Các con đường giao lưu văn hóa trong lịch sử
Giao lưu văn hóa là một hiện tượng phổ biến trong lịch sử nhân loại. Mỗi nền văn hóa và mỗi
cộng đồng người có thể bị cưỡng bức hoặc chủ động tham gia vào quá trình này theo các cách thức/
phương thức khác nhau. Đây chính là những con đường trong hành trình biến đổi văn hóa của các
dân tộc trên phạm vi toàn thế giới. Những con đường này một mặt có thể phá vỡ tính bền vững và ổn
định tương đối của văn hóa một dân tộc nhưng mặt khác lại góp phần làm nên sự đa dạng, tiến bộ văn
hóa của chính dân tộc đó. Cho đến nay, nhân loại đã trải qua 4 con đường giao lưu văn hóa là: di dân,
thương mại, chiến tranh và viễn thông điện tử.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Các con đường giao lưu văn hóa trong lịch sử", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các con đường giao lưu văn hóa trong lịch sử
C CÁC CON ĐƯỜNG GIAO LƯU VĂN HÓA TRONG LỊCH SỬ LÊ THỊ KIM LOAN Tóm tắt Giao lưu văn hóa là một hiện tượng phổ biến trong lịch sư ̉nhân loại. Mỗi nền văn hóa và mỗi cộng đồng người có thể bị cưỡng bức hoặc chủ động tham gia vào quá trình này theo các cách thức/ phương thức khác nhau. Đây chính là những con đường trong hành trình biến đổi văn hóa của các dân tộc trên phạm vi toàn thế giới. Những con đường này một mặt có thể phá vỡ tính bền vững và ổn định tương đối của văn hóa một dân tộc nhưng mặt khác lại góp phần làm nên sự đa dạng, tiến bộ văn hóa của chính dân tộc đó. Cho đến nay, nhân loại đã trải qua 4 con đường giao lưu văn hóa là: di dân, thương mại, chiến tranh và viễn thông điện tư.̉ Từ khóa: Con đường, tiếp xúc, giao lưu, tiếp biến, văn hóa Abstract Cultural exchange is a well-known phenomenon in the human history. Each culture and each human community may be forced or active in its participation into the process of cultural exchange by different ways/ approaches. These are ways of cultural change of nations in the world. On the one hand, these ways may damage a relative stability and sustainability of the nation’s culture. On the other hand, they also contribute to the creation of cultural multiform and development of this nation. So far, the human being has been going through 4 ways of cultural exchange such as: migration, trading, warfare and electronic communication. Keywords: Way, contact, exchange, acculturation, culture ác thuật ngữ tiếp xúc, giao lưu và tiếp biến được dùng rất phổ biến trong lĩnh vực văn hóa. Xét về mặt từ ngữ, đây là các thuật ngữ Hán - Việt nhằm mô tả các hiện tượng trong một quá trình tương tác giữa chúng với nhau. Thuật ngữ tiếp xúc văn hóa (cultural contests) được sử dụng để chỉ sự va chạm vào nhau của các nền văn hóa khi được đặt cạnh nhau. Thuật ngữ giao lưu văn hóa (cultural exchanges) được sử dụng để chỉ sự trao đổi, đan xen, chia sẻ giữa các nền văn hóa sau khi tiếp xúc với nhau. Thuật ngữ tiếp biến văn hóa là một thuật ngữ kép, được sử dụng để chỉ sự tiếp thu rồi biến đổi những yếu tố văn hóa trong quá trình tiếp xúc, giao lưu của một nền văn hóa này với một nền văn hóa khác. “Acculturation” là thuật ngữ được phương Tây sử dụng để mô tả hiện tượng này và nó được hiểu là tiếp biến văn hóa. Không phải đến cuối thế kỷ XX, chúng ta mới tiếp cận và hiểu rõ các thuật ngữ tiếp xúc, giao lưu và tiếp biến văn hóa. Cuối thế kỷ XIX, sự xuất hiện các lý thuyết Truyền bá luận trong nghiên cứu văn hóa đã đề cập và giải thích một số hiện tượng tương tự với hiện tượng