Các biến chứng nhiễm trùng trong giai đoạn hóa trị liệu tấn công ở bệnh nhi Lơxêmi cấp dòng lympho

Lơxêmi (LXM) cấp là bệnh máu ác tính thường gặp nhất ở trẻ em. Thời gian sống thêm không bệnh (EFS) và sống thêm toàn bộ (OS) của trẻ bị LXM cấp dòng lympho ở Bệnh viện Nhi Trung ương (BVNTƯ) cao hơn trước đây.

Các biến chứng nhiễm trùng trong giai đoạn hóa trị liệu tấn công ở bệnh nhi Lơxêmi cấp dòng lympho trang 1

Trang 1

Các biến chứng nhiễm trùng trong giai đoạn hóa trị liệu tấn công ở bệnh nhi Lơxêmi cấp dòng lympho trang 2

Trang 2

Các biến chứng nhiễm trùng trong giai đoạn hóa trị liệu tấn công ở bệnh nhi Lơxêmi cấp dòng lympho trang 3

Trang 3

Các biến chứng nhiễm trùng trong giai đoạn hóa trị liệu tấn công ở bệnh nhi Lơxêmi cấp dòng lympho trang 4

Trang 4

Các biến chứng nhiễm trùng trong giai đoạn hóa trị liệu tấn công ở bệnh nhi Lơxêmi cấp dòng lympho trang 5

Trang 5

Các biến chứng nhiễm trùng trong giai đoạn hóa trị liệu tấn công ở bệnh nhi Lơxêmi cấp dòng lympho trang 6

Trang 6

Các biến chứng nhiễm trùng trong giai đoạn hóa trị liệu tấn công ở bệnh nhi Lơxêmi cấp dòng lympho trang 7

Trang 7

Các biến chứng nhiễm trùng trong giai đoạn hóa trị liệu tấn công ở bệnh nhi Lơxêmi cấp dòng lympho trang 8

Trang 8

Các biến chứng nhiễm trùng trong giai đoạn hóa trị liệu tấn công ở bệnh nhi Lơxêmi cấp dòng lympho trang 9

Trang 9

Các biến chứng nhiễm trùng trong giai đoạn hóa trị liệu tấn công ở bệnh nhi Lơxêmi cấp dòng lympho trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang Danh Thịnh 15/01/2024 1680
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Các biến chứng nhiễm trùng trong giai đoạn hóa trị liệu tấn công ở bệnh nhi Lơxêmi cấp dòng lympho", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các biến chứng nhiễm trùng trong giai đoạn hóa trị liệu tấn công ở bệnh nhi Lơxêmi cấp dòng lympho

