Bước đầu khảo sát hàm lượng carbon hữu cơ không tan (POC) trong môi trường nước vùng hạ lưu hệ thống sông Hồng

Carbon hữu cơ không tan (Particulate organic

carbon, POC) cùng với carbon hữu cơ hòa tan

(DOC) là hai dạng tồn tại chính của carbon hữu cơ

trong môi trường nước. Tải lượng carbon được

chuyển tải từ sông ra biển là một thành phần quan

trọng của chu trình carbon toàn cầu [7]. Gần đây,

các ước tính về tổng tải lượng carbon hữu cơ từ

sông trên thế giới đổ ra biển đạt 0,4 Gt/năm, trong

đó 55% ở dạng carbon hữu cơ hoà tan và 45% ở

dạng carbon hữu cơ không tan. Cả hai dạng trên

đều có nguồn gốc chủ yếu từ các bể sinh quyển

Trái Đất, được biết đến như carbon hữu cơ có

nguồn gốc sinh vật, bao gồm carbon hữu cơ từ sinh

khối sống, rác thải và đất

Bước đầu khảo sát hàm lượng carbon hữu cơ không tan (POC) trong môi trường nước vùng hạ lưu hệ thống sông Hồng trang 1

Trang 1

Bước đầu khảo sát hàm lượng carbon hữu cơ không tan (POC) trong môi trường nước vùng hạ lưu hệ thống sông Hồng trang 2

Trang 2

Bước đầu khảo sát hàm lượng carbon hữu cơ không tan (POC) trong môi trường nước vùng hạ lưu hệ thống sông Hồng trang 3

Trang 3

Bước đầu khảo sát hàm lượng carbon hữu cơ không tan (POC) trong môi trường nước vùng hạ lưu hệ thống sông Hồng trang 4

Trang 4

Bước đầu khảo sát hàm lượng carbon hữu cơ không tan (POC) trong môi trường nước vùng hạ lưu hệ thống sông Hồng trang 5

Trang 5

pdf 5 trang viethung 8620
Bạn đang xem tài liệu "Bước đầu khảo sát hàm lượng carbon hữu cơ không tan (POC) trong môi trường nước vùng hạ lưu hệ thống sông Hồng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bước đầu khảo sát hàm lượng carbon hữu cơ không tan (POC) trong môi trường nước vùng hạ lưu hệ thống sông Hồng