tiếp xúc và giao lưu văn hóa. Lý thuyết thiên di của Friedrich Ratzel (1844-1904), người sáng lập ra truyền bá luận ở Đức; lý thuyết vòng văn hóa của Leo Frobeunius (1873-1928), chuyên gia về văn hóa châu Phi; lý thuyết vòng văn hóa của Fritz Graebner (1877-1934), chuyên gia nghiên cứu các bộ tộc châu Úc và một số luận điểm của các nhà nghiên cứu khác như E.Sapir, W.Riverer, G.E.Smith, W.J.Perry, C.L Wissler và A.L. Kroeber đã được xây dựng trên cơ sở phân tích các biểu hiện văn hóa của một cộng đồng, một tộc người cụ thể. Nhìn chung, các lý thuyết Truyền bá luận cho rằng các nền văn hóa có tính ổn định tương đối nhưng không phải là bất biến, đôi khi có sự vay mượn các yếu tố từ nền văn hóa khác, trong đó những đặc điểm lan truyền văn hóa trong không gian đóng vai trò lớn. Sự lan truyền/truyền bá diễn ra qua quá trình thiên di của các yếu tố văn hóa hoặc các tổ hợp văn hóa từ trung tâm đến các vùng. Thiên di văn hóa là nội dung chủ yếu của quá trình lịch sử và văn hóa của loài người. Sự biến đổi văn hóa của mọi xã hội suy cho cùng là kết quả sự vay mượn văn hóa từ các xã hội khác Sau khi phân tích hệ quả các lý thuyết Truyền bá luận, có thể nhận thấy: mọi sự biến đổi to lớn về văn hóa của một cộng đồng/tộc người đều xuất phát từ việc tiếp xúc và giao lưu của cộng đồng/tộc người đó với những cộng đồng/tộc người khác. Mặc dù các thuật ngữ tiếp xúc, giao lưu và tiếp biến văn hóa chỉ mới xuất hiện và phổ biến trên thế giới từ cuối thế kỷ XX, nhưng các hiện tượng và biểu hiện của nó đã tồn tại liên tục từ thời kỳ cổ đại đến nay. Có 4 con đường hay chính là 4 phương thức làm biến đổi văn hóa của các cộng đồng/tộc người trong lịch sử nhân loại, cụ thể như sau: 1. Con đường di dân Ngay từ thời kỳ tiền sử, sự tiếp xúc, giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa các cộng đồng/tộc người đã diễn ra. Có một số yếu tố chi phối hoạt động này nhưng chủ yếu là do các cuộc di dân tự nhiên (các nhà khoa học Truyền bá luận gọi đó là “thiên di”) xảy ra trong thời nguyên thủy và cổ, trung đại. Các cộng đồng/tộc người khác nhau, sau những cuộc di cư, đã đến với nhau, sống cạnh nhau, xen kẽ nhau, dẫn đến sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa. Trải qua hàng nghìn năm, mỗi cộng đồng/tộc người một mặt bồi đắp nên bản sắc riêng của mình nhưng mặt khác góp phần cùng các cộng đồng/tộc người lân bang tạo lập ra một vùng văn hóa với những đặc trưng riêng. Phải kể đến đó là vùng văn hóa Nam Á, vùng Ả Rập, vùng Đông Nam Á, vùng Bắc Á ở phương Đông; vùng Bắc Âu, vùng Nam Âu, vùng Tây Âu, và vùng Đông Âu ở phương Tây. Sau thời kỳ trung cổ, có hai cuộc di dân lớn chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại đã được xác lập. Thứ nhất, đó là cuộcdidâncủanhữngngười châu Âu, châu Á, châu Phi đến một châu lục mới, được tìm ra bởi nhà hàng hải Christopher Columbus và F. Magellan. Năm 1492, một đoàn thám hiểm do C. Columbus chỉ huy đã tới được quần đảo miền trung châu Mỹ nhưng ông lại tưởng là đã tới được Ấn Độ, ông gọi những người thổ dân ở đây là Indians. Sau này, một nhà hàng hải người Italia là Amerigo Vespucci mới phát hiện ra Ấn Độ của C. Columbus không phải là Ấn Độ mà là một vùng đất hoàn toàn mới đối với người châu Âu. Amerigo đã viết một cuốn sách để chứng minh điều đó. Vùng đất mới đó sau này mang tên Ame ... ông nhận đô thị cổ Hội An là một di sản văn hóa thế giới, dựa trên hai tiêu chí. Thứ nhất, Hội An là biểu hiện vật thể nổi bật của sự