Bước đầu ứng dụng xét nghiệm đột biến gen trong chẩn đoán trước mổ các nhân giáp có kết quả tế bào học không xác định
Đặt vấn đề: Nhân giáp không xác định được tính chất là những nhân giáp thuộc nhóm Bethesda III, IV và V; và khoảng 10-30% mẫu tế bào học sẽ rơi vào các nhóm này. Đặc điểm chung của nhóm nhân giáp này là có nguy cơ ác tính không rõ ràng dao động từ 10 - 75% gây khó khăn trong việc điều trị và xử trí. Hiện nay, nhiều khuyến cáo cho phép thực hiện xét nghiệm sinh học phân tử nhằm chẩn đoán trước mổ các nhân giáp không xác định, trong đó bộ xét nghiệm đột biến 7 gen thường gặp nhất trong ung thư tuyến giáp thường được sử dụng vì kĩ thuật đơn giản và giá thành thấp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu mô tả hàng loạt 30 nhân giáp có kết quả tế bào học thuộc nhóm III, IV và V được làm xét nghiệm đột biến 7 gen và được so sánh với kết quả giải phẫu bệnh sau mổ. Kết quả: Tỉ lệ nhân giáp mang đột biến gen trong mẫu nghiên cứu là 76%, trong đó đột biến gen BRAF V600E là 63% và đột biến gen NRAS là 13%. Có sự tương quan giữa loại đột biến gen và kết quả tế bào học (p<0,001). Nhóm Bethesda V thường có đột biến gen BRAF V600E và nhóm IV thường có đột biến gen RAS. Tương tự, có sự tương quan giữa kiểu gen và kiểu hình mô học (p<0,001). Các đột biến gen BRAF V600E có kiểu hình nhú, còn đột biến gen NRAS có kiểu hình nang. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm của đột biến gen nói chung lần lượt là 91%; 62%; 87%; 71%. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm của đột biến BRAF V600E là 83%, 100%, 100%, 73%. Kết luận: Xét nghiệm sinh học phân tử trong các nhân giáp không xác định có thể giúp ích trong chẩn đoán trước mổ các nhân giáp này. Tuy nhiên, giá trị còn tuỳ thuộc vào từng loại đột biến gen phát hiện được
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bước đầu ứng dụng xét nghiệm đột biến gen trong chẩn đoán trước mổ các nhân giáp có kết quả tế bào học không xác định
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 206 BƯỚC ĐẦU ỨNG DỤNG XÉT NGHIỆM ĐỘT BIẾN GEN TRONG CHẨN ĐOÁN TRƯỚC MỔ CÁC NHÂN GIÁP CÓ KẾT QUẢ TẾ BÀO HỌC KHÔNG XÁC ĐỊNH TRẦN THỊ THANH TRÚC1, THÁI ANH TÚ2, HUỲNH KHÁNH PHÚ1, TRẦN CHÍ TIẾN3, PHẠM XUÂN DŨNG4 Địa chỉ liên hệ: Trần Thị Thanh Trúc Email: trantruc4t@gmail.com Ngày nhận bài: 09/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 BS. Khoa Giải phẫu bệnh - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 2 ThS.BS. Phó Trưởng Khoa Giải phẫu bệnh - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 3 BS Khoa Ngoại tuyến giáp - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 4 TS.BS. Giám đốc Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM Trưởng Bộ môn Ung Bướu Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư tuyến giáp là loại ung thư đứng hàng thứ 9 tại Việt Nam (GLOBOCAN 2018) và xuất độ liên tục gia tăng hàng năm. Đối với ung thư tuyến giáp, siêu âm là phương tiện tầm soát sớm và chẩn đoán đầu tay khá kinh tế và hiệu quả. Khi kết hợp chọc hút kim nhỏ dưới hướng dẫn của siêu âm, việc chẩn đoán trước mổ sẽ cho kết quả chính xác về tình trạng lành tính, ác tính trong 70-80% trường hợp[2]. Tuy nhiên, khoảng 10-30% trường hợp kết quả tế bào học sẽ rơi vào nhóm không xác định, tức nhóm III, IV và V[2]. Nhóm này có nguy cơ ác tính khá dao động từ 10 - 75% dẫn đến việc xử trí các TÓM TẮT Đặt vấn đề: Nhân giáp không xác định được tính chất là những nhân giáp thuộc nhóm Bethesda III, IV và V; và khoảng 10-30% mẫu tế bào học sẽ rơi vào các nhóm này. Đặc điểm