Bước đầu khảo sát hàm lượng carbon hữu cơ không tan (POC) trong môi trường nước vùng hạ lưu hệ thống sông Hồng
 65
34(1), 65-69 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 3-2012 
BƯỚC ĐẦU KHẢO SÁT HÀM LƯỢNG CARBON 
HỮU CƠ KHÔNG TAN (POC) TRONG MÔI TRƯỜNG 
NƯỚC VÙNG HẠ LƯU HỆ THỐNG SÔNG HỒNG 
VŨ HỮU HIẾU1, LÊ THỊ PHƯƠNG QUỲNH1, GARNIER JOSETTE2, 
HENRI ETCHEBER3, DƯƠNG THỊ THỦY4, HỒ TÚ CƯỜNG4 
Email: hieuvh84@yahoo.com 
1Viện Hóa học các Hợp chất thiên nhiên - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
2Trường Đại học Paris VI, Paris 75005 -Cộng hoà Pháp 
3Trường Đại học Bordeaux I, Bordeaux - Cộng hoà Pháp 
4Viện Công nghệ Môi trường - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
1. Mở đầu 
Carbon hữu cơ không tan (Particulate organic 
carbon, POC) cùng với carbon hữu cơ hòa tan 
(DOC) là hai dạng tồn tại chính của carbon hữu cơ 
trong môi trường nước. Tải lượng carbon được 
chuyển tải từ sông ra biển là một thành phần quan 
trọng của chu trình carbon toàn cầu [7]. Gần đây, 
các ước tính về tổng tải lượng carbon hữu cơ từ 
sông trên thế giới đổ ra biển đạt 0,4 Gt/năm, trong 
đó 55% ở dạng carbon hữu cơ hoà tan và 45% ở 
dạng carbon hữu cơ không tan. Cả hai dạng trên 
đều có nguồn gốc chủ yếu từ các bể sinh quyển 
Trái Đất, được biết đến như carbon hữu cơ có 
nguồn gốc sinh vật, bao gồm carbon hữu cơ từ sinh 
khối sống, rác thải và đất [10]. 
Tải lượng carbon hữu cơ vận chuyển qua hệ 
thống sông ngòi từ đất liền ra đại dương chịu ảnh 
hưởng của các quá trình tự nhiên và hoạt động của 
con người trong lưu vực. Tải lượng carbon hữu cơ 
tăng do nạn phá rừng, xây dựng cầu đường, gia 
tăng dân số,... và giảm do việc xây dựng các hồ 
chứa trong lưu vực sông. Bên cạnh đó, tải lượng 
carbon hữu cơ còn chịu ảnh hưởng của quá trình 
phong hoá, xói mòn trong lưu vực, chế độ khí hậu, 
thảm thực vật, địa chất-địa mạo, địa kiến tạo và 
thành phần khoáng hóa, cấu trúc của đá và đất 
trong lưu vực [7, 9]. 
POC là một trong những chỉ số quan trọng để 
đánh giá chất lượng nước sông, dùng để xác định 
hàm lượng carbon hữu cơ trong chất rắn lơ lửng. 
Chất rắn lơ lửng bao gồm các nguyên tố, các hợp 
chất tách ra từ hệ động, thực vật và các chất hữu cơ 
bị hấp phụ trên bùn và đất sét. Sự phân hủy POC 
cùng với hàm lượng của nó trong nước và trong 
trầm tích đóng một vai trò quan trọng trong chất 
lượng nước sông vì nó làm giảm hàm lượng oxy 
hòa tan và làm tăng nhu cầu cầu oxy sinh học [10]. 
Nghiên cứu về POC trong nước sông đã được 
tiến hành ở nhiều quốc gia trên thế giới, tuy nhiên, 
ở Việt Nam các nghiên cứu về vấn đề này còn rất 
hạn chế. Bài báo giới thiệu kết quả bước đầu xác 
định hàm lượng POC, tìm hiểu mối quan hệ của 
chúng với lưu lượng nước và hàm lượng cát bùn lơ 
lửng trong môi trường nước hệ thống sông Hồng 
vùng hạ lưu, từ Hà Nội đến các phân lưu chính 
(sông Trà Lý, Ba Lạt, Ninh Cơ và sông Đào) trong 
thời gian từ tháng 4/2009 đến tháng 4/2010. Các 
