuộc đàn áp khốc liệt. Tình hình khó khăn buộc công nhân phải ngừng đấu tranh và trở lại làm việc. Nhưng chính phủ Nga hoàng cũng phải nhân nhượng. Năm 1897, Chính phủ ban hành đạo luật quy định giờ làm việc tối đa mỗi ngày là 11 giờ rưỡi. Tiếp đó, cách mạng năm 1905 bùng nổ, nước Nga trở thành vũ đài của cách mạng dân chủ tư sản 1905-1907, trung tâm của phong trào cách mạng thế giới. Ngày 09/01/1905, đi vào lịch sử với tên gọi “Ngày chủ nhật đẫm máu” khi Nga hoàng ra lệnh xả súng vào đoàn người biểu tình khiến hàng nghìn người chết và bị thương. Sau sự kiện ấy, phong trào cách mạng đấu tranh chống Nga hoàng dấy lên khắp nước Nga, lôi kéo cả binh lính và nông dân. Thậm chí các dân tộc bị áp bức trong đế quốc cũng nổi dậy đấu tranh đòi độc lập. Trước khí thế cách mạng ngày càng cao của quần chúng, một mặt chính phủ Nga hoàng tuyên bố thiết quân luật ở nhiều tỉnh, ra lệnh “không cầm tù”, “không tiếc đạn”. Mặt khác, chế độ Nga hoàng âm mưu làm cho nhân dân xa rời cuộc đấu tranh cách 91 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 23, Số 2 (2021): 83-93 mạng bằng những sự nhượng bộ và những hứa hẹn. Ngày 6/8/1905, xuất hiện một bản tuyên ngôn về việc triệu tập viện Duma quốc gia (còn gọi là Duma Bulypin, theo tên Bộ trưởng Nga hoàng - tác giả bản dự thảo thành lập viện Duma) [6]. Nhưng viện này chỉ có tính chất tư vấn, nghĩa là có thể thảo luận một số vấn đề như là một cơ quan tư vấn bên cạnh Nga hoàng. Những người Bôn-sê-vich hiểu bản chất của viện chỉ là chút ân huệ của Nga hoàng nhằm tranh thủ tư sản tự do nên đã tẩy chay Duma, tiếp tục chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Phong trào cách mạng tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, các cuộc bãi công của công nhân làm ngưng trệ hoạt động kinh tế và giao thông trong nước. Trước tình hình đó, chính phủ Nga hoàng vội vàng đi đến một số nhân nhượng để cứu vãn cho chế độ chuyên chế. Ngày 17/10/1905, Nga hoàng ra “Tuyên ngôn”, ban bố các quyền tự do “thân thể, tín ngưỡng, ngôn luận, hội họp và lập hội. Nhưng phái Bôn-sê-vích tiếp tục chỉ ra sự lừa dối của chính phủ với nhân dân và kêu gọi công nhân, nông dân tiếp tục đấu tranh. Trong những năm bùng nổ thế chiến I, sự bất mãn của quần chúng đối với chiến tranh và chính sách của chế độ chuyên chế Nga hoàng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Công nhân là những người đầu tiên đứng lên tiếp tục đấu tranh. Số lượng các cuộc bãi công tăng lên nhanh chóng. Chính quyền Nga hoàng tiếp tục chính sách đàn áp khốc liệt, cảnh sát bắn xả vào đoàn biểu tình của công nhân bãi công. Mặt khác, lo sợ trước sự phát triển của phong trào bãi công và sự bất lực của chế độ Nga hoàng, bọn tư sản áp dụng thủ đoạn khôn khéo để xoa dịu công nhân nhằm đưa họ vào ảnh hưởng của mình. Chúng lập ra các ủy ban công nghiệp chiến tranh mà thực chất là để ủng hộ Nga hoàng, tăng cường sản xuất công nghiệp chiến tranh, bóc lột công nhân nhiều hơn. Giai cấp tư sản lập “những nhóm công nhân” bên cạnh những ủy ban nói trên, đưa đại biểu công nhân vào nhóm đó để tuyên truyền rằng “hòa bình giai cấp” giữa tư sản và vô sản được thiết lập ở Nga. Như vậy, có thể thấy, ngoài việc đàn áp, bọn Nga hoàng và tư sản còn tìm cách mị dân, mua chuộc hòng giữ vững sự thống trị của mình Mặc dù phong trào cách mạng chịu sự đàn áp dã man của chính phủ Nga hoàng, nhưng nó cũng buộc chế độ Nga hoàng phải có những nhân nhượng. Điều kiện lao động của giai cấp vô sản cũng được cải thiện phần nào. Trong nhiều ngành công nghiệp, tiền lương của công nhân được nâng cao. Nhờ cách mạng, nông dân được xóa bỏ tiền chuộc, hạ thấp giá địa tô và giá ruộng đất. Nhưng những sự nhân nhượng, cải cách chỉ là sự mị dân, phong trào cách mạng chống chế độ chuyên chế vẫn tiếp tục bùng nổ dưới sự lãnh đạo của Đảng Bôn-sê-vích, đứng đầu là V.I. Lênin. 