Lún nền - Thách thức lâu dài đối với rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy

Là một hệ sinh thái ở vị trí tiên phong, nơi tiếp giáp biển-lục địa nhiệt đới, nên rừng

ngập mặn luôn phải đối diện nhiều nguy cơ đến từ biển, đặc biệt là do tác động của biến đổi khí

hậu và nước biển dâng. Lún là vấn đề địa phương có thể làm trầm trọng thêm tác động của các tai

biến này. Bài báo trình bày kết quả quan trắc lún nông được thực hiện bằng kỹ thuật bàn xoay

(SET-MH) do Cục Địa chất Hoa Kỳ phát triển, tại vùng lõi VQG Xuân Thủy. Kết quả đo cho thấy

từ thời điểm 30/12/2012 tốc độ sa bồi trung bình là 2,9 cm/năm và tốc độ lún là -3,4 cm/năm.

Phương pháp quan trắc lún này vốn đơn giản và chi phí thấp cung cấp thêm nhiều thông tin bổ ích

giúp xác định rõ xu hướng chung của vùng ven biển đồng bằng sông Hồng và giúp hoạch định

việc bảo vệ khu dự trữ sinh quyển ở ven biển đồng bằng này.

Lún nền - Thách thức lâu dài đối với rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy trang 1

Trang 1

Lún nền - Thách thức lâu dài đối với rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy trang 2

Trang 2

Lún nền - Thách thức lâu dài đối với rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy trang 3

Trang 3

Lún nền - Thách thức lâu dài đối với rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy trang 4

Trang 4

Lún nền - Thách thức lâu dài đối với rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy trang 5

Trang 5

Lún nền - Thách thức lâu dài đối với rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy trang 6

Trang 6

Lún nền - Thách thức lâu dài đối với rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy trang 7

Trang 7

Lún nền - Thách thức lâu dài đối với rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy trang 8

Trang 8

Lún nền - Thách thức lâu dài đối với rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy trang 9

Trang 9

Lún nền - Thách thức lâu dài đối với rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang viethung 3900
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Lún nền - Thách thức lâu dài đối với rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lún nền - Thách thức lâu dài đối với rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy

