Mối liên quan giữa yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường nhà trường với vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở

Đặt vấn đề: Chăm sóc sức khỏe đặc biệt là sức khỏe tâm thần học sinh cần có sự quan tâm, phối hợp giữa

gia đình, nhà trường và ngành y tế mới mong mang lại hiệu quả cao cho sự hình thành, phát triển trí tuệ, nhân

cách và thể lực của học sinh. Tìm hiểu mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường

trường học đến tình trạng sức khỏe tâm thần của học sinh là rất cần thiết.

Mục tiêu: Xác định mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường trường học đến

tình trạng sức khỏe tâm thần (SKTT) của học sinh trung học cơ sở (THCS) tại 5 tỉnh thuộc miền Bắc, Trung,

Nam và Tây Nguyên năm học 2015 - 2016.

Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang trên với 6.639 học sinh của 20 trường

THCS tại Vĩnh Phúc, Hà Nam, Bình Định, An Giang, Gia Lai. Sử dụng bộ câu hỏi tự điền SDQ cho học sinh để

tự đánh giá các câu hỏi liên quan đến vấn đề SKTT; học sinh tự điền theo bộ câu hỏi có sẵn về các đặc điểm cá

nhân, môi trường gia đình và môi trường trường học.

Mối liên quan giữa yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường nhà trường với vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở trang 1

Trang 1

Mối liên quan giữa yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường nhà trường với vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở trang 2

Trang 2

Mối liên quan giữa yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường nhà trường với vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở trang 3

Trang 3

Mối liên quan giữa yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường nhà trường với vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở trang 4

Trang 4

Mối liên quan giữa yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường nhà trường với vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở trang 5

Trang 5

Mối liên quan giữa yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường nhà trường với vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở trang 6

Trang 6

Mối liên quan giữa yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường nhà trường với vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở trang 7

Trang 7

pdf 7 trang viethung 7340
Bạn đang xem tài liệu "Mối liên quan giữa yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường nhà trường với vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối liên quan giữa yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường nhà trường với vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở

Mối liên quan giữa yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường nhà trường với vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 592
MỐI LIÊN QUAN GIỮA YẾU TỐ CÁ NHÂN, MÔI TRƯỜNG GIA ĐÌNH, 
MÔI TRƯỜNG NHÀ TRƯỜNG VỚI VẤN ĐỀ SỨC KHỎE 
TÂM THẦN HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ 
Chu Văn Thăng*, Nguyễn Thị Hồng Diễm** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Chăm sóc sức khỏe đặc biệt là sức khỏe tâm thần học sinh cần có sự quan tâm, phối hợp giữa 
gia đình, nhà trường và ngành y tế mới mong mang lại hiệu quả cao cho sự hình thành, phát triển trí tuệ, nhân 
cách và thể lực của học sinh. Tìm hiểu mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường 
trường học đến tình trạng sức khỏe tâm thần của học sinh là rất cần thiết. 
Mục tiêu: Xác định mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường trường học đến 
tình trạng sức khỏe tâm thần (SKTT) của học sinh trung học cơ sở (THCS) tại 5 tỉnh thuộc miền Bắc, Trung, 
Nam và Tây Nguyên năm học 2015 - 2016. 
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang trên với 6.639 học sinh của 20 trường 
THCS tại Vĩnh Phúc, Hà Nam, Bình Định, An Giang, Gia Lai. Sử dụng bộ câu hỏi tự điền SDQ cho học sinh để 
tự đánh giá các câu hỏi liên quan đến vấn đề SKTT; học sinh tự điền theo bộ câu hỏi có sẵn về các đặc điểm cá 
nhân, môi trường gia đình và môi trường trường học. 
Kết quả: Học sinh nam, học lực kém/trung bình, hạnh kiểm kém/trung bình, có sử dụng máy vi tính, có đi 
học thêm có tỉ lệ có vấn đề về sức khỏe sức khỏe tâm thần cao hơn so với học sinh nữ, học lực khá/giỏi, hạnh kiểm 
khá/tốt, không sử dụng máy tính và không đi học thêm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001 (test χ2); học 
sinh chứng kiến người lớn đánh nhau, bị người thân trong gia đình đánh và không được gia đình yêu mến có tỉ lệ 
có vấn đề sức khỏe tâm thần chung cao hơn so với học sinh sống trong gia đình hòa thuận không đánh nhau, 
không bị người thân đánh và được gia đình yêu mến sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (test χ2); học 
sinh không thích đi học, bị bắt nạt, bị thầy cô phạt và bị thầy cô đánh có tỉ lệ có vấn đề sức khỏe tâm thần cao hơn 
so với học sinh thích đi học, không bị bắt nạt, không bị thầy cô phạt và không bị thầy cô đánh, sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê với p<0,001 (test χ2). 
Kết luận: Có sự liên quan giữa yếu tố cá nhân, yếu tố gia đình và nhà trường đến tình hình sức khỏe tâm 
thần học sinh. 
Từ khóa: vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh 
ABSTRACT 
THE RELATIONSHIP BETWEEN INDIVIDUAL FACTORS, FAMILY AND SCHOOL 
ENVIRONMENT WITH MENTAL HEALTH OF SECONDARY SCHOOL STUDENTS 
Chu Van Thang, Nguyen Thi Hong Diem 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 592 – 598 
Background: Health care, especially student’s mental health needs to pay attention and coordination 
between families, schools and the health sector to bring high efficiency for the formation and development of 
students' wisdom, personality and physical health. Understanding the relationship between personal factors, the 
family and school environment to the mental health status of students are very essential. 
Objectives: Identify the relationship between individual factors, the family environment, the school 
*Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế **Trường Đại học Y Hà Nội 
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Thị Hồng Diễm ĐT: 0905165239 Email: hongdiemmoh@gmail.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 593
environment to the mental health status of secondary school students in 5 provinces in the North, Central, South 
and Central Highlands in school year 2015 - 2016. 
Methods: A cross-descriptive study was conducted on 6.639 students of 20 secondary schools in Vinh Phuc, 
Ha Nam, Binh Dinh, An Giang and Gia Lai provinces. Using the Strengths and Difficulties Questionnaire (SDQ) 
and the self-administered questionnaire for students about questions related to mental health problems, personal 
characteristics, family environment and school environment. 
Results: Students who were male, have poor/average learning results, poor/average behavior, use computer, 
did not have a separate learning corner, participate extra classes had a higher rate of mental health problems than 
students who were female, had good/fair learning results, good/fair behavior, no use computer and did not go to 
extra classes, the difference was statistically significant with p <0.001 (test χ2); students who witnessed adults 
fighting, were beaten by family members and were not loved by their families had a higher prevalence of common 
mental health problems than students living in harmony families, not beaten by loved ones and loved by the 
family, the difference was statistically significant with p <0.05 (test χ2); students who did not like to go to school, 
were bullied, were punished and beaten by teachers had a higher rate of mental health problems than students 
who liked to go to school, were not bullied, and were not punished and beaten by teachers by teachers, the 
difference was statistically with p <0.001 (test χ2). 
Conclusions: There is the relationship between personal factors, family and school environment to the 
mental health situation of students. 
Keywords: mental health problems for students 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Xã hội ngày càng phát triển thì việc nhận 
thức về giá trị sức khỏe của con người ngày càng 
được nâng cao. Chăm sóc sức khỏe (CSSK) đã 
trở thành mối quan tâm hàng đầu của toàn xã 
hội, đặc biệt CSSK cho lứa tuổi học sinh. Học 
sinh là tương lai của đất nước, sức khỏe của học 
sinh hôm nay quyết định đến khuynh hướng 
sức khỏe dân tộc ta trong tương lai. Để tương lai 
được bền vững thì chúng ta phải tạo điều kiện 
cho các em phát triển hài hòa, toàn diện về cả thể 
chất lẫn tâm thần. Chăm sóc sức khỏe thể chất 
tạo điều kiện cho trẻ em phát triển thể lực, chiều 
cao, cân nặng, hoàn thiện dần các chức năng của 
cơ thể, giảm khả năng mắc bệnh tật v ... câu hỏi liên quan đến 
vấn đề sức khỏe tâm thần ở trẻ em. 
Bảng hỏi SDQ25 (Strengths and Difficulties 
Questionnaire 25 items) do Robert Goodman 
thuộc Viện Tâm thần London xây dựng(6). Tại 
Việt Nam bộ câu hỏi SDQ cũng được sử dụng 
rộng rãi trong các nghiên cứu như nghiên cứu 
“Khảo sát sức khỏe tâm thần học sinh trường 
học Hà Nội” do Ngô Thanh Hồi bệnh viện Tâm 
thần Ban ngày Mai Hương thực hiện(4) và nhiều 
nghiên cứu khác. 
Cách đánh giá cụ thể như sau: 
Đánh giá kết quả theo thang điểm SDQ có 3 
cách lựa chọn: 
Không đúng = 0 điểm. 