Các biến chứng nhiễm trùng trong giai đoạn hóa trị liệu tấn công ở bệnh nhi Lơxêmi cấp dòng lympho
TẠP CHÍ NHI KHOA 2013, 6, 1
26
CÁC BIẾN CHỨNG NHIỄM TRÙNG TRONG GIAI ĐOẠN HÓA TRỊ 
LIỆU TẤN CÔNG Ở BỆNH NHI LƠXÊMI CẤP DÒNG LYMPHO
 Phạm Thị Hoài Thu*, Bùi Ngọc Lan**
* Bệnh viện St Paul, ** Bệnh viện Nhi Trung ương
Lơxêmi (LXM) cấp là bệnh máu ác tính thường gặp nhất ở trẻ em. Thời gian sống thêm 
không bệnh (EFS) và sống thêm toàn bộ (OS) của trẻ bị LXM cấp dòng lympho ở Bệnh viện 
Nhi Trung ương (BVNTƯ) cao hơn trước đây. Tuy nhiên, nhiễm trùng (NT) vẫn là một trong 
những biến chứng thường gặp nhất và cũng là nguyên nhân chính gây tử vong. Mục tiêu: 
Đánh giá tỷ lệ nhiễm trùng ở trẻ em bị LXM cấp dòng lympho trong giai đoạn hóa trị liệu tấn 
công và tìm hiểu một số yếu tố liên quan với nhiễm trùng trong giai đoạn này. Đối tượng 
và phương pháp nghiên cứu: 97 bệnh nhân (BN) bị LXM cấp dòng lympho chấp nhận 
điều trị hóa chất theo phác đồ CCG 1961 và CCG 1991 (dòng lympho tiền B) hoặc phác đồ 
ANZCCSG ALL Study VII (dòng lympho T) từ tháng 9/2010 đến tháng 8/2011. Nghiên cứu 
theo phương pháp mô tả, tiến cứu và hồi cứu. Tiêu chuẩn BN NT: sốt trên 38,30C trên 1 giờ, 
CRP > 6 mg/L, có biểu hiện NT trên lâm sàng ở bất kỳ cơ quan nào, có / hoặc không có bằng 
chứng vi khuẩn học. Kết quả: Tỷ lệ NT là 41,2%, sốt không rõ nguyên nhân là 29,9%. Kết quả 
cấy máu dương tính trong 40% BN. Cơ quan bị NT thường gặp là họng, miệng (31,6%). Tỉ lệ 
NT hô hấp là 19%, nhiễm trùng huyết là 17,7%, tiêu hóa là 12,7% và NT da và mô mềm là 12,7%. 
50% BN có từ 2 cơ quan trở lên bị NT, trong đó 22,5% BN có 2 cơ quan bị NT, 15% BN có 3 
cơ quan bị NT, và 12,5% BN có 4 cơ quan bị NT. Bệnh phẩm cấy tìm thấy vi khuẩn chủ yếu là 
máu (77,8%). Tác nhân gây bệnh chủ yếu là K. pneumonia chiếm 33,3%, S. aureus 22,2%, 
Candida alb 16,7%, Enterobacter cloa 11,1%. Tỉ lệ NT tăng trong 2 tuần đầu của quá trình 
điều trị hóa chất và giảm đi sau đó. Tuần thứ 2 của hóa trị liệu, BCĐNTT tuyệt đối là thấp nhất 
(0,3 G/L) và tỉ lệ NT là cao nhất (38%). BN có BCĐNTT tuyệt đối < 0,1 G/L có thời gian NT dài 
hơn (13,8 ± 13,9 ngày so với 9,0 ± 5 ngày), p = 0,004. Thời gian NT trung bình là 13,9 ± 11,5 
ngày. Thời gian giảm BCĐNTT càng dài thì thời gian NT càng dài (p < 0,001), tương ứng với 
thời điểm BCĐNTT giảm nặng nhất. Nhóm BN > 10 tuổi có tỉ lệ NT cao nhất (72,7%), sau đó là 
nhóm trẻ < 5 tuổi (39,3%), p < 0,05. BN LXM cấp dòng lympho nhóm nguy cơ cao có tỷ lệ NT 
cao hơn nhóm nguy cơ thường (72% và 25,4%), p < 0,05. Kết luận: Tỉ lệ NT trong giai đoạn 
hóa trị liệu tấn công ở BN LXM cấp dòng lympho còn khá cao ở BVNTƯ. Các yếu tố liên quan 
với NT bao gồm thời điểm và thời gian giảm BCĐNTT nặng, tuổi của BN, và LXM cấp dòng 
lympho nhóm nguy cơ cao. Thời điểm giảm BCĐNTT nặng nhất (tuần thứ 2 của hóa trị liệu) là 
thời điểm có tỷ lệ NT cao nhất. 