Lún nền - Thách thức lâu dài đối với rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 3 (2018) 1-12 
 1 
Lún nền - thách thức lâu dài đối với rừng ngập mặn 
tại vườn quốc gia Xuân Thủy 
Lê Xuân Thuyên1,*, Phạm Vũ Ánh2, Phạm Văn Cự3, 
Nguyễn Viết Cách2, Lê Đình Anh Vũ1 
1
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh 
2
Vườn Quốc Gia Xuân Thủy, Giao Thuỷ, Nam Định, Việt Nam 
3
Đại học Quốc Gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 13 tháng 12 năm 2017 
Chỉnh sửa ngày 24 tháng 6 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 07 tháng 9 năm 2018 
 m Là một hệ sinh thái ở vị trí tiên phong, nơi tiếp giáp biển-lục địa nhiệt đới, nên rừng 
ngập mặn luôn phải đối diện nhiều nguy cơ đến từ biển, đặc biệt là do tác động của biến đổi khí 
hậu và nước biển dâng. Lún là vấn đề địa phương có thể làm trầm trọng thêm tác động của các tai 
biến này. Bài báo trình bày kết quả quan trắc lún nông được thực hiện bằng kỹ thuật bàn xoay 
(SET-MH) do Cục Địa chất Hoa Kỳ phát triển, tại vùng lõi VQG Xuân Thủy. Kết quả đo cho thấy 
từ thời điểm 30/12/2012 tốc độ sa bồi trung bình là 2,9 cm/năm và tốc độ lún là -3,4 cm/năm. 
Phương pháp quan trắc lún này vốn đơn giản và chi phí thấp cung cấp thêm nhiều thông tin bổ ích 
giúp xác định rõ xu hướng chung của vùng ven biển đồng bằng sông Hồng và giúp hoạch định 
việc bảo vệ khu dự trữ sinh quyển ở ven biển đồng bằng này. 
Từ khóa: Rừng ngập mặn, lún nông, kỹ thuật SET-MH. 
1. Mở đầu 
Rừng ngập mặn (RNM) là một hệ sinh thái 
trên vùng gian triều ở ven biển nhiệt đới thường 
có chế độ năng lượng thấp [1, 2]. Đây là hệ sinh 
thái có vai trò quan trọng trong chu trình vật 
chất tự nhiên, có năng suất sinh học cao dẫn 
đầu trên toàn cầu [3], là nơi sinh sản của nhiều 
loài thủy sinh, thủy sản. RNM còn được quan 
_______ 
Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-907475341. 
 Email: lxthuyen@hcmus.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4221 
tâm chú ý do hạn chế tác động của bão biển, 
nước dâng tràn [4] như đã được kiểm chứng 
qua các tai biến: động đất-sóng thần xảy ra ở 
Acer (Indonesia) vào năm 2004 và siêu bão 
Haiyan quét qua Phillipine, 11/2013. RNM còn 
là hệ sinh thái có khả năng tích lũy cacbon cao 
[5] giúp giảm thiểu sự gia tăng nồng độ khí nhà 
kính. Tóm lại, RNM có giá trị về nhiều mặt, 
dịch vụ hệ sinh thái của RNM có giá trị tăng 
nhanh nhất trong số các hệ sinh thái trên toàn 
cầu, từ 13.786 lên 193.843 USD/ha, tương ứng 
giá tính vào năm 1997 và 2011 [6]. 
L.X. Thuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 3 (2018) 1-12 
2 
Tuy là là những cây tiên phong, đối diện 
với tác động của sóng gió biển, bởi ngập và 
nước mặn thường xuyên, nhưng khả năng 
chống chịu của rừng ngập mặn cũng có giới hạn 
nhất định [1]. Trên thực tế thì RNM Xuân Thủy 
phân bố ở trong khu vực có nguy cơ cao và lâu 
dài bởi cả do bão và nước biển dâng [7]. 
Báo cáo của Ban liên chính phủ về Biến đổi 
khí hậu – IPCC [8] cũng như nhiều nghiên cứu 
khác thì đều nhấn mạnh tới nguy cơ chìm ngập 
của các vùng đất thấp ven biển [9], đặc biệt là 
đối với các châu thổ là những nơi có nền đất 
yếu [10, 11]. Một mặt thì nước biển dâng lên, 
nhưng nền đất còn bị lún xuống ở nơi có nền 
đất yếu, sẽ gây ra tình trạng chìm ngập thực tế 