3.4.2. Quá trình thực hiện chính sách cai trị của Nga hoàng Nicolai II chịu nhiều sự tác động của những nhân tố bên ngoài Chính sách cai trị của Nga hoàng Nicolai II chịu sự chi phối của nhiều nhân tố khác nhau. Đó là sự tham vấn của bộ máy chính quyền, truyền thống cai trị của dòng họ hay bối cảnh lịch sử của nước Nga. Nhưng nhân tố bên ngoài cũng có tác động không nhỏ, tạo nên đặc điểm trong chính sách đối nội của Nicolai II đặc biệt là các mối quan hệ quốc tế. Cuối thế kỷ XIX, ưu tiên hàng đầu của các nước đế quốc trong việc phát triển kinh tế là tăng cường xây dựng các tuyến đường sắt. Nói đến vấn đề này, nhà nghiên cứu Ian Nish đã cho rằng: “Trong các thập kỷ của chủ nghĩa đế quốc, các tuyến đường sắt là công cụ để một quốc gia mở rộng lãnh thổ của họ” [2]. Nga hoàng Nicolai II cũng nhận thấy tầm quan trọng của việc xây dựng tuyến đường sắt đối với nền kinh tế của đất nước. Vì vậy, ông đã tiếp tục việc xây dựng đường xe lửa xuyên Siberia tới Vladivostock (khởi công năm 1891 dưới thời Alexandr III). Mục đích ban đầu trong việc xây dựng tuyến đường xuyên Siberia qua Viễn Đông đó là về về kinh tế. Bằng cách triển khai xây dựng tuyến đường sắt lớn nhất xuyên Siberia, S. Witte - Bộ trưởng Tài chính Nga 92 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Nguyễn Phương Mai và Nguyễn Thị Thu Hiền muốn thâm nhập một cách hòa bình vào khu vực này để phát triển kinh tế, làm chủ nền thương mại ở Thái Bình Dương. Tuy nhiên, sau đó Nga hoàng đã biến việc xây dựng đường sắt xuyên Siberia đã trở thành công cụ để nước này bành trướng lãnh thổ, tranh giành quyền lợi với các nước đế quốc tư bản chủ nghĩa [7]. Nhưng để có thể thực hiện dự án đường sắt khổng lồ này, vấn đề lớn nhất đối với chính quyền Nga hoàng là tài chính. Muốn hiện thực hóa việc xây dựng đường sắt, Nga hoàng đã tận dụng mối quan hệ với Pháp nhờ Hiệp ước thân thiện (1891), sau đó là Hiệp ước đồng minh (1893) giữa hai nước để tiến hành những khoản vay khổng lồ từ Pháp. Các thỏa thuận trong quan hệ Pháp - Nga đã đem đến những liên kết không chỉ về chính trị mà còn tạo ra sự thuận lợi cho việc liên kết về tài chính. Theo đó, để nhận được sự đầu tư của các nước tư bản mà đặc biệt là Pháp, Nga buộc phải thực hiện chính sách “mở cửa” cho sự xâm nhập của tư bản nước ngoài vào nền kinh tế của mình. Thêm vào đó, mặc dù là một nước có nền kinh tế yếu hơn so với các nước tư bản phương Tây, nhưng Nga hoàng vẫn muốn thực hiện chính sách xuất khẩu tư bản để phát triển nền kinh tế. Nhờ vào việc xây dựng mối quan hệ “láng giềng” với Trung Quốc sau sự kiện Tam cường can thiệp, Nga đã hứa giúp Trung Quốc trả các khoản bồi thường cho Nhật thông qua việc cho Trung Quốc vay một khoản tiền qua ngân hàng Nga - Trung. Thông qua ngân hàng này, Nga có thể thực hiện việc xuất khẩu tư bản, nhưng nó cũng không mấy hiệu quả bởi hoạt động của ngân hàng này lại nhờ vào phần lớn số vốn từ ngân hàng Pháp. Hơn nữa, chính phủ Nga hoàng còn tận dụng một cách triệt để các mối quan hệ ngoại giao để đàn áp phong trào cách mạng trong nước. Cụ thể là vào năm 1905, Nga đã kết thúc chiến tranh với Nhật bằng việc ký kết Hòa ước Portsmouth. Giới cầm quyền Nga chấp nhận những điều khoản nhục nhã với kẻ thù bên ngoài để tập trung lực lượng đàn áp cách mạng trong nước. Nga muốn các nước đế quốc giúp đỡ mình để dập tắt các phong trào cách mạng phát triển trong nước mà nếu chỉ có Nga hoàng cùng lực lượng quân đội, cảnh sát trong nước sẽ không làm được điều đó. Tiếp đó, những thất bại về quân sự của Nga trong thế chiến I, đã gây nên sự mất ổn định về chính trị. Sự bất lực của chế độ Nga hoàng gây ra sự bất mãn trong giai cấp tư sản tự do. Trong khi giới cầm quyền và giai cấp tư sản lúng túng trước những mâu thuẫn không giải quyết được thì cách mạng bùng nổ. Để rảnh tay chống lại cách mạng, Nga hoàng bắt đầu đàm phán bí mật với Đức về việc đình chỉ chiến tranh bằng cách ký một hòa ước riêng biệt. Nga hoàng muốn thực hiện chính sách hòa hoãn với kẻ thù giống như trong cuộc chiến với Nhật, để giữ lại sự thống trị của