Từ khóa: LXM cấp dòng lympho, nhiễm trùng, giảm BCĐNTT
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Lơxêmi (LXM) cấp là một bệnh ác tính thường 
gặp nhất ở trẻ em. Phần lớn LXM cấp ở trẻ em 
là LXM cấp dòng lympho [3][13]. Hiện nay điều trị 
LXM cấp dòng lympho đã thu được kết quả đáng 
khích lệ, 95% đạt lui bệnh hoàn toàn sau giai đoạn 
tấn công [19][20]. Tuy nhiên, nhiễm trùng vẫn là 
nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ mắc bệnh 
LXM cấp. Từ năm 2001, khoa Ung bướu Bệnh viện 
Nhi Trung ương bắt đầu áp dụng phác đồ CCG để 
27
PHẦN NGHIÊN CỨU
điều trị LXM cấp dòng lympho nhưng việc đánh 
giá biến chứng nhiễm trùng trong gian đoạn điều 
trị hóa trị liệu còn ít trong khi đó theo các nghiên 
cứu của Tổ chức Nghiên cứu và điều trị ung thư 
châu Âu (EORTC) đã chứng minh rằng mô hình 
vi sinh vật phân lập được thay đổi gần như 2-3 
năm/lần [12]. Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu này nhằm các mục tiêu:
1. Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm trùng ở trẻ em bị 
LXM cấp dòng lympho trong giai đoạn hóa trị liệu 
tấn công.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan với nhiễm 
trùng trong quá trình điều trị.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU 
2.1. Đối tượng 
Gồm 97 bệnh nhân được chẩn đoán và phân 
loại là LXM cấp dòng lympho chấp nhận điều trị 
theo phác đồ CCG và ANZCCSG Study VII từ 
tháng 9/2010 đến tháng 8/2011 tại khoa Ung bướu 
Bệnh viện Nhi Trung ương.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân 
Tiêu chuẩn chẩn đoán xác định bệnh LXM cấp 
dòng lympho
- Lâm sàng: Có đủ hay có một số triệu chứng 
trong hai hội chứng thâm nhiễm tủy và thâm nhiễm 
tổ chức khác.
- Tủy xương: ≥ 25% tế bào lymphoblast và có 
hiện tượng lấn át tủy, đây là tiêu chuẩn quyết định 
chẩn đoán.
Tiêu chuẩn nhiễm trùng [7, 18,20, 21] : 
- Sốt khi nhiệt độ ở miệng ≥ 38,3oC hoặc >38oC 
kéo dài trên 1h
- CRP > 6 mg/l. 
- Hoặc có triệu chứng nhiễm trùng chỉ điểm 
tại các cơ quan hoặc phân lập tác nhân gây bệnh 
dương tính.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân
- Lơxêmi cấp dòng lympho thể L3.
- BN bị nhiễm khuẩn trước khi tiến hành điều 
trị theo phác đồ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mô tả vừa hồi cứu 
vừa tiến cứu. 
Các xét nghiệm được tiến hành tại phòng các 
xét nghiệm huyết học, sinh hóa và vi trùng của 
Bệnh viện Nhi Trung ương. 
Kết quả thu được xử lý trên phần mềm SPSS 
17.0.
3. KẾT QUẢ
3.1 Tỷ lệ nhiễm trùng
Tỷ lệ nhiễm trùng trong giai đoạn hóa trị liệu tấn 
công là 41,2%, sốt chưa rõ nguyên nhân (CRNN) 
chiếm 29,9%.
Biểu đồ 1. Tỷ lệ nhiễm trùng
TẠP CHÍ NHI KHOA 2013, 6, 1
28
3.2. Phân loại nhiễm trùng 
Bảng 1. Phân loại nhiễm trùng
Phân loại Số BN %
Nhiễm trùng:
 Dựa vào lâm sàng, không có bằng chứng VK học
 Dựa vào lâm sàng, có bằng chứng VK học
24
16
60
40
Tổng 40 100