trở nên nhanh hơn và nghiêm trọng hơn rất 
nhiều [10]. 
Lún là tiến trình biến dạng tự nhiên của 
khối đất đá dưới tác dụng của trọng lực bản 
thân hay có sự gia tải áp lên trên. Ở đây người 
ta phân biệt lún sâu và lún nông. Lún sâu 
thường xảy ra do liên quan tới việc xẹp các vỉa 
nước ngầm hay dầu ở dưới sâu hàng chục, hàng 
trăm mét do bị bơm rút khai thác, kể cả do 
chuyển động kiến tạo [10]. Quy mô lún do khai 
thác nước ngầm có thể tính toán kiểm soát được 
[10], có thể làm chậm hoặc ngưng lại bằng việc 
bù dung tích chất lỏng đã bị lấy đi. Còn lún 
nông thì liên quan tới quá trình cố kết và thoát 
nước tự nhiên của khối trầm tích trẻ vốn có bề 
dày vài chục mét và luôn diễn ra với tốc độ 
nhanh hơn rất nhiều so với lún sâu trong nền 
trầm tích cổ bên dưới [12, 13] và hầu như ở 
ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Vì vậy, chỉ 
có thể tiến hành quan trắc để xác định xu thế 
biến đổi lâu dài bề mặt địa hình. Có nhiều giải 
pháp đo, quan trắc lún, từ trắc đạc địa hình định 
kỳ theo mốc đã định, tới kỹ thuật xây dựng 
giếng quan trắc hay sử dụng kỹ thuật viễn thám 
[14]. Mỗi giải pháp đều có thế mạnh và hạn chế 
riêng. Hiện tại, kỹ thuật đo lún SET-MH được 
xem là đơn giản và có chi phí thấp nên được áp 
dụng có hiệu quả ở châu thổ sông Mississippi 
[15] và trong RNM ở nhiều nơi [12, 16-18]. Khi 
tích hợp kỹ thuật đo lún từ từng vị trí này với 
GIS và viễn thám thì ta có thể mô hình hóa 
phạm vi lún và dự báo diễn biến bề mặt địa 
hình trên phạm vi rộng có độ tin cậy cao và rất 
hiệu quả [15]. 
Trong bài này chúng tôi trình bày kết quả sơ 
bộ quan trắc lún nông dưới thảm rừng ngập 
mặn tại VQG Xuân Thủy, vùng lõi chính của 
Khu Dự trữ sinh quyển Châu thổ Sông Hồng. 
2. Đối ượng và phương pháp nghiên cứu 
2.1. Đặc điểm tự nhiên của khu vực nghiên cứu 
Vườn Quốc gia Xuân Thủy rộng khoảng 15 
ngàn hecta, nằm ở phía Nam cửa Ba Lạt, phần 
Đông Nam của huyện Giao Thủy tỉnh Nam 
Định. Đây là vùng đất trẻ, phần lớn diện tích 
do phù sa sông Hồng bồi đắp nên từ khoảng 
1930 trở lại đây với tốc độ lấn biển khá 
nhanh, vào khoảng 100 m/năm [19]. Rừng 
ngập mặn ở đây có 7 loài chính và một số loài 
cây rừng ngập mặn được đưa từ nơi khác về 
trồng [20]. Địa hình khu vực nghiên cứu khá 
thấp và bằng phẳng, phủ bởi bùn sét chảy 
nhão với cấp hạt mịn là sét và bột chiếm ưu 
thế [21], rìa ngoài phía biển là dải các bãi cát. 
Toàn bộ khu vực là vùng bán ngập, chịu ảnh 
hưởng chế độ nhật triều đều với biên độ triều 
cao nhất 185 cm [22]. 
2.2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 
Tại VQG Xuân Thủy chúng tôi sử dụng kỹ 
thuật đo lún SET-MH (Surface Elevation Table 
– Marker Horizon) tạm dịch là kỹ thuật bàn 
xoay, là  ... và làm gãy đổ hoàn toàn 
một khoảng rừng thành vùng đất trống rộng 
khoảng 8 hecta. Việc quan trắc lún bằng SET-
MH bắt đầu sau sự kiện này, tại 2 vị trí cách 
nhau chỉ khoảng 150 mét, ở nơi có rừng từ 
6/2010 và từ 6/2011 tại khu đất trống nêu trên 
và kết quả cho thấy tốc độ lún nền diễn ra có 
khác biệt lớn (Hình 6) giữa nền đất trống do 
RNM bị gãy đổ (chuỗi điểm màu đỏ) sau bão 
và nơi RNM còn nguyên vẹn (chuỗi điểm màu 
xanh lơ). Tốc độ lún dưới nền đất rừng thì rõ 
ràng là thấp hơn so với ở nơi đất trống và có 
khuynh hướng chậm lại theo thời gian. 
Từ kết quả ban đầu trình bày trong bài viết 
