Biểu tượng mục đồng trong văn hóa dân gian Việt Nam
Từ xưa, mục đồng vốn là một biểu tượng gắn liền với làng quê Việt Nam, phổ biến đến
nỗi khi nhắc đến là người ta mường tượng ngay một chú bé chăn trâu đang thổi sáo hay ngồi
vắt vẻo trên mình trâu mà nhâm nhi vài ngọn cỏ. Thế nhưng biểu tượng này không chỉ dừng
lại ở tầng nghĩa là hình ảnh tượng trưng cho sự yên bình của làng quê Việt Nam. Bài viết sẽ
hệ thống lại các giá trị của biểu tượng này trong tâm thức người bình dân, qua đó lý giải thế
giới quan, nhân sinh quan của cư dân nông nghiệp từ xa xưa đến những nỗ lực lưu giữ ở hiện
tại. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về mục đồng, thế nhưng nghiên cứu dưới góc nhìn
văn hóa học theo một lý thuyết văn hóa cụ thể thì hầu như chưa có ai thực hiện. Với bài viết
này, chúng tôi áp dụng cấu trúc phổ biến trong nghiên cứu văn hóa dân gian, gồm 4 thành
phần: văn hóa nhận thức, văn hóa ứng xử, văn hóa tổ chức và văn hóa tái hiện
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Biểu tượng mục đồng trong văn hóa dân gian Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 7 * 2014 57 BIỂU TƯỢNG MỤC ĐỒNG TRONG VĂN HÓA DÂN GIAN VIỆT NAM Phan Nguyễn Quỳnh Anh* Tóm tắt Từ xưa, mục đồng vốn là một biểu tượng gắn liền với làng quê Việt Nam, phổ biến đến nỗi khi nhắc đến là người ta mường tượng ngay một chú bé chăn trâu đang thổi sáo hay ngồi vắt vẻo trên mình trâu mà nhâm nhi vài ngọn cỏ. Thế nhưng biểu tượng này không chỉ dừng lại ở tầng nghĩa là hình ảnh tượng trưng cho sự yên bình của làng quê Việt Nam. Bài viết sẽ hệ thống lại các giá trị của biểu tượng này trong tâm thức người bình dân, qua đó lý giải thế giới quan, nhân sinh quan của cư dân nông nghiệp từ xa xưa đến những nỗ lực lưu giữ ở hiện tại. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về mục đồng, thế nhưng nghiên cứu dưới góc nhìn văn hóa học theo một lý thuyết văn hóa cụ thể thì hầu như chưa có ai thực hiện. Với bài viết này, chúng tôi áp dụng cấu trúc phổ biến trong nghiên cứu văn hóa dân gian, gồm 4 thành phần: văn hóa nhận thức, văn hóa ứng xử, văn hóa tổ chức và văn hóa tái hiện. 1 Từ khóa: biểu tượng, văn hóa dân gian, lễ hội, mục đồng 1. Khái quát về hình tượng mục đồng trong văn hóa Mục đồng theo nghĩa đen là người chăn gia súc. Ở cả hai nền văn hoá Đông – Tây2 đều có khái niệm này. Tuy nhiên, vị trí của mục đồng trong từng nền văn hoá lại có cách hiểu và ứng xử khác nhau. Trong văn hoá phương Tây gốc du mục, mục đồng chỉ đơn thuần là người chăn dắt gia súc (chủ yếu là bò, dê, cừu). Công việc của mục đồng đơn thuần là công việc trần tục, gắn với chăn nuôi số lượng lớn nên hầu như không có tình cảm giữa người chăn và gia súc. Kết quả mong muốn cuối cùng của công việc này là gia súc béo tốt, bán được giá hoặc xẻ thịt để làm thực phẩm phục vụ nhu cầu của con người. Vì là công việc quan trọng mang đến nguồn thu nhập chính, nên để chăn dắt được đàn gia súc lên đến hàng trăm con trong điều kiện khắc nghiệt của vùng thảo