chung của nhóm nhân giáp này là có nguy cơ ác tính không rõ ràng dao động từ 10 - 75% gây khó khăn trong việc điều trị và xử trí. Hiện nay, nhiều khuyến cáo cho phép thực hiện xét nghiệm sinh học phân tử nhằm chẩn đoán trước mổ các nhân giáp không xác định, trong đó bộ xét nghiệm đột biến 7 gen thường gặp nhất trong ung thư tuyến giáp thường được sử dụng vì kĩ thuật đơn giản và giá thành thấp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu mô tả hàng loạt 30 nhân giáp có kết quả tế bào học thuộc nhóm III, IV và V được làm xét nghiệm đột biến 7 gen và được so sánh với kết quả giải phẫu bệnh sau mổ. Kết quả: Tỉ lệ nhân giáp mang đột biến gen trong mẫu nghiên cứu là 76%, trong đó đột biến gen BRAF V600E là 63% và đột biến gen NRAS là 13%. Có sự tương quan giữa loại đột biến gen và kết quả tế bào học (p<0,001). Nhóm Bethesda V thường có đột biến gen BRAF V600E và nhóm IV thường có đột biến gen RAS. Tương tự, có sự tương quan giữa kiểu gen và kiểu hình mô học (p<0,001). Các đột biến gen BRAF V600E có kiểu hình nhú, còn đột biến gen NRAS có kiểu hình nang. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm của đột biến gen nói chung lần lượt là 91%; 62%; 87%; 71%. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm của đột biến BRAF V600E là 83%, 100%, 100%, 73%. Kết luận: Xét nghiệm sinh học phân tử trong các nhân giáp không xác định có thể giúp ích trong chẩn đoán trước mổ các nhân giáp này. Tuy nhiên, giá trị còn tuỳ thuộc vào từng loại đột biến gen phát hiện được. Từ khoá: Đột biến 7 gen, tế bào học, nhân giáp không xác định. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 207 nhân giáp này chưa nhất quán và nhiều khi điều trị quá tay hoặc quá thấp[2]. Gần đây, các hướng dẫn lâm sàng của các hiệp hội lớn trên thế giới như NCCN hay ATA có đề cập đến vai trò của xét nghiệm sinh học phân tử trong chẩn đoán các nhân giáp không xác định. Trong số các loại xét nghiệm sinh học phân tử hiện nay, loại xét nghiệm đầu tiên ứng dụng cho các nhân giáp không xác định phải kể đến bộ đột biến 7 gen, gồm có BRAF V600E, KRAS, HRAS, NRAS, RET/PTC1, RET/PTC3, và PAX8/PPARG. Bảy đột biến gen này rất hiếm khi xuất hiện đồng thời trên cùng một nhân giáp và do đó, khi thực hiện như một bộ sẽ làm tăng độ nhạy của xét nghiệm lên đáng kể. Các báo cáo từ phương Tây cho thấy 70% carcinôm tuyến giáp dạng nhú (Papillary thyroid carcinoma- PTC) sẽ biểu một trong các gen trên, riêng đối với đột biến gen BRAF V600E chiếm 40%[13] trường hợp. Tuy nhiên các báo cáo từ châu Á lại cho thấy tỉ lệ đột biến gen BRAF V600E cao hơn nhiều tại châu lục này, lên đến 80%[11]. Từ đó cho thấy, việc thực hiện bộ đột biến 7 gen sẽ cho những giá trị khác nhau tại các vùng địa lý khác nhau. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm mục đích chính đó là đánh giá sự khả thi của việc tìm đột biến trên mẫu tế bào học và đối chiếu kết quả giải phẫu bệnh và phân loại của FNA với kết quả của đột biến gen. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Ba mươi nhân giáp có nhóm Bethesda III, IV và V đã có chỉ định phẫu thuật và được chọn thuận tiện theo nhu cầu của bác sĩ lâm sàng. Sau khi giải thích và nhận được sự đồng ý từ bệnh nhân, các ca bệnh sẽ được chọc hút FNA lần 2 nhằm lấy mẫu phục vụ cho việc thực hiện tìm đột biến gen. Bác sĩ siêu âm sẽ khảo sát tuyến giáp và chọc đúng nhân giáp cần thực hiện sinh học phân tử trong trường hợp bệnh nhân có nhiều nhân giáp. Mẫu tế bào được lấy bằng kim 23G, sau đó bơm trực tiếp lên 2 lam và cố định ngay bằng cồn tuyệt đối. Các lọ chứa lam