này ta thấy lún là nguy cơ lớn gây chìm ngập 
mất đất ở địa điểm nghiên cứu. Tuy vậy, quy 
mô vùng chìm ngập thực tế đối với cả phạm vi 
VQG Xuân Thủy thì vẫn là câu hỏi lớn. Để hiểu 
rõ nguy cơ này cho các vùng bờ thì cần phải có 
thêm thông tin chi tiết, từ nhiều vị trí cụ thể và 
có thời gian quan trắc đủ dài khi muốn đánh giá 
đúng tác động của nước biển dâng [44]. Vì vậy, 
kết quả quan trắc lún tại một vị trí (với 3 mốc 
đo) chưa cho phép ta xây dựng hoàn chỉnh bức 
tranh về bồi và lún cũng như nguy cơ lâu dài 
đối với toàn VQG này, hay rộng hơn là khu dự 
trữ sinh quyển sông Hồng. Nếu xây dựng mạng 
lưới nhiều điểm thì kết hợp với công nghệ GIS-
viễn thám xác định đặc trưng dòng bùn cát ven 
bờ, đặc trưng thảm phủ... ta có thể phân tích ra 
nhiều thông tin rất bổ ích và sống động về 
tương lai của khu vực, như qua ví dụ dưới đây. 
Hiệu quả sử dụng mạng lưới đo lún bằng 
SET-MH đã được kiểm chứng với mạng lưới 
hàng ngàn điểm bố trí trên toàn cầu [18, 23, 
24]. Số liệu đo lún bằng SET-MH từ hơn 20 
năm qua ở vùng ven biển bang Louisiana và 
châu thổ sông Mississippi đã giúp xây dựng 
được sơ đồ phân bố tốc độ lún ở đây (hình 7) để 
hoạch định chương trình tổng thể bảo vệ vùng 
bờ [36]. Đây là mô hình hữu ích cho chúng ta 
học tập, áp dụng để bảo vệ các vùng đất thấp 
ven biển. 
 Hình 6. Khác biệt về tốc độ lún nền dưới nơi có rừng Đước (hơn 30 năm tuổi) và nơi bị mất rừng 
(đất trống) do bão Durian (12/2006), ở RNM Cần Giờ. 
L.X. Thuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 3 (2018) 1-12 9 
Hình 7. Quy mô lún (lún nông) ở vùng ven biển bang Louisiana và châu thổ sông Mississippi (Hoa Kỳ), các 
điểm đen là hơn 4 trăm vị trí quan trắc lún nông bằng kỹ thật SET-MH được thiết lập từ hơn 20 năm qua [15A]. 
5. Kế luận 
Cho đến nay, lún nền là vấn đề còn ít được 
quan tâm, đặc biệt là đối với vùng đất thấp ven 
biển vốn có nguy cơ bị chìm ngập do nước biển 
dâng. Số liệu lún sẽ giúp ta đánh giá đúng tốc 
độ nước biển dâng thực tế tại mỗi vùng bờ biển 
và số liệu tính toán tại điểm quan trắc cho thấy 
tốc độ này cao hơn 3 lần so với tốc độ nước 
dâng được công bố đối với khu vực. Quan trắc 
lún và bồi bằng kỹ thuật SET-MH dưới RNM 
tại Xuân Thủy cho thấy,ngoài nước biển dâng 
thì lún và thiếu hụt bùn cát bồi đắp là nguy cơ 
lớn nhất ở tầm khu vực đe dọa tới tương lai của 
RNM tại đây. 
RNM là hệ sinh thái có giá trị cao nếu được 
bảo vệ đểphát triển tốt, đặc biệt không cản trở 
dòng bùn cát đi tới bồi đắp, thì cây rừng sẽ lớn 
mạnh hơn và tạo thêm sinh khối ngầm giúp 
nâng cao trình nền đất để giảm bớt nguy cơ 
chìm ngập của chính RNM ở vùng ven biển. 
Mặt khác, SET-MH là giải pháp quan trắc 
lún nông đơn giản và rẻ tiền, có độ tin cây tốt 
nên có thể triển khai rộng rãi trong khu vực. 
Việc mở rộng mạng lưới đo đạc, quan trắc 
lún/bồi tích phù sa ở VQG Xuân Thủy nói riêng 
và toàn phạm vi khu dự dự trữ sinh quyển đồng 
bằng sông Hồng là việc làm cần thiết để hoạch 
định lâu dài quy mô lún chìm/ngập và các giải 
pháp bảo tồn các hệ sinh thái ở đây. 
Lời cảm ơn 
Các tác giả cảm ơn sự hỗ trợ hiệu quả từ 
VQG Xuân Thủy, ĐHQG Thành phố Hồ Chí 
Minh cho nhiệm vụ quan trắc lún đầu tiên này 
được thực hiện ở đồng bằng sông Hồng, và đặc 
biệt là lời cám ơn tới Cục Địa chất Hoa Kỳ 