nguyên, người đàn ông trưởng thành trong gia đình với sức khỏe dẻo dai sẽ phải gánh vác trọng trách này. ______________________ * ThS, Trường Đại học Thủ Dầu Một Ngược lại với văn hóa gốc du mục, văn hóa gốc nông nghiệp xem mục đồng là một người bạn của gia súc (gia súc ở đây chủ yếu là trâu). Ngoài ra, có cách hiểu cụ thể hơn, mục đồng là trẻ chăn trâu. Do vị trí của con trâu trong văn hoá phương Đông không phải gắn với chăn nuôi mà gắn chặt với trồng trọt, nuôi trâu không để kinh doanh mà trước tiên là để làm sức kéo, phục vụ cho việc cày bừa. Trong nền văn hóa Việt Nam “lấy cảm tình làm bản vị”3, con vật chịu thương chịu khó, cùng ở cùng làm với người nông dân đã trở thành một ______________________ 1 Cấu trúc này được giới thiệu trong chuyên đề Văn hóa dân gian do TS Trần Long trình bày, kết hợp với cấu trúc nghiên cứu văn hóa do GS.TSKH Trần Ngọc Thêm đề xuất [Xem thêm tại Trần Ngọc Thêm 2010: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng hợp, TP.HCM]. 2 Văn hóa phương Đông gốc nông nghiệp và văn hóa phương Tây gốc du mục là cách so sánh mang tính tương đối vì sự di cư và giao thoa văn hóa diễn ra liên tục trong suốt tiến trình lịch sử nhân loại. 3 Theo nhà nghiên cứu Đào Duy Anh, “Văn hóa lấy cảm tình làm bản địa” là một trong năm đặc tính cơ bàn của văn hóa Việt Nam xuất phát từ gốc nông nghiệp. [Xem thêm tại Đào Duy Anh 2014: Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Thế giới, Hà Nội]. 58 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN thành viên thân thuộc, cùng sướng cùng khổ với cuộc sống “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”. Vì yêu quý trâu nên người nông dân cũng vì thế mà rất quý trọng người chăn dắt nó. Với nền nông nghiệp lúa nước, sự phân công lao động trong gia đình có sự khác biệt: công việc nặng nhọc nhất là làm ruộng, cấy lúa,... sẽ do người lớn trong nhà đảm nhận; việc nấu nướng dọn dẹp nhà cửa là của đàn bà con gái; phần việc còn lại - “chăn trâu” - khá nhẹ nhàng, lại mang tính chất vừa làm vừa chơi nên được ưu tiên dành cho các chú nhóc nhỏ trong nhà. Cũng từ đó mà trẻ mục đồng và trâu trở thành đôi bạn thân thiết trên đồng xanh. Trong tâm hồn Việt Nam, hình ảnh chú bé mục đồng ngồi vắt vẻo trên mình trâu gợi lên một không gian vô cùng thanh thoát, bình yên. Và mặc nhiên từ bao đời nay, mục đồng và trâu đã được người nông dân đặt vào biết bao tình cảm yêu mến và xem đó là một biểu tượng của quê hương, của tuổi thơ mình. Ở góc độ văn hóa, mục đồng không chỉ dừng lại ở hình ảnh tượng trưng cho làng quê mà nó đã trở thảnh một ký ức, một biểu tượng với nhiều nét nghĩa gắn với nếp suy nghĩ truyền thống của cư dân nông nghiệp lúa nước. 2. Văn hóa nhận thức và ứng xử với mục đồng 2.1. Nhận thức của người bình dân về mục đồng Biểu tượng mục đồng dù đã quá quen thuộc với người dân Việt Nam nhưng huyền thoại về nhân vật dễ thương này không nhiều người biết đến. Tra cứu những tư liệu trong sách báo, hầu hết đều có chung một cốt truyện rằng: ngày