kết quả thu được góp phần đánh giá chất lượng 
nước hệ thống sông Hồng và làm cơ sở dữ liệu cho 
các nghiên cứu tiếp theo về tính toán tải lượng 
carbon đổ ra biển của hệ thống sông Hồng, cũng 
như tạo cơ sở khoa học cho việc bảo vệ và quản lý 
nguồn nước có hiệu quả ở Việt Nam. 
2. Đối tượng và nội dung nghiên cứu 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
Hệ thống sông Hồng có diện tích lưu vực 
khoảng 156.451 km2 (51,2% diện tích thuộc lãnh 
thổ Việt Nam, 47,9% thuộc lãnh thổ Trung Quốc 
và 0,9% thuộc lãnh thổ Lào). 
 66 
Khí hậu và chế độ thủy văn: Lưu vực sông 
Hồng thuộc vùng khí hậu nhiệt đới. Mùa mưa từ 
tháng 5 đến tháng 10, thường chiếm 85-90% tổng 
lượng mưa năm. Lưu lượng nước trung bình tại 5 
trạm quan trắc trên sông Hồng và các nhánh chính 
(giai đoạn từ 4/2009 đến 4/2010) là: 1789m3/s tại 
trạm Hà Nội, 521m3/s tại trạm Nam Định, 328m3/s 
tại trạm Quyết Chiến, 143m3/s tại trạm Trực 
Phương. Riêng trạm Ba Lạt, hiện nay chỉ có số liệu 
đầy đủ về mực nước và một vài số liệu rải rác về 
lưu lượng nước. Vì vậy, nghiên cứu này mới chỉ 
khảo sát hàm lượng POC tại trạm Ba Lạt mà chưa 
đề cập tới quan hệ giữa hàm lượng POC và lưu 
lượng nước. 
Dân số và tình hình sử dụng đất: Mật độ dân 
cư thấp nhất ở lưu vực sông Đà (<100 người.km-2) 
và cao nhất ở vùng đồng bằng châu thổ (>1000 
người.km-2). Trong toàn bộ lưu vực sông Hồng, đất 
rừng và đất đồng cỏ chiếm phần lớn (34% và 24% 
tương ứng), đất trồng cây công nghiệp chiếm 13%, 
đất trồng lúa chiếm 8% và đất đô thị chỉ chiếm một 
phần rất nhỏ (< 1%). 
Hồ chứa và điều tiết nước: trong lưu vực sông 
Hồng có 2 hồ chứa lớn: hồ Hòa Bình và hồ Thác 
Bà với chức năng là các hồ thủy điện, cung cấp 
nước tưới cho nông nghiệp và điều tiết lũ. Hồ Hòa 
Bình nằm trên sông Đà, là hồ chứa lớn nhất Việt 
Nam với diện tích mặt nước là 218km2 và trữ 
lượng là 9,5km3. Hồ Thác Bà được đưa vào sử 
dụng năm 1972, nằm trên sông Chảy có diện tích 
mặt thoáng là 234km2, trữ lượng 3,6km3. 
Đối tượng nghiên cứu của bài báo này là hàm 
lượng POC trong nước hệ thống sông Hồng vùng 
hạ lưu. 
2.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 
Thời gian và vị trí lấy mẫu: Các mẫu nghiên cứu 
được lấy hàng tháng trong thời gian từ tháng 
4/2009 đến tháng 4/2010 tại trạm thuỷ văn Hà Nội 
và 4 trạm thủy văn trên các phân lưu chính của 
sông Hồng trước khi đổ ra biển Đông: trạm Ba Lạt 
(tỉnh Thái Bình) trên trục chính sông Hồng; trạm 
Trực Phương (tỉnh Nam Định) trên sông Ninh Cơ; 
trạm Nam Định (tỉnh Nam Định) trên sông Đào; và 
trạm Quyết Chiến (tỉnh Thái Bình) trên sông Trà 
Lý (hình 1). Bốn vị trí trên các phân lưu chính 
được lựa chọn nhằm thu được số liệu về hàm lượng 
POC phục vụ cho nghiên cứu tiếp theo về tính toán 
tổng tải lượng POC của sông Hồng đổ ra biển. 
Ba Lạt
Hà Nội
Nam Định
Trực Phương
Quyết Chiến
Hình 1. Các vị trí lấy mẫu tại hạ lưu hệ thống sông Hồng 
Các mẫu nước được lấy theo đúng tiêu chuẩn 
Việt Nam 5996-1995 và được lọc ngay bằng giấy 