(USGS) vì đã hỗ trợ kỹ thuật quan trắc lún bằng 
kỹ thuật SET-MH. Các tác giả cũng cảm ơn 
những ý kiến đóng góp của người phản biện đã 
giúp hoàn thiện nội dung bài báo này. 
 ài liệu ham khảo 
[1] J.C. Ellison, Vulnerability assessment of 
mangroves to climate change and sea-level rise 
impacts, Wetlands Ecology and Management 23 
(2015) 115. 
[2] J. C. Ellison,Geomorphology and sedimentology 
of mangrove. In Coastal wetlands: An integrated 
ecosystem approach, Elservier, 2009. 
[3] LOICZ report 25, 1993. 
[4] IPCC, Working Group II: Impacts, Adaptation 
and Vulnerability, 2014. 
[5] D.C. Donato, J. B. Kauffman, D. Murdiyarso, K. 
Sofyan, Melanie Stidham, Markku Kanninen, 
Mangroves among the most carbon-rich forests in 
the tropics, Nature Geoscience 4 (2011) 293. 
[6] R. Costanza, R. Groot, P. Sutton, Sander van der 
Ploeg, S.J. Anderson, Ida Kubiszewski, S. Farber, 
R. K. Turner, Changes in the global value of 
Tốc độ lún chìm (mm/năm) 
Châu thổ Mississippi 
Tp. Houston 
L.X. Thuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 3 (2018) 1-12 
10 
ecosystem services, Global Environmental 
Change 26 (2014) 152. 
[7] T.C. Jennerjahn, E. Gilman, K.W. Krauss, L.D. 
Lacerda, I. Nordhaus, E. Wolanski, Mangrove 
Ecosystems: A Global Biogeographic Perspective, 
Springer, 2017. 
[8] P.V. Hieu, L.V. Dung, N.T. Tue, K. Omori, Will 
restored mangrove forests enhance sediment 
organic carbon and ecosystem carbon storage? 
Regional Studies in Marine Science 14 (2017) 43. 
[9] R.J. Nicholls, A. Cazenave, Sea-Level Rise and 
Its Impact on Coastal Zones, Science 328 (2010) 
1517. 
[10] J.P. Ericson, C.J. VÖrÖsmarty, S.L. Dingman, L. 
G. Ward, M. Meybeck, Effective sea-level rise 
and deltas: causes of change and human 
dimension implications, Global and planetary 
change 50 (2006)63. 
[11] J.P.M. Syvitski, Deltas at risk,Sustainability 
Science 3 (2008) 23. 
[12] N.V. Kỳ, L.X. Thuyên, Đ.H. Hải, Đ.V. Lĩnh, Lún 
mặt đất tại đồng bằng sông Cửu Long: phải chăng 
do khai thác nước dưới đất? Tạp chí Địa Chất, 
số 352-354 (2015). 
[13] T.E. Törnqvist, D.J. Wallace, J.E.A. Storms, J. 
Wallinga, R.L. van Dam, M. Blaauw, M.S. 
Derksen, C.J. W. Klerks, C. Meijneken, E.M.A. 
Snijders, Mississippi Delta subsidence primarily 
caused by compaction of Holocene strata, Nature 
Geoscience 1 (2008) 173. 
[14] L.E. Erban, S.M. Gorelick, H.A. Zebker, S. 
Fendorf, Release of arsenic to deep groundwater 
in the Mekong Delta, Vietnam, linked to 
pumping-induced land subsidence, PNAS, 110 
(2013) 13751. 
[15] H.J. Nienhuis, T.E. Törnqvist, K.L. Jankowski, 
A.M. Fernandes, M.E. Keogh, A New Subsidence 
Map for Coastal Louisiana, GSA Today, 2017. 
[16] D. R Cahoon, J.C. Lynch, Vertical accretion and 
shallow subsidence in a mangrove forest of 
southwestern Florida, USA, Mangroves and Salt 
Marshes 1 (1997) 173. 
[17] K.W. Krauss, K. L. McKee., C.E. Lovelock, D.R. 
Cahoon, N. Saintilan, R. Reef, C. Luzhen, How 
mangrove forests adjust to rising sea level, New 
Phytologist 202 (2014) 19. 
[18] C.E. Lovelock, D.R. Cahoon, D. A. Friess, G.R. 
Guntenspergen, K.W. Krauss, R. Reef, K. Rogers, 
M. L. Saunders, F. Sidik, A. Swales, N. Saintilan, 
L.X. Thuyen, T. Triet, The vulnerability of Indo-
Pacific mangrove forest to sea-level rise, Nature 
526 (2015) 559. 