kết hợp các nền văn hóa qua các thời kỳ trong một thương cảng quốc tế. Thứ hai, Hội An là điển hình tiêu biểu về một cảng thị châu Á truyền thống được bảo tồn một cách hoàn hảo. Có thể thấy, bằng chứng về hoạt động tiếp xúc, giao lưu và tiếp biến văn hóa thông qua con đường thương mại vẫn còn tồn tại ở nhiều đô thị cổ và thương cảng trên khắp thế giới và Việt Nam. 3. Con đường chiến tranh Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều trận chiến không những ác liệt mà còn làm thay đổi số phận của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Có cuộc chiến mở ra niềm hy vọng tự do, độc lập nhưng cũng có những cuộc chiến bắt đầu cho một thời kỳ đen tối, điêu tàn. Cuộc chiến tranh lớn nhất và rộng nhất thời kỳ cổ đại phải kể đến là cuộc chiến do Alexandros III của Macedonia (Alexandros đại đế) - một chiến lược gia quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử - khởi xướng. Cuối thế kỷ IV TCN, Alexandros Macedonia chinh phục phương Đông đến tận miền Tây Bắc Ấn Độ. Sự việc này đã để lại một hậu quả khách quan là thúc đẩy sự giao lưu về kinh tế, văn hóa giữa hai khu vực. Sau khi đế quốc Macedonia tan rã, trên đất đai mà Alexandros chinh phục được ở Tây Á và Đông Bắc châu Phi đã hình thành các quốc gia như Ai Cập của vương triều Ptôlêmê, Xini của vương triều Xêlơcut, Pecsgammum, Bắctơria mà lịch sử gọi là những nước Hi Lạp hóa (giai đoạn lịch sử từ khi Alexandros bắt đầu chinh phục phương Đông - năm 334TCN - đến khi Ai Cập bị biến thành một tỉnh của La Mã - năm 30 TCN - gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa) [5; tr.314]. Trong thời kỳ này, quan hệ buôn bán giữa phương Đông với phương Tây được đẩy mạnh, các thành thị phát triển, tri thức được phổ biến lan tỏa từ Tây sang Đông. Ảnh hưởng của văn hóa Hi Lạp đối với phương Đông còn thể hiện rõ rệt ở mặt nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc. Thậm chí, ở các nước Ấn Độ xa xôi, các tượng Phật được tạo nên trong thời kỳ muộn hơn cũng chịu ảnh hưởng rõ rệt của nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp. Ngược lại, phương Tây đã tiếp thu nhiều kiến thức về toán học và thiên văn học của phương Đông, đặc biệt là phép làm lịch. Cuộc chiến lớn thứ hai ở phương Tây nhưng là cuộc chiến lớn nhất thời Trung đại là cuộc viễn chinh của Thập tự quân hay phong trào Thập tự chinh. Do sự hô hào của giáo hoàng La Mã, từ đầu thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIII, các đoàn kị sĩ một số nước Tây Âu, với hình cây thánh giá khâu trên áo, đã tiến hành 8 cuộc viễn chinh sang phương Đông. Những cuộc chiến tranh này đã đem lại rất nhiều thảm họa cho cư dân đông Địa Trung Hải nhưng cũng góp phần thúc đẩy sự tiếp xúc văn minh giữa hai bộ phận quan trọng của thế giới lúc bấy giờ. Vào thời kỳ này, do sự suy thoái về văn hóa, phương Tây lạc hậu hơn phương Đông rất nhiều. Qua phong trào viễn chinh, người Tây Âu đã học tập một số nghề mới như làm giấy, làm thủy tinh, làm thuốc súng, kỹ thuật tiên tiến trong nghề dệt, nghề luyện kim; học tập được cách trồng một số giống cây mới như lúa, kiều mạch, chanh, dưa hấu v.vViệc truyền bá các thứ đó sang phương Tây, một phần là do người Ảrập truyền qua Tây Ban Nha, một phần do quân Thập tự trực tiếp học kinh nghiệm và đưa trực tiếp từ phương Đông về. Ngoài ra, qua tiếp xúc với phương Đông, giai cấp phong kiến Tây Âu đã học tập được nhiều điều mới mẻ trong cuộc sống hàng ngày như các nghi thức ở cung đình, những cử