xưa, làng Phong Lệ có một cồn cỏ. Vào ngày nọ, khi một người nông dân trong vùng vô tình lùa đàn vịt lên cồn, thì chân vịt bỗng bị dính chặt xuống đất như có bàn tay ai níu giữ, không bước đi được. Dân trong vùng xem đây là một hiện tượng báo hiệu thần linh giáng hạ, cho nên từ đó về sau cồn có tên gọi là cồn Thần và không ai dám đến gần cồn nữa. Nhưng một hôm, có đàn trâu chạy lạc lên cồn, đám trẻ chăn trâu chạy vào tìm nhưng không hề hấn gì và vẫn an toàn trở về. Người ta lý giải rằng cồn Thần chỉ cho phép các trẻ chăn trâu đến gần mà thôi. Xóm Cồn về sau được gọi là xóm Thần và trở thành nơi tụ tập vui chơi của các mục đồng trong làng. Từ truyền thuyết này, người nông dân tin tưởng rằng giữa mục đồng và những thần linh cai quản ruộng đồng có một mối dây liên kết chặt chẽ và thậm chí xem mục đồng là hiện thân của Thần Nông. Người xưa quan niệm, cứ ba năm một lần Thần Mục sẽ giáng hạ xuống tảng đá giữa cồn Thần. Vì vậy mà thành thông lệ, vào các năm Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu, dân làng Pho ... cờ này mà các họ tộc sẽ thi thố với nhau để chiếm những giải thưởng danh dự trong lễ hội. Các họ tộc có tiền của thường rước thợ mộc Kim Bồng về tiện đẽo các con giống bằng gỗ rất công phu. Do mang trên mình nhiều thứ như vậy nên cờ lớn thường rất nặng, chỉ những lực điền trai tráng trong làng được trang bị đầy đủ nai nịt ngang lưng mới đủ sức cầm cờ. Sau khi chuẩn bị đầy đủ các vật lễ, chiều 29 tháng Ba Âm lịch, người ta sẽ tổ chức lễ dạo đồng. Đây là lúc con cháu sinh sống ở mọi nơi kéo về làng đông đủ. Mục đồng sẽ cầm cờ dạo quanh các cánh đồng để tỏ ý cầu mưa. Những người giả cả ốm yếu không ra dự được nhưng vẫn lo lắng hỏi con cháu xem mục đồng có cầm cờ lội 62 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN qua ruộng nhà mình không. Nếu biết là không thì họ rất buồn và nói: rứa là năm ni ruộng mình thua mùa rồi. Chính vì vậy, dù mệt nhưng mục đồng cũng phải cố gắng cầm cờ lội qua khắp các ruộng trong làng, không bỏ sót bất cứ ruộng nào để cầu phúc tốt tươi cho tất thảy ruộng đồng. Ảnh 2: Dạo đồng (Nguồn: dong-va-nu-cuoi-trong-mat-tre- tho/22888p1c29.htm) Sáng ngày 30, lễ rước chính thức diễn ra. Từ khi trời chưa hừng đông, tiếng trống hiệu đã được gióng lên triệu tập dân làng về dự lễ. Vị trí đầu tiên của lễ hội là sân đình Thần, hay còn gọi là đình Mục đồng. Khi dân làng đã tề tựu đầy đủ, Trùm Mục (người cai quản các mục đồng) trong lễ phục trịnh trọng tiến vào hậu tẩm khấn vái, cung kính thỉnh bài vị Thần Nông nâng cao ngang mày rồi quỳ xuống đặt vào trong kiệu. Đoàn rước trong tư thế sẵn sàng, cờ xí ngay ngắn. Chiêng trống được gióng lên, tất cả mục đồng hướng vào chánh điện, đồng loạt chắp tay xá ba cái rồi đám rước bắt đầu di chuyển hướng về cồn Thần. Dẫn đầu đoàn rước là cờ của mục đồng, kế đến là cờ 13 họ tộc. Dàn cổ nhạc cùng chiêng trống hoà tấu không ngừng. Mỗi nhà có trâu đều sắm sửa lễ phẩm, thường là một mâm xôi với hoa quả, có khi là một con gà hay đầu heo