lọc Whatman GF/F (sau khi đã được sấy khô ở 
550°C). Các mẫu giấy sau lọc chứa chất rắn lơ 
lửng được axit hoá bằng HCl 10% và được sấy ở 
60°C trong 24h, sau đó được phân tích bằng thiết 
bị LECO CS 125. Các phép đo được lặp lại 3 lần 
và lấy kết quả trung bình (khoảng tin cậy 90%). 
3. Kết quả và thảo luận 
3.1 Hàm lượng POC trong nước sông Hồng 
Bảng 1 cho thấy giá trị trung bình hàm lượng 
POC của sông Hồng ở trạm Trực Phương và trạm 
Hà Nội là lớn nhất (1,797 và 1,727 mgC/l tương 
ứng), tiếp đến là trạm Nam Định (1,414 mgC/l), 
trạm Quyết Chiến (1,329 mgC/l) và nhỏ nhất là 
trạm Ba Lạt (0,904 mgC/l). 
Bảng 1. Hàm lượng POC trong nước sông Hồng tại 
các vị trí quan trắc 
Hàm lượng POC, mgC/l 
STT Vị trí lấy mẫu Giá trị 
trung bình 
Giá trị lớn nhất 
- nhỏ nhất 
1 Trực Phương 1,797 6,406 - 0,552 
2 Quyết Chiến 1,329 3,522 -0,347 
3 Nam Định 1,414 5,637 - 0,446 
4 Ba Lạt 0,904 2,943 - 0,304 
5 Hà Nội 1,727 6,596 - 0,466 
Tại mỗi trạm quan trắc, hàm lượng POC dao 
động tương đối lớn trong thời gian từ tháng 4/2009 
đến tháng 4/2010. Hầu hết các giá trị POC lớn nhất 
tại các trạm được ghi nhận vào thời điểm mùa mưa 
(từ tháng 5 đến tháng 10) và các giá trị nhỏ nhất 
quan trắc thấy trong mùa khô (hình 2). Các giá trị 
lớn nhất cao hơn các giá trị nhỏ nhất tại các trạm 
quan trắc Hà Nội, Nam Định, Trực Phương, Quyết 
Chiến và Ba Lạt lần lượt là 14; 13; 12; 10 và 
10 lần. 
 67
0
1
2
3
4
5
6
7
04
/1
5/
09
05
/0
8/
09
05
/3
1/
09
06
/2
3/
09
07
/1
6/
09
08
/0
8/
09
08
/3
1/
09
09
/2
3/
09
10
/1
6/
09
11
/0
8/
09
12
/0
1/
09
12
/2
4/
09
01
/1
6/
10
02
/0
8/
10
03
/0
3/
10
03
/2
6/
10
04
/1
8/
10
PO
C
, m
gC
/l
Trực Phương Quyết Chiến Nam Định
Ba Lạt Hà Nội
Hình 2. Biến đổi hàm lượng POC tại các vị trí quan trắc 
trong thời gian 4/2009-4/2010 
Meybeck [8] cho rằng hàm lượng POC trong các 
hệ thống sông trên thế giới có giá trị trong khoảng 
rộng, từ 1 đến 30mg/l, trung bình đạt 5mg/l. Gần 
đây, hàm lượng POC đã được khảo sát đối với một 
số hệ thống sông trên thế giới như sau: sông 
Luodingjiang (Trung Quốc): 0,141-6,328mg/l [10]; 
sông Yangtze (Trung Quốc): 0,372-0,972mg/l [12]; 
sông Lanyang Hsi (Đài Loan): 0,206-1,750mg/l; 
sông Ordra (Ba Lan): 1,200-12,700mg/l; sông 
Mississippi (Mỹ): 0,107-0,842 mg/l,... 
3.2. Mối liên hệ giữa hàm lượng POC và lưu 
lượng nước sông 
Hàm lượng POC biến đổi theo mùa [2, 5]. Nhìn 
chung, hàm lượng POC tại các vị trí quan trắc đều 
cao vào mùa mưa khi lưu lượng nước sông tăng, 
giảm vào mùa khô khi lưu lượng nước sông giảm. 
Hình 3 cho thấy mối quan hệ theo chiều thuận 
của POC và lưu lượng nước sông tại các vị trí 
quan trắc. 
Điều này cũng đã được quan sát thấy ở nhiều 
hệ thống sông trên thế giới như sông Yangtze, 
Changjiang, Luodingjiang, phản ánh ảnh hưởng 
của quá trình xói mòn, rửa trôi carbon hữu cơ từ 
đất trong lưu vực [9]. Khi lượng mưa trong lưu vực 
tăng (làm gia tăng lưu lượng nước sông) kéo theo 
lượng đất đá bị rửa trôi và đồng thời carbon hữu cơ 