chỉ tao nhã, cách giao tiếp lịch sự, cách để tóc, để râu, cách tắm rửa v.v Do vậy, đời sống văn hóa trong xã hội Tây Âu đã có một bước tiến rõ rệt (5, tr.117). Một cuộc chiến có qui mô cực lớn và trải dài từ Đông sang Tây là cuộc chiến được thực hiện bởi Đế quốc Mông Cổ. Đế quốc này xuất hiện khi các bộ lạc Mông Cổ và Đột Quyết thống nhất dưới quyền lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn năm 1206. Dưới sự lãnh đạo của ông, đế quốc này đã tiến hành các cuộc xâm lược theo mọi hướng, thôn tính liên lục địa rộng lớn, kết nối phương Đông và phương Tây, thực thi hòa bình kiểu Mông Cổ, cho phép mậu dịch, công nghệ, hàng hóa và phổ biến tri thức. Tuy nhiên, do lúc này, chế độ phong kiến ở phương Đông đã định hình và phương Tây đang rơi vào tình trạng bất ổn vì các cuộc thập tự chinh nên tầm ảnh hưởng về văn hóa của đế quốc Nguyên Mông chỉ mang tính chất tức thời, không ăn sâu, bám rễ trong đời sống văn hóa của các quốc gia bị Nguyên Mông thôn tính. Có lẽ, những cuộc chiến tạo ra sự tiếp xúc, giao lưu và tiếp biến văn hóa mạnh mẽ giữa các quốc gia/ dân tộc còn nhiều dấu ấn đến ngày nay chính là các cuộc chiến nhằm thôn tính thuộc địa. Sau các cuộc phát kiến địa lý, các cuộc cách mạng công nghiệp, các cuộc cách mạng tư sản, một số nước châu Âu như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Pháp, Hà Lan nổi lên như các đế quốc siêu cường, những kẻ chinh phục mạnh nhất và có ảnh hưởng lớn nhất. Trong một loạt các cuộc chiến diễn ra vào thế kỷ XVII và XVIII, Anh quốc nổi lên là siêu cường đầu tiên và mạnh nhất của thế giới. Nó là một đế quốc trải rộng khắp quả đất, có lúc đã kiểm soát gần một phần tư bề mặt lục địa thế giới, trên đó “mặt trời không bao giờ lặn”. Ngay sau khi xâm chiếm châu Mỹ, người châu Âu đã dùng phường thức truyền giáo, đồng thời sử dụng các tiến bộ kỹ thuật để chinh phục các dân tộc ở châu Á, châu Phi. Đầu thế kỷ XIX, người Anh chiếm quyền kiểm soát tiểu lục địa Ấn Độ, Ai Cập, Malaysia, Australia, New Zealand và Nam Phi; người Pháp chiếm Đông Dương; người Hà Lan chiếm Đông Ấn. Vào cuối thế kỷ XIX, những vùng cuối cùng ở châu Phi còn chưa bị xâm chiếm được các nước châu Âu đem ra chia chác với nhau. Sau khoảng một thế kỷ bị thôn tính, các nước thuộc địa tuy đã bị khai thác kiệt quệ về tài nguyên và nhân lực nhưng lịch sử ghi nhận rằng, hầu hết các nước này đã có sự thay đổi lớn về diện mạo kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Cuộc tiếp xúc văn minh phương Tây thời kỳ cận đại đã làm thay đổi về chất nền văn hóa của nhiều nước. Lúc này, các nước thuộc địa bị cưỡng chế tiếp xúc, giao lưu và tiếp biến văn hóa với người phương Tây. Họ phải trực tiếp xử lý mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố nội sinh với các yếu tố ngoại sinh, kết quả có thể diễn ra theo hai trạng thái: một là, yếu tố ngoại sinh lấn át triệt tiêu yếu tố nội sinh và hai là, yếu tố ngoại sinh dần dần trở thành yếu tố nội sinh. Nhìn ở thái độ của tộc người chủ thể, sự tiếp nhận yếu tố ngoại sinh cũng có hai dạng: một là tự nguyện; hai là, bị cưỡng bức có nghĩa là bị áp đặt văn hóa. Và Việt Nam là một ví dụ. Sau năm 1885, Pháp đã đặt xong bộ máy cai trị ở Việt Nam và thực thi một chính sách văn hóa nhằm củng cố địa vị thống trị của chúng ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Văn hóa Việt Nam giai đoạn này có hai đặc trưng lớn: một là, tiếp xúc, cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt – Pháp; hai