được trữ ở nhiệt độ phòng qua đêm, sau đó hai lam được chia làm hai, một tiến hành tách chiết DNA bằng kit SaMag FFPE Tissue DNA Extraction với máy Samag 12, một dùng để tách RNA được tách bằng kit Invitrap Spin Universal RNA và thực hiện thủ công. Mẫu DNA/RNA sau tách chiết được đo nồng độ DNA/RNA nhằm đảm bảo đủ số lượng theo yêu cầu của nhà sản xuất và sau đó sẽ được trữ ở nhiệt độ -20oC qua đêm. Tiếp theo, mẫu DNA sẽ dùng kit Thyroid Cancer Mutation Detection để tìm các đột biến gen BRAF V600E, NRAS, HRAS, KRAS; mẫu RNA sẽ dùng kit Thyroid cancer Fusion Gene Detection để phát hiện các chuyển vị gen RET/PTC1, RET/PTC3, PAX8/PPARγ. Tất cả 7 loại đột biến đều được thực hiện bằng kĩ thuật rea ... hẫu bệnh là có ý nghĩa thống kê (Fisher, p < 0,001) (Biểu đồ 5) Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 209 13 8 50 10087 92 100 50 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100% mPTC cPTC fPTC FA PG ÂM TÍNH BRAF V600E NRAS Biểu đồ 5. Sự tương quan giữa kiểu gen và kiểu hình trên giải phẫu bệnh BÀN LUẬN Trong nghiên cứu này, tỉ lệ nhóm V chiếm phần lớn với 73% trường hợp. Qua đó, có thể thấy rằng nhóm Bethesda V thường gặp nhất chiếm trong các nhân giáp không xác định, theo sau đó là nhóm Bethesda IV và III. Khi xét sự tương quan giữa đột biến gen và nhóm Bethesda, nghiên cứu này cũng như các nghiên cứu khác đều cho thấy tỉ lệ đột biến gen BRAF V600E chiếm tỉ lệ cao trong nhóm Bethesda V, còn đột biến gen RAS thì chiếm tỉ lệ lớn trong nhóm IV. Bellevicine và cs. thực hiện nghiên cứu trên 1172 nhân giáp không xác định với bộ kit tương đồng với nghiên cứu này và ghi nhận, tỉ lệ có đột biến theo từng nhóm Bethesda III, IV, V lần lượt là 21%, 36%, 73%. Tương tự, nhóm đột biến giống- BRAF V600E trong nhóm Bethesda V là 80% và nhóm đột biến giống-RAS trong nhóm III và IV lần lượt là 18% và 27%[1]. Kết quả như trên là hoàn toàn phù hợp, nhóm III có tỉ lệ âm tính với đột biến cao nhất (80%) là vì tế bào học của nhóm này thường có số lượng tế bào ít và phết tế bào không đạt chất lượng dẫn đến những thay đổi bất thường trong nhóm này có thể là do artifact. Vì vậy, việc thực hiện chọc hút kim nhỏ lần hai sẽ khả thi hơn và ít tổn kém hơn là thực hiện xét nghiệm SHPT trong điều kiện thực tế tại Việt Nam. Mặt khác, với nhóm IV là tổn thương dạng nang, một phần ba các trường hợp trong nhóm này là phình giáp và do đó sẽ âm tính với đột biến gen. Các nhân giáp thuộc nhóm Bethesda IV còn lại có đột biến gen RAS và có kết quả là bướu lành tính. Tuy nhiên, vì tỉ lệ nhóm IV trong nghiên cứu này còn quá thấp và không đại diện cho nên tỉ lệ lành ác trong nhóm này và giá trị của các đột biến gen đi kèm với nó chưa thể đánh giá được. Độ nhạy của đột biến tính chung cho cả 3 nhóm Bethesda đối với chẩn đoán ác tính là 91%, tuy nhiên, độ đặc hiệu không cao, chỉ đạt 62%. Giá trị tiên đoán dương và âm lần lượt là 87% và 71%, chưa đủ cao để loại trừ hay chẩn đoán ác tính. Tuy nhiên, khi các giá trị trên tính riêng cho đột biến gen BRAF V600E thì độ nhạy giảm, chỉ còn 83%, nhưng độ đặc hiệu và giá trị tiên đoán dương đạt 100%. Nói cách khác, nếu có đột biến gen BRAF V600E thì nguy cơ ác tính trước mổ của nhân giáp không xác định đó là 100%. Khi so sánh giá trị của đột biến BRAF V600E với những nghiên cứu khác, độ nhạy có thay đổi nhưng giá trị tiên đoán dương đều cao từ 96 - 99%[7]. Do vậy, Hiệp hội tuyến giáp Hoa Kỳ (ATA) khuyến cáo sử dụng BRAF V600E như một bằng chứng tin cậy của PTC trong chẩn đoán trước mổ [10]. Với bối cảnh ở Việt Nam là 1 quốc gia châu Á có tỉ lệ BRAF V600E cao và PTC là loại ung thư thường gặp ở giáp thì việc sử dụng BRAF V600E trong chẩn đoán trước mổ là rất khả thi. Tuy nhiên, vì giá trị tiên đoán âm chỉ đạt 73% cho nên nếu âm tính với đột biến này thì cũng không có nghĩa là lành tính, vì nhân giáp có thể có những đột biến khác hoặc có thể âm giả do kích thước quá nhỏ (1 ca chỉ Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 210 có 3mm) nên đủ số lượng tế bào để khuyếch đại DNA của gen đột biến. Đột biến gen RAS gồm có KRAS, NRAS và HRAS, nhưng trong nghiên cứu này chỉ phát hiện được đột biến gen NRAS, vì mẫu nhỏ và vì đột biến gen NRAS là đột biến gen thường gặp thứ hai sau BRAF V600E. Trong nghiên cứu này, tỉ lệ NRAS trong nhân giáp không xác định tính chất là 13% (4/30 ca) và tỉ lệ ác tính là 25% (1/4 ca). Khi so sánh với các báo cáo khác, tỉ lệ RAS nói chung trong nhóm nhân giáp không xác định tính chất là 34,4% (khoảng tin cậy 95%; 19,8 - 50,6%), và giá trị tiên đoán dương khá dao động từ 37 - 93%[7]. Sở dĩ tỉ lệ đột biến gen RAS thấp trong nghiên cứu này là vì số mẫu lệch về phía nhóm V (22/30 ca), trong khi đó tỉ lệ đột biến gen RAS nằm chủ yếu trong nhóm Bethesda III và IV[1]. Nhìn chung, giá trị tiên đoán dương của đột biến gen RAS rất dao động giữa các báo cáo. Nguyên nhân có thể là do thiết kế nghiên cứu không sử dụng mù. Người đọc kết quả giải phẫu bệnh biết trước tình trạng đột biến gen và nhóm Bethesda của nhân giáp nên có thể dẫn đến sai lầm trong chẩn đoán kết quả. Cụ thể, các bác sĩ giải phẫu bệnh có khuynh hướng trả lời các nhân giáp có kiểu hình nang là lành tính hơn là ác tính, nhất là trong bối cảnh các nhân giáp kiểu hình nang, có vỏ bao và xâm lấn tối thiểu[5]. El Sheikh cùng cs. báo cáo sự tương hợp về kết quả giải phẫu bệnh của bướu tuyến dạng nang, carcinôm tuyến giáp dạng nang, PTC biến thể nang giữa 6 bác sĩ giải phẫu bệnh chỉ đạt 13% các ca[4]. Vì vậy, các nghiên cứu cho thấy đột biến gen RAS không giúp ích nhiều trong chẩn đoán trước mổ các nhân giáp không xác định[3], tuy nhiên, việc có đột biến gen RAS cho thấy nhân giáp này có khả năng cao là một tổn thương u có kiểu hình nang và có khuynh hướng tiến triển chậm, tiên lượng tốt, cho dù tổn thương đó có thể là carcinôm[9]. Nhằm tăng độ đặc hiệu cũng như giá trị tiên đoán dương của đột biến gen RAS, các bác sĩ lâm sàng có thể phối hợp kết quả của đột biến gen với tế bào học. Điều này cũng đã được cho thấy qua nghiên cứu của Gaun cùng cs., tỉ lệ ác tính trong nhóm Bethesda III và IV có đột biến gen RAS lần lượt là 15,6% và 12,5%; nhưng tỉ lệ này của nhóm V 85,7% (p<0,003)[8]. Nhân giáp ác tính duy nhất mang đột biến gen NRAS trong nghiên cứu này có Bethesda V. Do đó, cùng mang đột biến gen NRAS nhưng nguy cơ ác tính sẽ cao hơn nếu là nhóm Bethesda V. Ngoài ra, bướu tuyến dạng bè hyaline hoá là một nhóm bướu lành tính nhưng có đặc điểm dễ nhầm lẫn với PTC biến thể nang trên tế bào học nên thường rơi vào nhóm nguy cơ cao như IV, V, VI. Nhóm bướu này được đặc trưng bởi chuyển vị gen PAX8/GLIS1 và PAX8/GLIS3. Do đó, nếu thực hiện SHPT có đột biến gen RAS sẽ giúp chúng ta loại được nhóm bướu này. Dù bộ kit mà nghiên cứu này thực hiện có đến 7 gen nhưng có một vài gen không phát hiện được do nhiều nguyên nhân. Thứ nhất là tỉ lệ đột biến gen BRAF và RAS được cho là hai xác suất xung khắc, do đó, những nhân giáp có đột biến gen BRAF V600E thì không có đột biến gen RAS[6]. Thứ hai là cỡ mẫu của nghiên cứu này khá nhỏ nên không tìm được các đột biến gen có tần suẩt thấp hơn như PAX8/PPARγ hoặc HRAS và KRAS trong nhóm đột