trong đất bị rửa trôi gia tăng, dẫn đến làm tăng hàm 
lượng POC trong nước sông. 
y = 0.8927Ln(x) - 4.8828
R2 = 0.2499
0
1
2
3
4
5
6
7
0 500 1000 1500 2000 2500 3000 3500
Lưu lượng nước, m3/s
PO
C
, m
gC
/l
Hà Nội
y = 0.4499Ln(x) - 0.3273
R2 = 0.0159
0
1
2
3
4
5
6
7
0 500 1000 1500 2000 2500 3000 3500
Lưu lượng nước, m3/s
PO
C
, m
gC
/l
Trực Phương
y = 0.9226Ln(x) - 3.6713
R2 = 0.5041
0
1
2
3
4
5
6
7
0 500 1000 1500 2000 2500 3000 3500
Lưu lượng nước, m3/s
PO
C
, m
gC
/l
Quyết Chiến 
y = 1.5442Ln(x) - 7.9394
R2 = 0.3444
0
1
2
3
4
5
6
7
0 500 1000 1500 2000 2500 3000 3500
Lưu lượng nước, m3/s
PO
C
, m
gC
/l
Nam Định
Hình 3. Mối quan hệ giữa hàm lượng POC và lưu lượng nước tại các trạm 
quan trắc trên sông Hồng giai đoạn 4/2009 - 5/2010 
3.3. Mối liên hệ giữa hàm lượng POC và hàm lượng chất rắn 
lơ lửng 
Hàm lượng POC trong nước sông có thể biểu diễn bằng phần trăm 
(%) so với tổng chất rắn lơ lửng (TSS) hoặc biểu diễn bằng nồng độ 
(mg/l). Giá trị của % POC trong chất rắn lơ lửng tại các vị trí quan 
trắc dao động rất lớn, từ 0,49 đến 45,75 %, trung bình đạt 1,86; 3,47;
6,68; 5,88 và 2,22% tại các trạm 
Hà Nội, Quyết Chiến, Trực 
Phương, Nam Định và Ba Lạt 
tương ứng. Các giá trị này cao 
hơn so với một số sông khác 
trên thế giới như sông 
Changjiang (1,16%) [13]; sông 
Xijiang (1,20%) [11]; sông 
Brahmaputra (0,50%), sông 
Huanghe (0,53%) [4]) và gần 
với sông Congo (6,5%) [3]). 
Mối liên quan giữa hàm 
lượng POC (hoặc % POC trong 
chất rắn lơ lửng) và chất rắn lơ 
lửng trong nước sông tại các vị 
trí quan trắc được trình bày ở 
hình 4, cho thấy hàm lượng 
POC tăng theo tỷ lệ thuận với 
hàm lượng chất rắn lơ lửng 
trong nước sông. Điều này có 
thể giải thích là do POC có 
nguồn gốc chủ yếu từ hàm 
lượng carbon hữu cơ trong đất, 
theo quá trình xói mòn và rửa 
trôi, được chuyển tải vào các hệ 
thủy văn. 
 68 
y = 0.0065x + 1.0829
R2 = 0.1543
0
1
2
3
4
5
6
7
8
0 100 200 300 400 500 600
TSS, mg/l
PO
C
, m
gC
/l
Hà Nội
y = 6.9467x-0.3364
R2 = 0.4799
0
1
2
3
4
5
6
7
8
0 100 200 300 400 500 600
TSS, mg/l
%
 P
O
C
Hà Nội
y = 0.0072x + 1.5227
R2 = 0.0407
0
1
2
3
4
5
6
7
8
0 100 200 300 400 500
TSS, mg/l
PO
C
, m
gC
/l
Trực Phương
y = 43.979x-0.7407
R2 = 0.3303
0
1
2
3
4
5
6
7
8
0 100 200 300 400 500
TSS, mg/l
%
 P
O
C
Trực Phương
y = 6.553x-0.2816
R2 = 0.4325
0
1
2
3
4
5
6
7
8
0 100 200 300 400 500
TSS, mg/l
%
 P
O
C
Quyết Chiến 
y = 0.01x + 0.7175
R2 = 0.4693
0
1
2
3
4
5
6
7
8
0 100 200 300 400 500
TSS, mg/l
PO
C
, m
gC
/l
Nam Định
y = 31.193x-0.5962
R2 = 0.8787
0
1
2
3
4
5
6
7
8
0 100 200 300 400 500
TSS, mg/l
%
 P
O
C
Nam Định
y = 0.008x + 0.9591
R2 = 0.5833
0
1
2
3
4
5
6
7
8
0 100 200 300 400 500
TSS, mg/l
PO
C
, m
gC
/l
Quyết Chiến 
y = 69.975x-0.9979
R2 = 0.2245
0
1
2
3
4
5
6
7
8
0 100 200 300 400 500
TSS, mg/l
%
 P
O
C
Ba Lạt
y = 0.0088x + 0.3133
R2 = 0.0984
0
1
2
3
4
5
6
7
8
0 100 200 300 400 500
TSS, mg/l
PO
C
, m
gC
/l
Ba Lạt
Hình 4. Biểu diễn mối quan hệ giữa hàm lượng POC và % POC với hàm lượng 