Đúng một phần = 1 điểm. Các câu đúng một 
phần đều được cho 1 điểm, riêng câu 7, 11, 14, 
21, 25 trên thang SDQ sẽ thay đổi: không đúng = 
2 điểm, chắc chắn đúng = 0 điểm. 
Chắc chắn đúng = 2 điểm. 
Đánh giá sức khỏe tâm thần chung: tính tổng 
điểm 20 câu, không tính điểm giao tiếp xã hội. 
Tổng điểm được chia làm 3 mức đánh giá: 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 595
Bình thường (không gặp khó khăn về SKTT): 
0-11 điểm; 
Nghi ngờ (nghi ngờ, chưa chắc chắn): 12-15 điểm; 
Có vấn đề SKTT (có khó khăn về SKTT): 16-
40 điểm. 
Các học sinh có vấn đề SKTT là học sinh có 
điểm đánh giá từ 16 - 40 điểm. 
Sử dụng bộ câu hỏi tự điền theo bộ câu hỏi 
có sẵn về các đặc điểm cá nhân, môi trường gia 
đình và môi trường trường học. 
Phân tích và xử lý số liệu 
Số liệu được nhập và làm sạch bằng phần 
mềm Epi data 3.1 và được xử lý trên phần mềm 
Stata phiên bản 10.0. Test Khi bình phương (χ2) 
được sử dụng để tìm sự khác biệt giữa các 
nhóm, giá trị p<0,05 được xem là có ý nghĩa 
thống kê. 
KẾT QUẢ 
Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu: 
Phân bố học sinh theo giới khá đồng đều, 
nam chiếm 48,7% và nữ chiếm 51,3%. Hơn một 
nửa số học sinh đạt học lực khá giỏi trong học kỳ 
trước (61,9%) và 38,1% đạt học lực kém/trung 
bình. Hầu hết học sinh đạt hạnh kiểm khá tốt, 
chiếm 95,4%, chỉ có 4,6% học sinh hạnh kiểm 
kém/trung bình (Bảng 1). 
Bảng 1: Đặc điểm học sinh THCS (từ lớp 6 đến lớp 
9) năm học 2015 – 2016 (n= 6.639) 
Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ % 
Giới 
Nam 3.233 48,7 
Nữ 3.406 51,3 
Học lực 
Khá/giỏi 4.109 61,9 
Kém/trung bình 2.530 38,1 
Hạnh kiểm 
Khá/tốt 6.333 95,4 
Kém/trung bình 306 4,6 
Mối liên quan đơn biến giữa các yếu tố cá 
nhân, môi trường gia đình và môi trường nhà 
trường với vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh 
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tình 
hình sức khỏe tâm thần chung theo giới, học lực, 
hạnh kiểm, sử dụng máy vi tính, tình trạng học 
thêm với p<0,001 (test χ2). Học sinh nam, học lực 
kém/trung bình, hạnh kiểm kém/trung bình, có 
sử dụng máy vi tính, có đi học thêm có tỉ lệ có 
vấn đề về sức khỏe sức khỏe tâm thần chung cao 
hơn so với nhóm học sinh nữ, học lực khá/giỏi, 
hạnh kiểm khá/tốt, không sử dụng máy tính và 
không đi học thêm (Bảng 2). 
Bảng 2: Tình hình học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần theo đặc điểm cá nhân 
 Có vấn đề SKTT 
Đặc điểm cá nhân 
Số lượng Tỷ lệ % Tổng χ
2 
(p) 
Giới 
Nam 563 17,4 3.233 
60,10 (< 0,001) 
Nữ 368 10,8 3.406 
Học lực 
Khá/giỏi 386 9,4 4.109 
190,57 (< 0,001) 
Kém/trung bình 544 21,5 2.530 
Hạnh kiểm 
Khá/tốt 804 12,7 6.333 
89,86 (< 0,001 
Kém/trung bình 97 31,9 306 
Sử dụng máy vi tính 
Có 474 16,7 2.841 
32,47 (<0,001) 
Không 448 11,8 3.798 
Học thêm 
Có 361 16,8 2.151 
24,64 (< 0,001) 
Không 552 12,3 4.488 
Bảng 3: Tình hình học sinh có vấn đề SKTT theo môi trường gia đình 
 Có vấn đề SKTT 
Môi trường gia đình 
Số lượng Tỷ lệ % Tổng χ
2 
(p) 
Người lớn đánh nhau 
Không 743 13,3 5.583 
14,27 (< 0,001) 
Có 187 17,7 1.056 
Bị người thân trong gia đình 
đánh 
Không 801 13,4 5.981 
17,21 (< 0,001) 
Có 127 19,3 658 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 596
Gia đình yêu mến 
Có 425 13,1 3.246 
4,00 (0,045) 
Không 502 14,8 3.393 
Bảng 4: Tình trạng sức khỏe tâm thần chung của học sinh theo môi trường nhà trường 