mình. Song tình hình lúc này đã thay đổi, giai cấp tư sản Nga được sự hậu thuẫn của Anh, Pháp, Mỹ quyết định ngăn cản cách mạng cũng như ngăn sự đầu hàng của Nga hoàng bằng cách buộc Nicolai II phải thoái vị nhường ngôi cho em trai là Mikhain. Song âm mưu duy trì chế độ quân chủ đã thất bại. Sự phản kháng mãnh liệt của các tầng lớp nhân dân đã buộc Mikhain phải thoái vị ngày 3/3/1917, chế độ chuyên chế bị lật đổ. 4. Kết luận và kiến nghị Chính sách cai trị của Nga hoàng Nicolai II chịu sự tác động của những nhân tố khách quan và chủ quan khác nhau. Trong đó, nhân tố chủ quan là yếu tố quan trọng, có tính quyết định đến các chính sách đối nội của ông. Chính sách cai trị của Nga hoàng Nicolai II mang tính chất phản động. Để bảo vệ cái gọi là “cơ sở của nhà nước”, chế độ chuyên chế Nga hoàng đã thông qua công cụ là quân đội, cảnh sát để đàn áp, bóc lột nhân dân. Mặc dù kết hợp biện pháp đàn áp và cải cách mị dân, đồng thời tận dụng sự giúp đỡ của các nước đế quốc để đàn áp các phong trào cách mạng song Nicolai II cũng không thể tiêu diệt sự đấu tranh của nhân dân. 93 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 23, Số 2 (2021): 83-93 Chính sách đối nội phản động của Nga hoàng Nicolai II đã làm cho mâu thuẫn trong xã hội ngày càng gay gắt và sự lật đổ chính quyền là không thể tránh khỏi. Đây chính là nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm và sự thống trị của dòng họ Romanov hơn 300 năm ở Nga. Tài liệu tham khảo [1] Eugene de Schelking (1918). Recollections of a Russian diplomat, the suicide of monarchies (William II and Nicholas II). The Macmillan company, New York. [2] Ian Hill Nish (1989). The origins of the Russo - Japanese war. LondonNewYork: Longman. [3] John Hanbury Williams (1922). The Emperor Nicholas II - As I knew him. Arthur L. Humphreys, London [4] Bykov P. M. (1935). The last days of Tsar Nicholas. International publishers, New York [5] Pơ-na-ma-rép B. N. (1960). Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. [6] Lênin V. I. (2005). Toàn tập tập 7: 9.1902- 9.1903. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội. [7] Count Witte (1921). The Memoirs of Count Witte. Doubleday page & company, Toronto. [8] Nguyễn Quốc Hùng & Nguyễn Thị Thư (2017). Nước Nga từ nguyên thủy đến hiện đại. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội. [9] Vũ Dương Ninh & Nguyễn Văn Hồng (2007). Lịch sử thế giới cận đại. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. [10] Lê Vinh Quốc, Lê Phụng Hoàng & Nguyễn Thị Thư (1997). Các nhân vật lịch sử cận đại - tập II: Nga. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội THE RULING POLICY OF RUSSIAN EMPEROR NICOLAI II (1894-1917): CONTENT AND CHARACTERISTICS Nguyen Phuong Mai1, Nguyen Thi Thu Hien1 1Faculty of Social Sciences, Culture and Tourism, Hung Vuong University, Phu Tho Abstract At the end of the 19th century, Russia entered the period of imperialism before the bourgeois democratic revolution. Therefore, the Russian imperialism existed while still retaining many remnants of feudalism. Cross-contradictory social chaos have made Russia a central place for all conflicts of imperialism and a center of revolution. In this context, after taking power, Nicolai II has implemented many policies in the fields of culture, socio-economics, politics, in order to maintain the tyranny and solve the conflicts that exist in Russia. Nicolai II’s rulership had many different characteristics, but those did not bring about the desired results of Emperor Nicolai II. His domestic policy became an important cause to ignite the revolutionary fire in Russia in the early twentieth century, destroying the existence of the Russian feudal regime that Nicolai II became the last Emperor of the vast country. Keywords: Nicolai II, Tsar, the Russian Empire, Russian domestic policy.
File đính kèm:
- chinh_sach_cai_tri_cua_nga_hoang_nicolai_ii_1894_1917_noi_du.pdf