Nhận xét: Trong 40 BN có biểu hiện nhiễm trùng trong quá trình điều trị thì có 16 BN chẩn đoán 
nhiễm trùng có bằng chứng vi khuẩn học (40%) và 24 BN chẩn đoán nhiễm trùng dựa vào các biểu hiện 
lâm sàng (60%).
3.3. Cơ quan bị nhiễm trùng 
Biểu đồ 2. Vị trí nhiễm trùng
Nhận xét: Cơ quan bị NT hay gặp nhất là họng miệng chiếm 31,6%, đường hô hấp chiếm 19%, nhiễm 
trùng huyết (17,7%), đường tiêu hóa và da, mô mềm chiếm 12,7%. 
v ... iễm trùng thì có 11 BN chẩn đoán nhiễm trùng 
phân lập được vi khuẩn gây bệnh chiếm 45,8% và 
13 BN chẩn đoán nhiễm trùng dựa vào các dấu 
hiệu lâm sàng (54,2%) [22].
Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi, thì 
tỷ lệ chẩn đoán nhiễm trùng dựa vào phân lập vi 
khuẩn thấp hơn các tác giả trên, chẩn đoán nhiễm 
trùng chủ yếu dựa vào các biểu hiện lâm sàng. 
Điều này có lẽ là do kỹ thuật lấy bệnh phẩm hoặc 
nuôi cấy vi khuẩn của chúng tôi. Mặt khác, trong 
số BN nghiên cứu của chúng tôi có một phần lớn 
BN được dùng kháng sinh phổ rộng trước khi tiến 
hành lấy bệnh phẩm nên kết quả cấy dương tính 
của chúng tôi không cao. 
z Vị trí nhiễm trùng
Nghiên cứu của chúng tôi tìm thấy 79 vị trí 
nhiễm trùng, trong đó vị trí hay gặp nhất là NT 
họng miệng chiếm tỷ lệ 31,6%, tiếp theo là NT 
hô hấp dưới (19%), nhiễm trùng huyết (17,7%), 
là NT tiêu hóa (12,7%), nhiễm trùng da, mô mềm 
(12,7%), viêm màng não chỉ chiếm 2,5%. So sánh 
kết quả nghiên cứu của một số tác giả trên, chúng 
tôi nhân thấy vị trí nhiễm trùng hay gặp thì tương 
tự nhau ( nhiễm trùng hô hấp dưới, nhiễm trùng 
huyết, nhiễm trùng họng miệng...). Bởi vì, hóa 
chất điều trị ung thư là một trong những nguyên 
nhân chính gây tổn thương niêm mạc. Các hóa 
chất điều trị ung thư nhằm vào tất cả những tế 
bào có khả năng sinh sản nhanh và thường xuyên 
được đổi mới như tế bào ung thư, tế bào niêm 
mạc đường tiêu hóa, tế bào chân tóc. Chính vì 
vậy biểu hiện lâm sàng thường gặp ở BN điều trị 
hóa chất là viêm miệng, viêm ruột. Và đây cũng là 
đường vào quan trọng của vi khuẩn. 
Nhưng tỷ lệ các vị trí nhiễm trùng hay gặp ở 
các nhóm nghiên cứu là khác nhau. Sự khác nhau 
này có thể là do khác nhau về phác đồ điều trị hóa 
chất, về môi trường nằm viện, điều kiện vệ sinh 
và điều kiện chăm sóc của các nhóm nghiên cứu. 
[2][5][22].
z Sự kết hợp các vị trí nhiễm trùng 
Kết quả nghiên cứu ở biểu đồ 3, cho thấy có tới 
50% BN có từ 2 vị trí NT trở lên. 22,5% BN có 2 cơ 
quan bị NT, 15% BN có 3 cơ quan bị NT và 12,5% 
BN có tới 4 cơ quan bị NT. Theo Meir Hadir M (Ả 
rập) năm 2001, nghiên cứu trên 137 BN mắc NT 
trong quá trình điều trị tấn công thì có 39% BN có 
2 cơ quan bị NT, 37% có từ 3 cơ quan NT trở lên 
và 24% BN có 1 cơ quan bị NT[14]. Theo Conter 
V và cs (2004), có 48% bệnh nhân có nhiều hơn 
một cơ quan bị NT [11]. Điều này có thể được giải 
thích: Ở BN ung thư do tình trạng suy giảm miễn 
dịch cùng với quá trình điều trị hóa chất nhất làm 