biến gen RAS. Thứ ba là các đột biến gen tổ hợp như RET/PTC1 và RET/PTC3 thường gặp ở nhóm bệnh nhân trẻ em hoặc thanh thiếu niên có tiền căn tiếp xúc với phóng xạ[12]. Trong khi đó dân số mẫu của nghiên cứu này có độ tuổi nhỏ nhất là 22. Ngoài ra, các đột biến gen tổ hợp không phát hiện được có thể do khâu ly trích RNA không đạt yêu cầu về số lượng và chất lượng, dẫn đến kết quả bị âm tính giả. Hầu hết các nhân giáp mang đột biến gen BRAF V600E đều cho kết quả giải phẫu bệnh sau mổ là PTC vi thể hoặc PTC thể kinh điển. Các nhân giáp có đột biến gen NRAS đều có kiểu hình nang, cụ thể là bướu tuyến dạng nang và PTC biến thể nang. Điều này tương đồng với báo cáo của Bản đồ bộ gen ung thư của PTC năm 2014 khi ghi nhận có sự tương quan về kiểu gen và kiểu hình của PTC đối với đột biến gen BRAF V600E. Theo đó, đột biến gen BRAF V600E có biểu hiện kiểu hình là dạng nhú và kém nhạy với i-ốt phóng xạ. Nghiên cứu về Bản đồ bộ gen ung thư của PTC còn đề xuất, các đột biến gen khác mà có biểu hiện kiểu hình là nhú trên giải phẫu bệnh sẽ thuộc phân nhóm phân tử giống- BRAF (như RET/PTC1&3), ngược lại với kiểu hình nang sẽ thuộc phân nhóm phân tử giống-RAS (gồm có H/K/NRAS và PAX8/PPARγ). KẾT LUẬN Nhân giáp không xác định được tính chất bao gồm nhóm Bethesda III, IV, và V và là vấn đề khó xử của các bác sĩ lâm sàng. Việc ứng dụng xét nghiệm sinh học phân tử vào các nhân giáp này sẽ giúp phân tầng nguy cơ các nhân giáp này và góp phần đưa ra hướng xử trí thích hợp hơn. Tuy nhiên, giá trị còn lại tuỳ thuộc vào loại đột biến gen phát hiện được. Sự biểu hiện đột biến gen BRAF V600E được cho là một bằng chứng tin cậy của PTC trong chẩn đoán trước mổ. Tuy nhiên, sinh học phân tử là một xét nghiệm có giá thành cao, do đó, chẩn đoán trước mổ các nhân giáp nên có sự kết hợp giữa khám lâm sàng, kết quả siêu âm và tế bào học trước khi tiến hành Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 211 xét nghiệm sinh học phân tử. Vì các đột biến gen không phải lúc nào cũng đại diện cho ác tính, kết quả lành hay ác còn tuỳ thuộc vào giá trị tiên đoán dương của từng loại đột biến. Do đó, các bác sĩ lâm sàng cần hiểu rõ các giá trị của từng loại đột biến gen để có thể đưa ra quyết định phù hợp cho từng bệnh nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bellevicine C., et al., (2020), "Evaluation of BRAF, RAS, RET/PTC, and PAX8/PPARg alterations in different Bethesda diagnostic categories: A multicentric prospective study on the validity of the 7-gene panel test in 1172 thyroid FNAs deriving from different hospitals in South Italy", Cancer Cytopathol, 128 (2), pp. 107-118. 2. Cibas E. S. and S. Z. Ali, (2017), "The 2017 Bethesda System for Reporting Thyroid Cytopathology", Thyroid, 27 (11), pp. 1341-1346. 3. Clinkscales W., et al., (2017), "Diagnostic Value of RAS Mutations in Indeterminate Thyroid Nodules", Otolaryngol Head Neck Surg, 156 (3), pp. 472-479. 4. Elsheikh T. M., et al., (2008), "Interobserver and intraobserver variation among experts in the diagnosis of thyroid follicular lesions with borderline nuclear features of papillary carcinoma", Am J Clin Pathol, 130 (5), pp. 736- 744. 5. Franc B., et al., (2003), "Interobserver and intraobserver reproducibility in the histopathology of follicular thyroid carcinoma", Hum Pathol, 34 (11), pp. 1092-1100. 6. Giordano Thomas J. and Gad Getz, (2014), "Integrated genomic characterization of papillary thyroid carcinoma", Cell, 159 (3), pp. 676-690. 