được người đội theo đám rước. Nổi bật giữa đoàn người là kiệu rước Thần uy nghi. Dân làng nối đuôi đi sau cùng. Ảnh 3: Đám rước với cờ xí rợp trời (Nguồn: dong-va-nu-cuoi-trong-mat-tre- tho/22888p1c29.htm) Đến cồn Thần, đám rước dừng lại, kiệu Thần được đặt vào vị trí trang trọng nhất. Trùm Mục quỳ trên chiếu hoa, thay mặt cho mục đồng làm lễ triệu thỉnh Thần. Sau khi khấn vái, Trùm Mục gieo hai đồng tiền vào cái dĩa đặt trước mặt: một sắp một ngửa báo hiệu Thần đã giáng. Một hồi sênh nổi lên, tiếp theo là ba hồi chiêng trống. Rồi trống cơm, phường bát âm cũng tấu lên những âm điệu rộn rã chào mừng. Khi nhạc dứt, Trùm Mục dõng dạc xướng: - Chúng mục đồng làng Phong Lệ ta! - Dạ (mọi người đồng thanh đáp lại) - Rước Thần Nông về làng Phong Lệ ta! - Giá hạ! Giá hạ! (Gieo giống xuống ruộng đồng) - Mừng cho tốt lúa, tốt gieo. Vũ thuận phong điều, mừng reo một tiếng! - A! Dứt tiếng reo, đoàn mục đồng cầm cờ nối đuôi theo vị Trùm Mục chạy tới, chạy lui quanh tảng đá trắng giữa cồn Thần. Sau một hồi, tất cả chỉnh đốn lại hàng ngũ chuẩn bị rước Thần về đình làng. Lượt về càng nghiêm trang hơn vì mọi người đều tâm niệm là Thần đang ngự trên kiệu. Trời vừa sáng, đám rước về đến đình làng. Tiếp đến là lễ đặt bài vị và lễ dâng vật cúng của dân làng. Bài vị Thần được đặt lên bàn thờ nơi hậu tẩm chính đình. Lễ vật xôi gà được TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 7 * 2014 63 bày trên chiếu hoa trải khắp ba gian đình, mọi người đều hoan hỉ vì tin rằng lòng thành kính của mình đã được thần chứng giám. Trong lễ, ai ai cũng giữ sự cung kính trước các mục đồng. Mặt trời lên khỏi ngọn tre là lúc lễ vừa xong. Mọi người trở về với công việc thường ngày nhưng trong lòng lại mừng vui khấp khởi với một niềm tin vào đồng ruộng tốt tươi, vụ mùa bội thu sắp tới. 4. Văn hóa tái hiện về biểu tượng mục đồng Không chỉ tồn tại trong huyền thoại, trong tín ngưỡng mà hình ảnh mục đồng đã bước từ ký ức ra đời sống, trở thành một hình ảnh quen thuộc trong rất nhiều tác phẩm nghệ thuật dân gian lẫn bác học. Thơ ca “Ai bảo chăn trâu là khổ. Chăn trâu sướng lắm chứ. Ngồi mình trâu, vuốt ngọn cờ lau và giọng hát nghêu ngao,...”. Vào những năm 1950 – 1970, hầu như người dân Nam Bộ nào cũng thuộc nằm lòng những câu hát này. Lời hát mộc mạc, giai điệu vui tươi dễ nghe, dễ nhớ, dễ hát, lâu dần trở thành một câu hát dân gian truyền miệng gợi lên hình ảnh đồng quê yên ả với những thú vui vô cùng giản dị. Và có lẽ cũng ít ai quên được bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Giang Nam: Quê hương. Ngay những câu đầu tiên, tác giả đã khắc hoạ một cách dung dị và trong lành hình ảnh chú bé chăn trâu, để qua đó cả vùng trời quê hương hiện ra rất đỗi yên bình. “Thưở còn thơ ngày hai buổi đến trường Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ Ai bảo chăn trâu là khổ Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao” (Quê hương – Giang Nam) Hội hoạ, điêu khắc Ngay từ xa xưa, trong các tranh dân gian Đông Hồ, mục đồng