là, giao lưu văn hóa tự nhiên - Việt Nam với các nước Đông, Tây. Nhìn chung, văn hóa Việt nam có sự thay đổi rõ rệt về văn hóa vật chất (đô thị, giao thông, kiến trúc, trang phục) và văn hóa tinh thần (chữ viết, hội họa, âm nhạc, văn chương, báo chí). Nhìn vào diễn trình văn hóa Việt Nam, đây là giai đoạn tiếp xúc, giao lưu và tiếp biến văn hóa mạnh mẽ nhất trong lịch sử dân tộc. 4. Con đường viễn thông điện tử Còn một con đường dẫn đến việc tiếp xúc, giao lưu và tiếp biến văn hóa chưa từng được tổng kết trong các lý thuyết Truyền bá luận và các nghiên cứu về văn hóa giai đoạn cuối thế kỷ XX, đó là con đường viễn thông điện tử. Hiện tượng giao lưu và tiếp biến văn hóa chỉ diễn ra khi có sự tiếp xúc văn hóa trực tiếp giữa các cộng đồng/ tộc người với nhau (được hiểu một cách cơ học là đặt cạnh nhau, chạm vào nhau) dường như đã không còn phù hợp trong bối cảnh nhân loại bước sang thời kỳ văn minh hậu công nghiệp (hay còn được gọi là văn minh tin học, văn minh tri thức). Những năm 40 của thế kỷ XX, với sự ra đời của máy tính và hơn 20 năm sau đó là sự ra đời của mạng internet, khoảng cách về không gian của các quốc gia/dân tộc trên toàn thế giới đã được rút ngắn. Bất cứ quốc gia/dân tộc nào cũng có thể tương tác với nhau, kết nối và chia sẻ mọi thông tin trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội thông qua con đường viễn thông điện tử. Trước hết, xét về mặt từ ngữ, viễn thông là một từ Hán - Việt có nghĩa là thông tin từ xa hay được hiểu là việc truyền dẫn thông tin giao tiếp qua một khoảng cách đáng kể về địa lý. Vào thời xa xưa, viễn thông là việc dùng các tín hiệu hình ảnh như đèn hiệu, khói, cờ hoặc tín hiệu âm thanh như tù và, trống, còi nhằm truyền đi những thông tin ngắn gọn, cần thiết để chào mừng, cảnh báo, chỉ dẫnThời hiện đại, viễn thông là việc dùng các thiết bị điện như máy điện báo, điện thoại, máy telex hoặc thiết bị điện tử như viba, sợi quang kết hợp với vệ tinh thông tin và internet . Như vậy, có thể hiểu, viễn thông điện tử (Electronic Telecommunications) là hình thức trao đổi thông tin qua những khoảng cách tương đối lớn bằng các phương tiện điện tử (9). Nhờ có sự tiến bộ không ngừng của khoa học, viễn thông điện tử đã đạt được rất nhiều thành tựu, đặc biệt là trong ngành truyền thông. Nhờ có viễn thông điện tử, các cá nhân và các cộng đồng khác nhau có thể cùng một lúc được tiếp nhận thông tin mới hoặc thông tin cần thiết một cách nhanh nhất mà không bị giới hạn bởi không gian. Các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa của các nước, các khu vực khác nhau liên tục được cập nhật xuyên quốc gia và đang bị toàn cầu hóa. Thực chất, toàn cầu hóa là quá trình xuất phát từ những hoạt động tiếp xúc, giao lưu giữa nhiều quốc gia với nhau trên các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và đi tới thống nhất với nhau trên nhiều yếu tố. Có thể thấy, các thay đổi trong xã hội tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân đang diễn ra liên tục, một phần thông qua việc tiếp xúc trực tiếp song phần lớn là kết nối qua viễn thông điện tử hay truyền thông không dây. Sự ra đời của Qũy tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ( ASEAN) vào giữa và cuối thế kỷ XX đã thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa. Một mặt nó nhanh chóng xã hội hóa lực lượng sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng cao cho các quốc gia, góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế; mặt