7. Goldner W. S., et al., (2019), "Molecular Variants and Their Risks for Malignancy in Cytologically Indeterminate Thyroid Nodules", Thyroid, 29 (11), pp. 1594-1605. 8. Guan H., et al., (2020), "Utilities of RAS Mutations in Preoperative Fine Needle Biopsies for Decision Making for Thyroid Nodule Management: Results from a Single-Center Prospective Cohort", Thyroid, 30 (4), pp. 536- 547. 9. Gupta N., et al., (2013), "RAS mutations in thyroid FNA specimens are highly predictive of predominantly low-risk follicular-pattern cancers", J Clin Endocrinol Metab, 98 (5), pp. E914-922. 10. Haugen B. R., et al., (2016), "2015 American Thyroid Association Management Guidelines for Adult Patients with Thyroid Nodules and Differentiated Thyroid Cancer: The American Thyroid Association Guidelines Task Force on Thyroid Nodules and Differentiated Thyroid Cancer", Thyroid, 26 (1), pp. 1-133. 11. Lee S. E., et al., (2017), "Molecular Profiling of Papillary Thyroid Carcinoma in Korea with a High Prevalence of BRAF (V600E) Mutation", Thyroid, 27 (6), pp. 802-810. 12. Su X., et al., (2016), "Radiation exposure, young age, and female gender are associated with high prevalence of RET/PTC1 and RET/PTC3 in papillary thyroid cancer: a meta-analysis", Oncotarget, 7 (13), pp. 16716-16730. 13. Xing M., (2005), "BRAF mutation in thyroid cancer", Endocr Relat Cancer, 12 (2), pp. 245- 262. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 212 . Abstract Innitial implementation of 7- gene panel in presurgically diagnosing of indeterminate cytologically thyroid nodules Introduction: Indeterminate cytologically thyroid nodules are those that belong to Bethesda group III, IV and V; and approximately 10-30% of all cytologic smears fall into this category. These nodules have inconspicuous risk of malignancy ranging from 10-75% and result in uncertain management as well as treatment. At present, many guidelines have adopted molecular testing in order to better presurgically triaging thyroid nodules with indeterminate cytology. Seven most common mutations in thyroid cancer, when tested together as a panel, have been widely used because of its technical simplicity and cost-effectiveness. Materials and method: A prospective case series of 30 thyroid nodules with indeterminate cytology chosen to test for seven mutations, including BRAF V600E, H/K/NRAS, RET/PTC1, RET/PTC3 and PAX8/PPARG. Mutation status is then compared with follow-up permanent section. Results: 76% thyroid nodules in this cohort have mutation, with BRAF V600E and NRAS consituting 63% and 13%, respectively. There is a correlation between mutation types and cytology group (p<0,001). For instance, Bethesda V is more likely associated with BRAF V600E mutation, while Bethesda IV is often occupied with RAS mutation. Likewise, there is a correlation between mutation types and morphology on histology (p<0,001), e.g. BRAF V600E associating with papillary type and RAS associating with follicular type. Moreover, sensitivity, specificity, positive predictive value and negative predictive value of the panel are 91%; 62%; 87%; 71%. While sensitivity, specificity, positive predictive value and negative predictive value of BRAF V600E alone are 86%; 100%; 100%; 73% respectively. Conclusion: molecular testing in indeterminate cytologically thyroid nodules is feasible and should be regarded as a useful adjunct in presurgically diagnosing these nodules. However, the validity of this testing varies, depending on the type of mutation detected.
File đính kèm:
- buoc_dau_ung_dung_xet_nghiem_dot_bien_gen_trong_chan_doan_tr.pdf