giảm BCĐNTT, do đó cơ thể không có khả năng 
khu trú ổ nhiễm trùng. 
z Vị trí phân lập được vi khuẩn gây bệnh
Vị trí phân lập được vi khuẩn gây bệnh trong 
nghiên cứu của chúng tôi chỉ có ở bốn vị trí. Vị trí 
phân lập được vi khuẩn gặp nhiều nhất là từ máu 
chiếm 77,8% còn từ các cơ quan khác chiếm 22,2% 
như chất loét miệng chiếm 11,1%, từ dịch mủ ở da 
và ở họng chiếm 5.6%. Còn các vị trí khác như phân, 
dịch não tủy, dịch phế quản, nước tiểu đều không 
phân lập được vi khuẩn. Điều này có lẽ là do kỹ thuật 
lấy bệnh phẩm của chúng tôi không đảm bảo.
Theo tác giả Mahmud S và cs (Pakistan), năm 
2004, 55% vi khuẩn phân lập được từ máu và 45% 
vi khuẩn phân lập được từ các vị trí khác [12]. 
Theo Chua Ma Teresa Alcala (Phillipin) năm 
1995, có 38 vi khuẩn được phân lập thì có đến 28 
vi khuẩn được phân lập từ máu chiếm 73,7% và 
10 vi khuẩn được phân lập từ các cơ quan khác 
(26,3%) như phân, nước tiểu, dịch hầu họng, dịch 
mủ viêm. Cũng theo tác giả này, nhiễm khuẩn hô 
hấp chiếm tỷ lệ cao nhất nhưng chẩn đoán chỉ dựa 
vào lâm sàng vì rất khó khăn trong việc lấy đờm 
và dịch phế quản ở trẻ em [10]. Từ kết quả này 
cho thấy, có lẽ bệnh phẩm máu là bệnh phẩm dễ 
thực hiện nhất nên chiếm tỷ lệ cao hơn các bệnh 
phẩm khác. 
z Tác nhân gây nhiễm trùng phân lập được
Trong nghiên cứu của chúng tôi trực khuẩn Gr(-) là 
tác nhân gây NT hàng đầu chiếm 61,1%. Trong đó, vi 
khuẩn hay gặp theo thứ tự là Klebsiella pneumoniae 
(33,3%), Staphylococcus aureus (22,2%), Candida 
albicans (16,7%). Trong nghiên cứu của chúng tôi 
có 2 trường hợp có sự kết hợp vi khuẩn gây bệnh 
đó là Klesiella pneumonia + Enterobacter cloacae, 
Klesiella pneumonia + Escherichia coli.
Theo nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy đã có 
TẠP CHÍ NHI KHOA 2013, 6, 1
34
sự thay đổi lớn về mô hình vi sinh vật gây bệnh 
NT ở bệnh nhân ung thư có giảm BCĐNTT. Nhiễm 
trùng do trực khuẩn Gr (-) giảm dần theo thời gian 
và thay vào đó nhiễm trùng Gr (+) đang ngày càng 
tăng lên nhanh chóng. Theo các tác giả sự thay 
đổi này là do sử dụng catheter tĩnh mạch trung 
tâm trong sử dụng hóa chất, dùng kháng sinh dự 
phòng rộng rãi...[14], [16], [22]. 
z Biến đổi số lượng BCĐNTT và nhiễm trùng 
trong thời gian điều trị
Kết quả ở biểu đồ 6 cho thấy số lượng BCĐNTT 
bắt đầu giảm sau 3 ngày điều trị hóa chất và giảm 
nặng nhất vào tuần thứ 2, tăng dần ở tuần thứ 3 và 
hồi phục dần vào tuần thứ 4 của quá trình điều trị. Kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên 
cứu của các tác giả Đậu Thùy Dương, Trương Thị 
Như Ý, H Hunault-Berger, Pui CH [1][6][17][19]. 
Điều này cũng lý giải tại sao tỷ lệ nhiễm trùng gặp 
cao nhất vào tuần thứ 1 và 2, sau đó giảm dần vào 
tuần thứ 4 của điều trị hóa chất. 
z Liên quan giữa số lượng BCĐNTT với thời 
gian nhiễm trùng
Thời gian NT khi số lượng BCĐNTT ≤ 0,1G/l dài 
hơn thời gian NT khi số lượng BCĐNTT > 0,1G/l. 
Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p <0,05. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự 
như kết quả nghiên cứu của Đậu Thùy Dương [1], 
Trần Việt Hà [2] và Nita L. Seibel [18] (Bảng 3.1)
z Liên quan giữa thời gian giảm BCĐNTT với 
thời gian nhiễm trùng
Mặt khác thời gian giảm BCĐNTT còn ảnh 
hưởng đến thời gian NT của bệnh nhân. Kết quả 
ở bảng 2 cho thấy thời gian giảm BCĐNTT càng 
dài thì thời gian NT càng dài, thời gian NT của BN 
có thời gian giảm BCĐNTT ≤ 7 ngày là 9,17 ± 5,29 
ngày, trong khi đó thời gian NT của BN có thời gian 
giảm BCĐNTT > 21ngày là 20,71 ± 19,54 ngày. Sự 
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. 
Từ kết quả nghiên cứu trên cho thấy cần phải 
áp dụng các biện pháp hỗ trợ tích cực để nâng cao 
số lượng BCĐNTT càng sớm càng tốt, rút ngắn 
thời gian giảm BCĐNTT nhằm hạn chế tỷ lệ nhiễm 
trùng, hạn chế tỷ lệ tử vong. 
z Liên quan giữa nhiễm trùng theo tuổi và 
theo miễn dịch tế bào và nhóm nguy cơ 
Tuổi mắc bệnh nhiễm trùng cao nhất trong quá 
trình điều trị là nhóm tuổi > 10 tuổi chiếm 72,7% 
và nhóm bệnh nguy cơ cao thường có tỷ lệ nhiễm 
trùng cao hơn nhóm bệnh nguy cơ thường. 
5. KẾT LUẬN
Tỷ lệ nhiễm trùng trong giai đoạn hóa trị liệu tấn 
công ở bệnh nhi LXM cấp dòng lympho còn khá cao 
chiếm 41,2%. Thời điểm giảm BCĐNTT nặng nhất 
cũng là thời điểm có tỷ lệ nhiễm trùng cao nhất, đặc 
biệt trong 2 tuần đầu của quá trình điều trị hóa chất. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đậu Thùy Dương (2008), “ Nghiên cứu đặc 
điểm của biến chứng nhiễm trùng ở bệnh nhân 
lơxêmi cấp sau đa hóa trị liệu giai đoạn 2007-2008 
tại Viện Huyết học - Truyền máu trung ương”, Luận 
văn bác sĩ, Trường Đại học Y Hà Nội.
2. Trần Việt Hà (2001), “Nghiên cứu tình trạng 
nhiễm trùng do vi khuẩn ở những bệnh nhân mắc 
bệnh về cơ quan tạo máu có giảm bạch cầu trung 
tính tại Viện huyết học- Truyền máu”, Luận văn 
bác sĩ nội trú, Trường Đại học Y Hà Nội.
3. Nguyễn Công Khanh, Bùi Ngọc Lan, Dương 
Bá Trực, Trần thị Hồng Hà, Tạ Thu Hoà, Bùi văn 
Viên, Nguyễn Hoàng Nam (2005), “Nghiên cứu 
ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nâng cao chất lượng 
phân loại, điều trị Lơxêmi cấp ở trẻ em”. 
Nhi khoa, tập 13, số 1: 3 - 7.
4. Bùi Ngọc Lan (2008), “Nghiên cứu đặc điểm 
lâm sàng,cận lâm sàng và điều trị bệnh lơxêmi cấp 
dòng lympho nguy cơ không cao ở trẻ em”, Luận 
văn tiến sĩ y học, Trường Đại học Y Hà Nội
5. Lê Thị Phượng, (2005), “ Khảo sát một số 
tác dụng phụ và độc tính do hóa trị liệu giai đoạn 
tấn công trên bệnh nhân lơxêmi cấp dòng lympho 
tại Bệnh viện Nhi Trung ương’’, Luận văn bác sĩ 
nội trú, Trường Đại học Y Hà Nội
6. Trương Thị Như Ý (2004), “Khảo sát các 
biến chứng thường gặp do hóa trị liệu tấn công 
trên bệnh nhân lơxêmi cấp dòng tủy điều trị tại Viện 
huyết học truyền máu”, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ 