đã trở thành một nhân vật đặc biệt được các nghệ nhân đưa vào tranh vẽ với những triết lý nhân sinh sâu sắc. Nổi tiếng nhất là hai bức vẽ mục đồng dưới dạng câu đối. Bức thứ nhất vẽ chú bé ngồi trên lưng trâu thổi sáo, thơ đề “Hà diệp cái thanh thanh” (Lọng lá sen xanh thẳm) hay một phiên bản khác là “Thiên thanh lọng suy dịch” (Trời xanh trong tiếng sáo). Bức thứ hai, khắc hoạ hình ảnh mục đồng mình trần đóng khố, nằm ngửa trên lưng trâu, tay cầm dây thả diều giống hình một chiếc nón, thơ đề là “Vũ thu phong nhật dực” (Một cánh bay trong gió thu). Ảnh 6: Mục đồng cưỡi trâu dưới khắc họa của nghệ nhân làng tranh Đông Hồ (Nguồn: Tìm hiểu về bức tranh thứ nhất. Tranh miêu tả chú bé mục đồng ngồi đè lên những bông sen trên lưng trâu, đang say sưa thổi sáo, trên đầu là một chiếc lá sen thật to che mát. Đồng hành với mục đồng là chú trâu đang nghển tai lắng nghe ra chiều thích thú lắm. Toàn thể bức tranh toát lên vẻ yên bình, thanh thoát, sự hoà điệu giữa con người với cảnh vật. Nhiều người cho rằng, nội dung bức tranh mang tính minh triết của Phật giáo: tính phá chấp (ngồi đè lên bông sen), sự chế ngự bản ngã (cưỡi trâu) và sự hoà nhập chân tính của con người với thiên nhiên. Ở bức thứ hai, là hình ảnh chú bé trong tư thế nằm ngồi thật thảnh thơi trên lưng trâu và còn mang theo cả thú vui trẻ nhỏ là thả diều. Nếu lý giải theo triết lý nhà Phật thì chiếc nón của chú bé mục đồng 64 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN hoá thành cánh diều bay bổng lên trời cao như sự vươn lên của trí tuệ. Tuy nhiên, dù biết hay không biết những cách lý giải đó thì bất cứ người dân Việt nào khi nhìn vào hai bức tranh này đều cảm thấy thật dung dị, thân quen, tâm hồn con người như được trải rộng ra cả khung trời tuổi thơ vô tư, trong trẻo. Trong lĩnh vực điêu khắc, hình tượng được khắc hoạ phổ biến nhất là chú bé mục đồng tóc để chỏm, ngồi vắt vèo trên lưng trâu thổi sáo. Giữa chốn phố thị, để tìm một chút yên bình của làng quê, không ít gia đìnhg đã trưng bày những tượng điêu khắc, những tranh ảnh có hình ảnh chú bé mục đồng cưỡi trâu, như một cách nhắc nhớ lại những ký ức êm đềm của tuổi thơ. Ảnh 7, 8: Những tượng gốm quen thuộc thường thấy trong các nếp nhà Việt Âm nhạc Trong lĩnh vực âm nhạc, trước đây không nhiều ca khúc viết về mục đồng vì dường như lúc đó, con người vẫn còn quen thuộc lắm hình ảnh làng quê, nhìn đâu cũng thấy cảnh những chú bé chăn trâu vô tư trên đồng quê bát ngát. Nhưng ngày nay, khi những thứ tưởng chừng quen thuộc đó đã trở thành ký ức thì lòng người lại không nguôi hoài niệm và tái hiện nó trở lại trong những ca khúc và không ít trong số đó là những ca khúc dành cho thiếu nhi và giới trẻ. Có thể dẫn ra đây ca khúc Nghêu ngao mục đồng của tác giả Trần Xuân Tiên với những ca từ rất trong trẻo và càng đáng yêu hơn khi được thể hiện qua giọng hát líu lo của các em nhỏ. “Ê, cho mượn cái mo cau, quạt cho mát chút đi. Chà, bây giờ mình nghỉ một chút, hát cho vui một chút rồi mình lại chơi tiếp, bạn nhé. Ngoài đồng có bụi dưa hồng. Ngoài đồng có bụi chuối bông. Nghé nghé, con gì bơi không hát mà la. Bỏ bè, bỏ bạn, không ôn bài mà la suốt ngày Chiều chiều én liệng qua đồng. Chiều chiều én liệng bến sông Nghé nghé, nghé con hun hút cuộc vui, ở bờ, ở bụi, ai đuổi mày mà u ú ù.” Ca khúc thứ hai cũng rất nổi tiếng trong thời gian gần đây và đó là một ca khúc viết cho giới trẻ, ca khúc Mục đồng của tác giả Tăng Nhật Tuệ. “Này ta nhóm một tiếng ca lửa hồng hát đón ánh trăng vàng lên. Này ta đón ngày ấu thơ quay về, về bên giấc mơ lành. Còn tiếng cười sau cánh cửa chờ ta đấy thôi, còn bếp hồng đang nhóm lại ngày thơ đấy thôi. Đường còn thật xa trái tim ấp ôm những ngày qua, là ngọn lửa ấm đã nuôi lớn ta những ngày xa. Này ta vẫn là chú bé mục đồng giữa bát ngát mây trời không u sầu. Này ta hát bài hát ru yên bình, hát với ánh trăng vàng lên. Này ta uống giọt sương trên lá cỏ và nghe dế kêu mừng. Còn tiếng cười sau cánh cửa chờ ta đấy thôi. Còn bếp hồng đang nhóm lại ngày thơ đấy thôi. Đừng vội vàng bay chú chim sáng nay trên cành khô. Ngày còn hồng lên hót vang với ta những ngày xưa. Còn tiếng cười sau cánh cửa chờ ta đấy thôi. Còn bếp hồng đang nhóm lại ngày thơ đấy thôi. Đừng vội vàng bay chú chim sáng nay trên cành khô. Ngày còn hồng lên hót vang với ta những ngày xưa Này ta vẫn là chú bé mục đồng hát bát ngát mây trời không u sầu” (Mục đồng – Sáng tác: Tăng Nhật Tuệ) TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 7 * 2014 65 Một ca khúc khác cũng là một sáng tác dành cho giới trẻ theo thể loại nhạc rock mới lạ, ca khúc Bài hát mục đồng do nhạc sĩ khiếm thị Hà Chương sáng tác. Có thể xem những cảm xúc của Hà Chương trong ca khúc là một vùng ký ức sâu lắng tích tụ từ bao đời của người con đất Việt vì dù chưa một lần nhìn hình ảnh làng quê (tác giả là người khiếm thị) nhưng Hà Chương đã truyền tải được những rung động rất trong trẻo qua “đôi mắt” của một chú mục đồng trẻ thơ. “Cơn gió chiều nhè nhẹ nâng cánh diều, làng yên bình thân yêu. Cánh đồng vàng, lũ bạn tôi mơ màng nhìn diều bay thênh thang. Nào mình cùng nắm tay cười vang và nghe hương đồng mênh mang. Kìa một chú chim sẻ non, gieo lời hót trong ngần. Diều ơi! Diều ơi! Bay lên dùm tôi những ước mơ nhỏ bé, nâng lên trời xanh những khát khao tuổi thơ. Với bao mộng mơ diều ơi ngày ấy, lớn lên trong tôi tình yêu con người. Cuối ngày rồi một cánh diều bay, phiêu du trên bầu trời. dù đời ngược xuôi, diều vẫn trôi tôi về miền cổ tích. Tiếng sáo diều làm lòng nhẹ thênh, cho ta quên ưu phiền. một ngày bình yên, diều hát ngân nga bài hát mục đồng Gió ơi xin đừng làm diều tôi đứt dây! Mưa ơi nhẹ rơi kẻo diều tôi tả tơi! Để diều gọi trăng lên, đem ánh sáng hiền, và tình yêu đến lung linh. Bồng bềnh diều bay lên, chòng chềnh diều bay lên” 5. Kết luận Đâu đó, trong sâu thẳm mỗi con người Việt Nam đều khao khát một lần được chạy chân trần trên đồng ruộng, nằm trên lưng trâu ngân nga những bài đồng dao thơ ấu. Đó là dấu ấn, là ký ức không bao