 Vấn đề SKTT 
Môi trường nhà trường 
Số lượng Tỷ lệ % Tổng χ
2 
(p) 
Thích đi học 
Có 801 13,5 5.935 
12,17 (< 0,001) 
Không 129 18,3 704 
Bị bắt nạt 
Không 665 13,0 5.112 
17,89 (< 0,001) 
Có 264 17,3 1.527 
Bị thầy/cô phạt 
Không 352 11,8 2.987 
22,01 (< 0,001) 
Có 577 15,8 3.652 
Bị thầy/cô đánh 
Không 391 11,0 3.558 
58,00 (< 0,001) 
Có 539 17,5 3.081 
Học sinh chứng kiến người lớn đánh nhau, 
bị người thân trong gia đình đánh và không 
được gia đình yêu mến có tỉ lệ có vấn đề sức 
khỏe tâm thần chung cao hơn so với học sinh 
sống trong gia đình hòa thuận không đánh 
nhau, không bị người thân đánh và được gia 
đình yêu mến với p<0,05 (test χ2) (Bảng 3). 
Học sinh không thích đi học, bị bắt nạt, bị 
thầy cô phạt và bị thầy cô đánh có tỉ lệ có vấn đề 
sức khỏe tâm thần chung cao hơn so với học sinh 
thích đi học, không bị bắt nạt, không bị thầy cô 
phạt và không bị thầy cô đánh với p<0,001 (test 
χ2) (Bảng 4). 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu 
Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trên 
6.639 học sinh THCS ở 5 tỉnh thuộc 4 vùng 
miền. Tỉ lệ học sinh nam và nữ là tương đồng 
(48,7% và 51,3%), kết quả này phù hợp với đặc 
điểm đối tượng nghiên cứu của các nghiên cứu 
trước đây như nghiên cứu Đào Thị Tuyết (nam 
51,8%, nữ 48,2%)(1). 
Tỉ lệ học sinh khá giỏi trong nghiên cứu 
của chúng tôi là 61,9%, tỉ lệ này tương đồng 
với tỉ lệ học sinh khá giỏi trong nghiên cứu của 
Ngô Thanh Hồi - Bệnh viện Tâm thần Mai 
Hương (65,2%)(4). 
Mối liên quan đơn biến giữa các yếu tố cá 
nhân, môi trường gia đình và môi trường nhà 
trường với vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh 
Yếu tố đặc điểm cá nhân và vấn đề sức khỏe 
tâm thần ở học sinh THCS năm học 2015-2016 
Lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là giai 
đoạn sau vị thành niên và trước khi bước sang 
tuổi trưởng thành, vì vậy đây được cho là lứa 
tuổi ngang bướng, rất khó để nắm bắt được tâm 
lý của trẻ, những biến đổi sinh học cũng ảnh 
hưởng đến tâm lý của các em. Tỉ lệ học sinh nam 
có vấn đề SKTT là 17,4% và nữ là 10,8% (Bảng 2). 
Kết quả nghiên cứu này tương đồng với nghiên 
cứu về một số yếu tố ảnh hưởng đến SKTT của 
học sinh ở một số trường THCS của Lê Thị Kim 
Dung cho thấy vấn đề SKTT ở nam chiếm tỷ lệ 
cao hơn nữ, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
(p<0,01)(3). Có thể học sinh nam và nữ ở lứa tuổi 
này có thời kì dậy thì khác nhau nên việc phát 
triển tâm lý cũng khác nhau(8). Điều này cho thấy 
giới tính ở lứa tuổi học sinh THCS có liên quan 
đến vấn đề sức khỏe tâm thần của các em. 
Hiện nay, việc sử dụng máy vi tính đang rất 
phổ biến do sự phát triển không ngừng của xã 
hội. Theo kết quả nghiên cứu này (bảng 2) tỉ lệ 
học sinh có vấn đề SKTT có sử dụng máy vi tính 
có tỷ lệ có vấn đề STTT cao hơn nhóm không sử 
dụng máy vi tính (16,7% và 11,8%). Kết quả có ý 
nghĩa thống kê, việc sử dụng máy tính là con 
dao hai lưỡi, các em có thể bị ảnh hưởng xấu, 
những tệ nạn xã hội có thể tác động không nhỏ 
đến SKTT các em và dẫn đến những suy nghĩ, 
hành động lệch lạc. Việc trẻ em say mê các trò 
chơi trực tuyến thâu đêm suốt sáng đến độ bỏ 
ăn, quên ngủ và phải đi bệnh viện cấp cứu như 
một số trường hợp là hành vi nghiện ngập, là sự 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 597