[19] D.M.Duc, M.T. Nhuan, C.V. Ngoi, An analysis of 
coastal erosion in the tropical rapid accretion delta 
of the Red River, Vietnam,Journal of Asian Earth 
Sciences 43 (2002) 98. 
[20] H.T. Hải, H.T.T. Nhàn, Hiện trạng đa dạng sinh 
học của vườn quốc gia Xuân Thủy, NXB Hồng 
Đức, 2015. 
[21] N.T. Tue, N.T. Ngoc, T.D. Quy, H. Hamaoka, M. 
T. Nhuan, K. Omori, A cross-system analysis of 
sedimentary organic carbon in the mangrove 
ecosystems of Xuan Thuy National Park, 
Vietnam, Journal of Sea Research 67 (2012) 69. 
[22] Kịch bản dự báo biến đổi khí hậu và nước biển 
dâng cho Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi 
trường, 2016. 
[23] J.C. Lynch, P. Hensel, D.R. Cahoon, The surface 
elevation table and marker horizon technique: A 
protocol for monitoring wetland elevation 
dynamics. National Park Service, Fort Collins, 
Colorado, 2015. 
[24] Lower Mekong Monitoring Network: Assessing 
the Impacts of Dams and Climate Change on 
Mekong Wetlands.  
[25] P. Van Santen, P.G.E.F. Augustinus, B.M. 
Janssen-Stelder, S. Quartel, N.H. Tri, 
Sedimentation in an estuarine mangrove system, 
Journal of Asian Earth Sciences 29 (2007) 566. 
[26] D.M. Alongi, The Impact of Climate Change on 
Mangrove Forests, Current Climate Change 
Reports 1 (2015) 30. 
[27] R. Rietbroek, S-E. Brunnabend, J. Kusche, J. 
Schröter,C. Dahle, Revisiting the contemporary 
sea-level budget on global and regional scales, 
PNAS 113 (2016) 1504. 
[28] P. Q. Sơn, N. Đ. Anh, Diễn biến xói lở-bồi tụ ven 
biển Hải Hậu (Nam Định) và vùng lân cận trong 
hơn 100 năm qua trên cơ sở phân tích tài liệu bản 
đồ địa hình và tư liệu viễn thám đa thời gian, Tạp 
chí Các khoa học về Trái đất 38 (2016) 118. 
[29] N.T. Tue, T.D. Quy, A. Amano, H. Hamaoka, S. 
Tanabe, M.T. Nhuan, K. Omori. Historical 
profiles of trace element concentrations in 
mangrove sediments from the Ba Lat Estuary, Red 
River, Vietnam, Water, Air, & Soil Pollution, 223 
(2012) 1315. 
[30] Liviu Giosan, J. Syvitski, S. Constantinescu, J. 
Day, Protect the world’s deltas, Nature 516 (2014) 
31. 
[31] P.T.X. Binh, L.T.P. Quynh, L.N. Da, D.T. Thuy, 
Recent change (2000-2015) of total suspended 
solid flux of the Red river: Impact of 
dam/reservoir impoundment in the upstream river 
basin,Proceeding of the Third International 
L.X. Thuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 3 (2018) 1-12 11 
Conference on Estuarine Coastal and Shelf Study 
– ECSS, 2017, HCMC 7 Nov. 2017. 
[32] V.D. Vinh, S. Ouillon, T.D. Thanh, L.V. Chu, 
Impact of the Hoa Binh dam (Vietnam) on water 
and sediment budgets in the Red River basin and 
delta, Hydrology and Earth System Sciences, 18 
(2014) 3987. 
[33] B.R. Couvillion, J.A. Barras, G.D. Steyer, W. 
Sleavin, M. Fischer, H. Beck, N. Trahan., Griffin 
B., Heckman D., Land area change in coastal 
Louisiana from 1932 to 2010: USGS- Scientific 
Investigations Map 3164, scale 1:265,000, (2011), 
12 p. 
[34] D.J. Stanley, A.G. Warrne, Nile delta in its 
destruction phase,Journal of Coastal Research, 14 
(1998) 794. 
[35] R. E. Turner, The mineral sediment loading of the 
modern Mississippi River Delta: what is the 
restoration baseline? Journal of Coastal 
Conservation 21 (2017) 867. 
[36] Louisiana’s 2012 Coastal Master Plan. 
coastal-master-plan/ 