TSS tại các trạm quan trắc trên sông Hồng trong thời gian tháng 4/2009 - 
4/2010 
Hình 4 cũng cho thấy % POC trong chất rắn lơ lửng lại giảm khi 
hàm lượng TSS tăng. Mối quan hệ này cũng đã được quan sát đối với 
hầu hết các sông trên thế giới [1, 6, 7]. Có một số cách giải thích cho 
mối quan hệ giữa hàm lượng carbon không tan (POC) và tổng chất rắn 
lơ lửng như sau: (i) hàm lượng TSS cao sẽ làm giảm ánh sáng trong 
nước sông, điều này hạn chế sự 
phát triển của tảo và làm giảm 
sự đóng góp carbon “bản địa”; 
(ii) cùng với sự xói mòn đất 
mạnh, POC trong nước sông có 
thể bị pha loãng do các chất 
khoáng có nguồn gốc từ xói 
mòn đất lục địa hoặc do quá 
trình tái dịch chuyển chất 
khoáng từ đáy sông; (iii) sự xói 
mòn cơ học với cường độ khác 
nhau ảnh hưởng khác nhau tới 
các tầng đất khác nhau. Sự xói 
mòn cơ học chậm chủ yếu xảy 
ra tại tầng đất bề mặt. Với sự 
xói mòn đất tăng lên, đất trong 
tầng sâu hơn và chứa ít carbon 
hữu cơ hơn sẽ bị rửa trôi vào 
sông.Vì vậy, sự xói mòn mạnh 
tại các tầng đất sâu sẽ làm tăng 
ít hơn hàm lượng carbon hữu cơ 
trong nước sông [7, 9]. 
4. Kết luận 
Kết quả khảo sát cho thấy, 
hàm lượng POC trung bình giữa 
các trạm quan trắc dao động với 
biên độ không quá lớn, biến đổi 
trong khoảng 0,904 mg/l (trạm 
Ba Lạt) đến 1,797 mg/l (trạm 
Trực Phương). Hàm lượng POC 
tại tất cả các trạm quan trắc đều 
tăng tỉ lệ thuận với lưu lượng 
nước sông và hàm lượng tổng 
chất rắn lơ lửng, đồng thời 
%POC trong cát bùn lơ lửng lại 
giảm khi hàm lượng TSS tăng. 
Các mối liên hệ này phản ánh 
các quá trình xói mòn, rửa trôi 
xảy ra mạnh mẽ trong lưu vực, 
và có ảnh hưởng trực tiếp tới 
hàm lượng POC trong nước 
sông. Tuy nhiên, đây chỉ là các 
kết quả nghiên cứu ban đầu. 
Cần mở rộng quy mô quan trắc 
về hàm lượng POC trong nước 
sông và thu thập đầy đủ số liệu 
về lưu lượng nước sông để có 
thể tính toán chính xác về tổng 
tải lượng POC của sông Hồng 
đổ ra biển. 
 69
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được hoàn thành 
trong đề tài “Đánh giá nguy cơ gây phì dưỡng môi 
trường nước lưu vực sông Hồng (Việt Nam): tác 
động trực tiếp của con người và biến đổi khí hậu.”, 
mã số 105.09.89.09. Tập thể tác giả xin chân thành 
cảm ơn Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ 
Quốc Gia (NAFOSTED) đã tài trợ kinh phí 
thực hiện. 
TÀI LIỆU DẪN 
[1] Balakrishna K, Probst JL., 2005: Organic 
carbon transport and C-N ratio variations in a large 
tropical river: Godavari as a case study, India. 
Biogeochemistry 73:457-73. 
[2] BarałkiEwicz D., Siepak J., 1994: The 
contents and variability of TOC, POC and DOC 
concentration natural waters. Polish Journal of 
Environmental studies. 3, 2. 
[3] Coynel, A., Seyler, P., Etcheber, H., 
Meybeck, M., Orange, D., 2005: Spatial and 
seasonal dynamics of total suspended sediment and 
organic carbon species in the Congo River. 
Global Biogeochemical Cycles 19, GB4019, 
doi:10.1029/2004GB002335. 
[4] Dianjun, G., Longjun, Z., Liqing J., 2009: 