thiếu khả năng kiểm soát về hành vi, không làm 
chủ được hành vi của mình. 
Tỉ lệ học sinh khá giỏi có vấn đề SKTT chiếm 
9,4% trong khi đó học sinh có học lực kém, trung 
bình có vấn đề SKTT là 21,5%. Điều này cho thấy 
học sinh có học lực kém, trung bình cũng ảnh 
hưởng đến vấn đề SKTT của học sinh. Các em có 
học lực kém, trung bình thì cảm thấy xấu hổ với 
bạn bè, cô giáo và người thân. Các em mặc cảm, 
tự ti với kết quả học tập của mình. Tuy nhiên, 
các em có học lực khá giỏi cũng có vấn đề SKTT 
điều này cho thấy áp lực học tập và những kì 
vọng của bố mẹ khiến cho các em căng thẳng. 
Tỉ lệ học sinh có vấn đề SKTT có trong 
nhóm có hạnh kiểm kém/trung bình là cao hơn 
nhóm học sinh có hạnh kiểm khá/tốt (31,9% và 
12,7%). Điều này cho thấy hạnh kiểm chính là 
thước đo về thái độ hành vi của các em trong 
môi trường nhà trường, trong quan hệ bạn bè, 
thầy cô giáo. Thời gian gần đây, tỷ lệ học sinh 
ngỗ ngược, đánh nhau, đánh lại thầy cô giáo 
càng ngày càng tăng. Vấn đề hạnh kiểm của 
học sinh có liên quan đến vấn đề sức khỏe tâm 
thần của học sinh. 
Tỷ lệ học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần ở 
nhóm có đi học thêm cao hơn nhóm không đi 
học thêm (16,8% và 12,3%), sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê. Có thể lý giải vì áp lực học tập 
nặng nề làm cho trẻ em lúc nào cũng căng thẳng, 
lo sợ, dẫn đến những rối loạn về cả thế xác lẫn 
tâm trí. Vấn đề học thêm với chính thầy cô ở 
trường, trẻ phải học ngày học đêm nên không có 
thời gian nghỉ ngơi, giải trí, luyện tập thân thể. 
Điều này dẫn đến những hành vi bất thường, tác 
hại lâu dài đến tư duy sáng tạo học hỏi của trẻ. 
Yếu tố môi trường gia đình và vấn đề sức khỏe 
tâm thần ở học sinh THCS năm học 2015 -2016 
Gia đình là nền tảng của xã hội, gia đình 
hạnh phúc, con cái trưởng thành, sẽ đóng góp 
một phần cho sự phát triển một xã hội tốt đẹp, 
một đất nước văn minh và giàu mạnh. Tuy 
nhiên, bên cạnh những mặt tích cực như sự tốt 
đẹp của mỗi gia đình, sự hạnh phúc của cha mẹ, 
sự trưởng thành của con cái, thì vẫn có những 
vấn đề mà mỗi chúng ta đều phải nhìn nhận một 
cách xác đáng. Đặc biệt là trẻ sống trong gia đình 
có những hoàn cảnh không may như gia đình ly 
tán, cha mẹ thường xuyên xung đột, có người 
uống rượu, thường xuyên dùng bạo lực, trẻ bị 
bạo hành, bị đối xử bất công, bị xúc phạm, giáo 
dục lệch lạc dễ bị ảnh hưởng đến hành vi, ứng 
xử . Những gia đình có bố mẹ quá bận rộn với 
công việc không có thời gian chăm sóc gần gũi 
con cái sẽ khiến cho trẻ bị lôi cuốn bởi những tác 
động xấu từ xã hội, từ phim ảnh, internet(3). 
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ học sinh bị 
bố mẹ đánh có vấn đề SKTT là 19,3% cao hơn 
nhóm trẻ không bị mắng phạt (13,4%) hoặc học 
sinh nhìn thấy người lớn trong gia đình đánh 
nhau có tỷ lệ có vấn đề SKTT cao hơn nhóm còn 
lại (17,7% và 13,3%), sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê. Gia đình hòa thuận, bố mẹ yêu thương 
nhau, yêu thương con cái cũng là yếu tố giúp trẻ 
có một môi trường sống hạnh phúc vui vẻ, tránh 
được vấn đề SKTT. Theo Hoàng Cẩm Tú, cha 
mẹ sống không hạnh phúc, bạo lực gia đình 
cùng một số yếu tố khác chiếm đến 2/3 nguyên 
nhân rối loạn hành vi, chống đối, trầm cảm, tự 
sát, nghiện hút ở trẻ em(2). Trong nghiên cứu của 
của chúng tôi tỷ lệ học sinh có vấn đề SKTT 