[37] T. Hiroshi, Design Considerations of Artificial 
Mangrove Embankments for Mitigating Coastal 
Floods – Adapting to Sea-level Rise and Long-
term Subsidence, Nat. Hazards Earth Syst. Sci. 
Discuss., doi:10.5194/nhess-2017-61. 
[38] T. Hiroshi, M. Takahito, F. Daisuke, E. Miguel, 
K. Shota, Mangrove forest against dyke-break-
induced tsunami on rapidly subsiding coasts, Nat. 
Hazards Earth Syst. Sci., 16, (2016) 1629. 
[39] Bas W. Borsje, Bregje K. van Wesenbeeck, Frank 
Dekker, Peter Paalvast, Tjeerd J. Bouma, Marieke 
M. van Katwijk, Mindert B. de Vries, How 
ecological engineering can serve in coastal 
protection, Ecological Engineering 37 (2011) 113. 
[40] Ariana E. Sutton-Grier, Kateryna Wowk, Holly 
Bamford, Future of our coasts: The potential for 
natural and hybrid infrastructure to enhance the 
resilience of our coastal communities, economies 
and ecosystems, Environmental Science and 
Policy 51 (2015) 137. 
[41] T.J. Wells, M.J. Coleman, Periodic mudflat 
progradation, northeastern coast of South 
America: a hypothesis, Journal of Sedimentary 
Research 51 (1981)1069. 
[42] K.W Krauss, C.N. Cormier, M.J. Osland, M.L. 
Kirwan, S.L. Camille, A. Janet. Nestlerode, R.J. 
Marc, F.S. Andrew, C.S. Amanda, D.D. Darrin, J. 
E. Harvey, Alejandro E. Almario, Created 
mangrove wetlands store belowground carbon and 
surface elevation change enables them to adjust to 
sea-level rise, Scientific Reports (2017). 
DOI:10.1038/s41598-017-01224-2. 
[43] H.T. Hien, C. Marchand, J. Aime, D.H. Nhon, P. 
N. Hong, N.X. Tung, N.T.K. Cuc, Belowground 
carbon sequestration in a mature planted 
mangroves (Northern Viet Nam), Forest Ecology 
and Management 407 (2018) 191. 
[44] National Academy of Engineering, Responding to 
the Threat of Sea Level Rise: Proceedings of a 
Forum, Washington- National Academies Press, 
2017. doi: https://doi.org/10.17226/24847. 
Challenge to Mangrove 
 in the Xuan Thuy National Park 
Le Xuan Thuyen1, Pham Vu Anh2, Pham Van Cu3, 
Nguyen Viet Cach2, Le Dinh Anh Vu1 
1
University of Science, Vietnam National University, Ho Chi Minh City, Vietnam 
2
National Park Xuan Thuy, Giao Thuy, Nam Dinh, Vietnam 
3
Vietnam National University, Hanoi, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
Abstract: As a pioneer ecosystem located at land–water interface in the tropic, there exist always 
many risks from the seasideto mangroves, especially due to impacts of climate change and sea level 
rise. Land subsidence is a local problem that can exacerbate the impacts of these geo-hazards. This 
L.X. Thuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 3 (2018) 1-12 
12 
contribution presents a result of shallow subsidence carried out by using SET-MH technique 
(developed by the United States Geological Survey) in the core zone of the National Park. The 
measurement shows the average sedimentation rate of 2.9 cm /yr and the sinking rate of -3.4 cm / yr, 
since Dec. 30
th
 2012. 
As a simple and low cost method could provide more useful information to help identify the 
generally sinking trend of coastal areas in the Red River Delta and also to protect its own biosphere 
reserve. 
Keywords: Mangrove, shallow subsidence, SET-MH technique. 

File đính kèm:

  • pdflun_nen_thach_thuc_lau_dai_doi_voi_rung_ngap_man_tai_vuon_qu.pdf