The effects of estuarine processes on the fluxes of 
inorganic and organic carbon in the Yellow River 
estuary. Journal of Ocean University of China 
ISSN 1993-5021, 8, 352-358. 
[5] DoJliDo J., DMitruk U., 2002: Total 
Organic Carbon. Water and Sewage Systems 9, 
167. 
[6] Gao QZ, Tao Z, Yao GR, Ding J, Liu ZF, 
Liu KX., 2007: Elemental and isotopic signatures 
of particulate organic carbon in the Zengjiang 
River, southern China. Hydrol Process 21:1318-27. 
[7] Ludwig W, Probst JL, Kempe S., 1996: 
Predicting the oceanic input of organic carbon by 
continental erosion. Glob. Biogeochem. Cycles 
10(1):23-41. 
[8] Meybeck M. 1982: Carbon, nitrogen and 
phosphorus transport by world rivers. American 
Journal of Science. 282: 401-405. 
[9] Ouyang Y., 2003: Simulating dynamic load 
of naturally occurring TOC from watershed into a 
river. Wat. Res. 37, 823. 
[10] Zhang S., Lua X.X., Sunb H., Hanb J., 
Higgitt D.L, 2009: Geochemical characteristics and 
fluxes of organic carbon in a human-disturbed 
mountainous river (the Luodingjiang River) of the 
Zhujiang (Pearl River), China. Science of the Total 
Environment 407, 815-825. 
[11] Sun, H.G., Han, J., Lu, X.X, Zhang, S.R., Li 
D., 2010: An assessment of the riverine carbon flux of 
the Xijiang River during the past 50 years. Quaternary 
International, doi:10.1016/j.quaint.2010.03.002. 
[12] Wu Y, Dittmarb T., Ludwichowskic K.U, 
Kattner G, Zhang J., Zhu Z.Y, Koch B.P, 2007: 
Tracing suspended organic nitrogen from the 
Yangtze Rivercatchment into the East China Sea. 
Marine Chemistry 107, 367-377. 
[13] Wu, Y., Zhanga, J., Liu, S.M., Zhang, Z.F., 
Yao, Q.Z., Hong, G.H. and Cooper, L., 2007: 
Sources and distribution of carbon within the 
Yangtze River system. Estuarine, Coastal and 
Shelf, 13-25. 
SUMMARY 
Preliminary observation of particulate organic carbon (POC) contents in water environment 
of the downstream of Red River system 
POC (particulate organic carbon) is one of major forms of organic carbon in water. It plays an important role in 
assessment of river water quality. The observed results in period from April 2009 to April 2010 at the gauging stations in 
downstream of the Red River showed that the average concentration of POC of the Red River at Truc Phuong and 
Hanoi stations were the highest (1.797 and 1.727 mg.l-1, respectively) followed by Nam Dinh station (1.414 mg.l-1), Quyet 
Chien station (1.329 mg.l-1), and the lowest value (0.904 mg.l-) at the Ba Lat station. The POC concentration at all 
observed stations showed positive correlation with water discharge and total suspended solids, but the percentage of 
POC contents in total suspended solids decreased with increasing total suspended solids contents. All that introduced 
the strong erosion and leaching processes in the watershed and its impacts to the POC content in the Red River system. 

File đính kèm:

  • pdfbuoc_dau_khao_sat_ham_luong_carbon_huu_co_khong_tan_poc_tron.pdf