trong nhóm bố mẹ, đánh nhau, cãi nhau cao hơn 
nhóm không chứng kiến bố mẹ cãi nhau. 
Yếu tố môi trường học tập và vấn đề sức khỏe 
tâm thần ở học sinh THCS năm học 2015-2016 
Một môi trường học đường tốt, ở đó học sinh 
được tôn trọng, được giáo viên khuyến khích 
động viên và chương trình học phù hợp sẽ giúp 
thanh thiếu niên hạn chế tâm lý tiêu cực trong 
cuộc sống. Kết quả Điều tra Quốc gia về Vị 
thành niên và Thanh niên Việt Nam lần thứ 2 
của Nguyễn Thanh Hương năm 2010 cho thấy 
yếu tố về môi trường trường học có ảnh hưởng 
đáng kể đến tâm trạng buồn chán của học sinh. 
Chương trình học quá tải (OR=1,25), đôi khi giáo 
viên đánh và mắng học sinh (OR=1,33) là những 
yếu tố nguy cơ cho SKTT học sinh(5). 
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy tỉ lệ 
học sinh bị thầy cô phạt có vấn đề SKTT cao hơn 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 598
nhóm học sinh không bị thầy cô phạt (15,8% và 
11,8%). Tỉ lệ học sinh có vấn đề SKTT khi bị thầy 
cô giáo đánh cao hơn tỷ lệ học sinh có vấn đề về 
SKTT khi không bị thầy cô đánh. Tỉ lệ học sinh 
bị bạn bè bắt nạt có vấn đề sức khỏe tâm thần 
cao hơn so với học sinh không bị bắt nạt (17,3% 
và 13,0%). Nhóm học sinh thích đi học có tỷ lệ về 
vấn đề SKTT thấp hơn nhóm không thích đi học. 
Điều này cho thấy yếu tố môi trường học tập, 
cách ứng xử của thầy cô, quan hệ bạn bè có ảnh 
hưởng đến SKTT học sinh. 
KẾT LUẬN 
Tình trạng vấn đề sức khỏe tâm thần bị ảnh 
hưởng bởi các yếu tố các nhân, môi trường gia 
đình và môi trường nhà trường như giới tính, 
học lực, hạnh kiểm, tình trạng sử dụng máy vi 
tính, tình trạng đi học thêm; học sinh chứng kiến 
người lớn đánh nhau, bị người thân trong gia 
đình đánh và không được gia đình yêu mến; học 
sinh không thích đi học, bị bắt nạt, bị thầy cô 
phạt, đánh có tỉ lệ có vấn đề sức khỏe tâm thần 
cao hơn so với các nhóm ngược lại. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đào Thị Tuyết (2014). Thực trạng SKTT và các yếu tố liên quan 
của học sinh trường Trung học cơ sở Tam Khương, Đống Đa, 
Hà Nội năm 2014. Luận văn Thạc sĩ Y tế công cộng, Đại học Y tế 
công cộng. 
2. Hoàng Cẩm Tú (2007). Bảo vệ chăm sóc sức khỏe tâm thần trẻ 
em, giáo dục tâm lý sức khỏe tâm thần trẻ em Việt Nam. Nhà 
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. 
3. Lê Thị Kim Dung và cộng sự (2005). Nghiên cứu một số yếu tố 
ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần học sinh một số trường 
Trung học cơ sở. Bộ giáo dục và Đào tạo. 
4. Ngô Thanh Hồi, Trần Thị Hồng Thu (2010). Khảo sát sức khỏe 
tâm thần học sinh trường học thành phố Hà Nội. Tạp chí Y học 
Thực hành, 8(730):44-48. 
5. Nguyễn Thanh Hương (2010). Điều tra Quốc gia về Vị thành 
niên và Thanh niên Việt Nam. Trường Đại học Y tế công cộng. 
6. Robert Goodman (1997). Scoring the Self-Report Strengths and 
Difficulties Questionnaire. Institute of Psychiatry London. 
7. Tran Tuan, Trudy Harpham and Nguyen Thu Huong (2005). 
Measuring social capital and mental health in Viet Nam: A 
validity study Young Lives- An International Study on 
Childhood Poverty, No. 12. Working Paper, London, UK. 
8. Trường Đại học Y Hà Nội (2004). Sức khỏe lứa tuổi. Nhà xuất 
bản Y học. 
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019 

File đính kèm:

  • pdfmoi_lien_quan_giua_yeu_to_ca_nhan_moi_truong_gia_dinh_moi_tr.pdf