nội trú bệnh viện, Trường Đại học Y Hà Nội. 
7. Antonino Bonaventura, et al. (1995), 
“Complication of cytotoxic therapy part 1”, Aust 
Precr, 18: 65 - 67.
8. Chandra Anitan Sr, (2006), “Infection 
Complications during therapy of acute 
lymphoblastic leukaemia at the Cancer Institute, 
Chennai, India’’, Data from a Developing country
9. Chong CY, Tan AM, et al, (1998), “Infections 
in acute lymphoblastic leukaemia’’, Ann Acard Med 
Singapore, 27. 491-5.
35
PHẦN NGHIÊN CỨU
10. Chua MaTeresa Alcala, (1995), “Infections 
in Acute Leukemia”, Philippine Children’s Medical 
Center
11. Conter V et al, (2004), “Acute Lymphoblastic 
Leukemia”, Orphanet Encyclopedia
12. Mahmud S, Ghafoor T, Badsha S et al, 
(2004), “Bacterial Infections in Paediatric Patients 
with Chemotherapy Induced Neutropenia”, J Pak 
Med Assoc, Vol 54 No.5.237-243.
13. Martin Schrappe and Martin Stanulla 
(2003). “Treatment of Childhood Acute 
Lymphoblastic Leuke-mia. Chemotherapeutic 
trategies. Treatment of Acute Leukemias” - New 
Directions for clinical research. Edited by Ching 
Hon Pui: 87 - 104.
14. Meir Hadir M, Balawi IbrahimA, et al, 
(2001), “Fever and granulocytopenia in children 
with acute lymphoblastic leukaemia under induction 
therapy”, Saudi Med, Vol, 22 (5). 423-427. 
15. Melisse Sloas, Marc Rubin, Thomas 
J.Walsh and Philip A.Pizzo, (1995), “Clinical 
approach to infections in the compromised host”, 
Hematology Basis Principles and Practice. 1414-
1463
16. Moriguchi Naohiko, Nakahata Tatsutoshi, 
et al, (2007) “Infectious complications in children with 
acute lymphoblastic leukaemia during chemotherapy”, 
Japanese Journal of Peadiatric Hematology, 2007. 
19-24.
17. M Hunault-Berger et al, (2001), “ 
Daunorubicin continuous infusion induces more 
toxicity than bolus infusion in acute lymphoblastic 
leukemia induction regimen”, Leukemia, 15: 898-
902
18. Nita L. Seibel, Peter Steinherz, Harland 
Sather et al, (2002), “Treatment of patients with 
acute lymphoblastic leukemia with unfavorable 
features”, A Phase III Group-Wide Study,pp:119-
120
19. Pui C-H (2009). “Treatment of acute 
leukemias. New directions for clinical research”, 
Humana Press, USA.
20. Ritter J, Schrappe M, (1999), “Clinical 
feature and therapy of lymphoblastic leukemia”, 
Pediatric Hematology: 537-563
21. Yosif Matloub, Bruce C, et al. (2000), 
“Escalating dose intravenous ethotrexate without 
leucovorin rescue vs. oral methotrexate and single 
vs double delayed intensifi cation for chidren with 
standard risk acute lymphoblastic leukemia”, A 
phase III group - wide study, CCG 1991.
22. Zajac–Spychala Olga, Derwich 
Katarzyna et al, (2009), “ Early complications 
of induction therapy in children with acute 
lymphoblastic leukemia treated according to the 
ALL IC-BFM 2002 regimen”, NOWOTWORY 
Journal of Oncology,number 6:221-225
ABSTRACT
INFECTIOUS COMPLICATIONS OF CHILDREN WITH ACUTE LYMPHOBLASTIC LEUKEMIA 