khác, toàn cầu hóa cũng tạo ra nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc và độc lập tự chủ của nhiều quốc gia. Không phải ngẫu nhiên mà có mối liên hệ mật thiết giữa viễn thông điện tử với hoạt động tiếp xúc, giao lưu, tiếp biến văn hóa và quá trình toàn cầu hóa. Khác với các giai đoạn trước, con đường di dân, thương mại và chiến tranh là điều kiện “cần” để các cộng đồng/ dân tộc có thể tiếp xúc với nhau; giao lưu là điều kiện “đủ” để dẫn tới sự tiếp biến trên các phương diện, đặc biệt là văn hóa của một cộng đồng hoặc dân tộc nào đó. Ngày nay, viễn thông điện tử chính là điều kiện “cần” để tạo ra sự tiếp xúc và toàn cầu hóa dường như là diều kiện “đủ” để các quốc gia/dân tộc biến đổi một cách mạnh mẽ, vừa tiến bộ, văn minh nhưng cũng có nguy cơ hòa tan và đánh mất bản sắc. Có thể mô tả quá trình đó như sau: Viễn thông điện tử - Tiếp xúc, giao lưu - Toàn cầu hóa - Tiếp biến văn hóa Tiếp xúc, giao lưu văn hóa là một hiện tượng tất yếu, khách quan và phổ biến trong sự phát triển của các nền văn hóa. Văn hóa có tính bền vững và ổn định tương đối nhưng nó cũng luôn đòi hỏi có sự giao lưu, tiếp biến thường xuyên, không chấp nhận sự khép kín. Lịch sử cũng cho thấy, những nền văn minh/ văn hóa lớn nếu đóng cửa (bế quan tỏa cảng), tự giam mình hoặc tự tôn thái quá, có thể đưa đến sự xói mòn và tụt hậu. Ngược lại, nếu quá trình giao lưu diễn ra quá mạnh mẽ, nguy cơ một dân tộc nào đó bị hòa tan hoặc đánh mất bản sắc, thậm chí có thể suy vong, cũng là điều tất yếu. Hiện tượng tiếp xúc và hội nhập văn hóa với các quá trình tiếp nhận, điều chỉnh, đồng hóa là hiện tượng phổ biến trong đời sống nhân loại, thể hiện năng lực thích ứng của mỗi cộng đồng trong suốt tiến trình tồn tại và phát triển của mình. Giao lưu và tiếp biến văn hóa là sự tiếp nhận hay kế thừa văn hóa nước ngoài bởi dân tộc chủ thể. Đó là quá trình xử lý mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh. Mỗi dân tộc sẽ có thái độ chủ động tiếp thu khi có sẵn bản lĩnh hay nội lực văn hóa mạnh mẽ. Một dân tộc thiếu bản lĩnh hoặc cơ tầng văn hóa bản địa mỏng và yếu sẽ luôn trong thế thụ động khi tiếp thu văn hóa nhân loại và rất dễ bị áp đặt hay đồng hóa về văn hóa. L.T.K.L (Ths, Khoa Văn hóa học) Tài liệu tham khảo 1. A.A. Belik (2000), Văn hóa học - Những ly ́ thuyết nhân học văn hóa, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật xuất bản, Hà Nội. 2. A.A. Radugin (2004), Văn hóa học - Những bài giảng (dịch từ tiếng Nga), Viện Văn hóa - Thông tin xuất bản, Hà Nội. 3. A. Schultz Emily - H. Lavenda Robert (2001), Nhân học - Một quan điểm về tình trạng nhân sinh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Từ Thị Loan, Lê Thị Kim Loan (2013), Bài giảng môn học Các ly ́thuyết văn hóa, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. 5. Vũ Dương Ninh (chủ biên, 2012), Lịch sử văn minh thế giới, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 6. Nguyễn Thị Thường (2009), Giáo trình Văn hóa học, Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội. 7. Trần Quốc Vượng (2012), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 8.h t t p : / / w w w .v n u a .e d u .v n/ k hoa/ f i t a/ wp - c o n t en t/ up l oa ds /2 01 3 /0 6/ C1.+Gioi+thieu+chung.pdf 9. definition/telecommunications Ngày nhận bài: 21 - 12 - 2015 Ngày phản biện, đánh giá: 9 - 6 - 2016 Ngày chấp nhận đăng: 28 - 6 - 2016
File đính kèm:
- cac_con_duong_giao_luu_van_hoa_trong_lich_su.pdf