giờ phai nhạt. Dù được tái hiện dưới hình thức nào đi nữa (trong thơ ca, nhạc họa hay tái hiện trong đời thực qua lễ hội Mục đồng,) thì người dân gốc nông nghiệp đều có chung mục đích là gửi gắm ước mong, nguyện vọng tốt đẹp của mình vào biểu tượng trung tâm: biểu tượng mục đồng. Khi tìm hiểu về biểu tượng mục đồng trong văn hóa Việt Nam qua việc áp dụng cấu trúc bốn thành phần, người viết không chỉ biết về tâm thức của người Việt trong cách nhìn nhận về đối tượng này mà còn được tìm hiểu rõ thêm về một trong những lễ hội dân gian độc đáo của dân tộc. Lễ hội Mục đồng dành cho trẻ chăn trâu nên cũng có thể xem đó như ngày cúng tổ nghề (giống như ngày tổ nghề thêu, nghề may, nghề đúc). Nhưng về tâm thức cộng đồng, lễ hội lại giống như một ngày sinh nhật tuổi ấu thơ. Trong đó, ai cũng có thể tìm thấy những hình ảnh, những dấu ấn của bản thân và đều cảm thấy có trách nhiệm phải duy trì ngày lễ giống như duy trì kỷ niệm ngày sinh hằng năm của mình vậy TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đào Duy Anh 2014: Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Thế giới, Hà Nội. [1] Đinh Gia Khánh (cb), Cù Huy Cận 1995: Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học Hà Nội. [2] Trần Long 2013: Tập bài giảng môn Văn hóa dân gian, ĐH KHXH&NV Tp.HCM [3] Trần Ngọc Thêm 2006: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng hợp Tp.HCM. [4] Vũ Ngọc Khánh 2007: Văn hóa dân gian người Việt, Nxb Quân đội Nhân dân. [5] Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, 66 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN [6] Chu Mạnh Cường: Con trâu [7] Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Đại Phúc: Chùa mục đồng và tượng mục đồng ở Nam Bộ [8] Ngọc Bảo: Chăn trâu [9] Nguyễn Trần Bình: Cặp tranh chăn trâu [10] Văn Thành Lê: Lễ rước mục đồng làng Phong Lệ [11] tho/22888p1c29.htm [12] Dong-Ai-bao-chan-trau-la-kho.ttm Abstract The Symbol of “Herdsman” in Vietnamese Folklore Herdsman has long been a symbol attached to Vietnam’s countryside and villages. It is such a popular thing that the mentioning simply recalls the scenery of a young boy riding buffalo and playing flute. However, it is not only the image of Vietnam villages’ peace, but also has more special values. This paper will systemize the values of this symbol in the minds of the ordinary people, from which, explaining some perspectives about the life and world of farmers from the ancient time to their current efforts in preserving them. Although there have been many researches about the herdsman, none of them approaches this topic from a cultural perspective under any specific cultural theory. With this article, we take advantage of a popular structure in folklore research, including four components: awareness-based culture, behavior-based culture, organizational culture and re-creating culture. Key words: symbol, folklore, festival, herdsman
File đính kèm:
- bieu_tuong_muc_dong_trong_van_hoa_dan_gian_viet_nam.pdf