DURING INDUCTION CHEMOTHERAPY
Background: Acute lymphoblastic leukemia (ALL) is the most common hematological malignancies 
in children. EFS and OS of children with ALL in NHP are higher before. However, infection is still one 
of the most common complications and also is a major cause of death. The aim is to evaluate the 
infection rate in children with ALL in NHP in the induction chemotherapy and fi nd out the factors related 
to infection in this phase. Methods: 97 patients with ALL at Oncology Departments of NHP were treated 
with chemotherapy by CCG 1961 or CCG 1991 protocol for ALL pre-B or ANZCCSG ALL Study VII 
protocol for ALL T cell from September 2010 to August 2011. This research included both prospective 
and retrospective study. Criteria of infected patient were: had fever over 38,3oC prolonged over 1 hour, 
CRP > 6 mg/L, clinical infected sign at any organ, and had/hadn’t documented organism. Results: 
Infection rate was 41.2%, unknown fever was 29.9%. Evidence of cultured samples was 40% of patients. 
Commonly infected organs were mouth and throat (31.6%). Rate of respiratory infection was 19%, 
septicemia was 17.7%, digestive infection was 12.7%, and infection at skin or soft tissue was 12.7%. 
50% of patients with two or more organs were infected, including 22.5% of patients had two infected 
TẠP CHÍ NHI KHOA 2013, 6, 1
36
organs, 15% had three infected organs, and 12.5% had four infected organs. Samples which were found 
organism were mainly blood sample (77.8%). Result of cultured samples showed that K. Pneumonia 
hold 33.3%, S. Aureus was 22.2%, Candida Albicans 16.7%, Enterobacter cloacae was 11.1%. The 
rate of infection was increasing in the fi rst two weeks and reducing after that. At the second week of 
chemotherapy, ANC was the lowest (0.3 G/L) and the rate of infection was the highest (38%). Patients 
with ANC under 0.1 G/L spent longer infected time (13.8 ± 13.9 days to 9.0 ± 5 days), p = 0.004. Mean 
duration of infection were 13.9 ± 11.5 days. The longer of duration of neutropenia occurred, the longer of 
infected duration was, p < 0,001. High rate of infection had been founded at patients who were over 10 
years old (72.7%), then patients under 5 years old (39.3%), p < 0.05. Patients with high risk of ALL had 
higher infection rate in comparison to standard risk (72% and 25.4%), p < 0.05.
Conclusion: The rate of infection during induction chemotherapy in ALL is still high at NHP. Factors 
which related to infection included time and period of severe neutropenia, age of patient, high risk ALL. 
Duration of ANC nadir (the second week of chemotherapy) was the time that infection rate was the 
highest.
Key words: Acute lymphoblastic leukemia (ALL), infection, neutropenia.

File đính kèm:

  • pdfcac_bien_chung_nhiem_trung_trong_giai_doan_hoa_tri_lieu_tan.pdf