Báo cáo Tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam

Già hoá dân số đánh dấu thành công của chuyển đổi nhân khẩu học nhờ kết

hợp giảm nhanh, giảm mạnh mức chết và mức sinh trong đó giảm mức sinh là

yếu tố quyết định nhất dẫn đến làm thay đổi cơ cấu tuổi, phân bố dân số của từng

nhóm tuổi (tỷ lệ người trưởng thành và người cao tuổi tăng lên trong cơ cấu dân

số, tỷ lệ dân số trẻ so với tổng dân số giảm rõ rệt) và tuổi trung vị của dân số

không ngừng tăng lên. Để xem xét đánh giá vấn đề dân số già hóa, các nhà nhân

khẩu học dựa vào các chỉ số như tuổi thọ bình quân, tỷ lệ dân số 60 tuổi trở lên,

65 tuổi trở lên, tuổi trung vị1.

Ở hầu hết các nước phát triển, từ 65 tuổi trở lên được coi là người cao tuổi.

Tuy nhiên với nhiều nước đang phát triển thì mốc tuổi này không phù hợp. Hiện

tại chưa có một tiêu chuẩn thống nhất cho các quốc gia, tuy nhiên Liên Hợp quốc

chấp nhận mốc để xác định dân số già là từ 60 tuổi trở lên trong đó phân ra làm

ba nhóm: Sơ lão (60-69 tuổi), trung lão (70-79 tuổi) và đại lão (từ 80 tuổi trở

lên).

Ở Việt Nam, Pháp lệnh người cao tuổi quy định những người từ 60 tuổi trở

lên được coi là người cao tuổi. Khái niệm người cao tuổi được sử dụng thay cho

người cao tuổi vì thực tế nhiều người từ 60 tuổi trở lên, vẫn còn hoạt động, vì vậy

cụm từ "người cao tuổi " bao hàm tính kính trọng, động viên hơn so với cụm từ

"người cao tuổi". Tuy nhiên về khoa học thì người cao tuổi hay người cao tuổi

đều được dùng với ý nghĩa như nhau. Trong báo cáo này, những người từ 60 tuổi

trở lên được coi là người cao tuổi.

Báo cáo Tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam trang 1

Trang 1

Báo cáo Tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam trang 2

Trang 2

Báo cáo Tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam trang 3

Trang 3

Báo cáo Tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam trang 4

Trang 4

Báo cáo Tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam trang 5

Trang 5

Báo cáo Tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam trang 6

Trang 6

Báo cáo Tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam trang 7

Trang 7

Báo cáo Tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam trang 8

Trang 8

Báo cáo Tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam trang 9

Trang 9

Báo cáo Tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 32 trang minhkhanh 15800
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo Tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam

Báo cáo Tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam
BỘ Y TẾ 
TỔNG CỤC DÂN SỐ 
VÀ KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH 
QUỸ DÂN SỐ LIÊN HỢP QUỐC 
BÁO CÁO TỔNG QUAN 
VỀ 
CHÍNH SÁCH CHĂM SÓC NGƯỜI GIÀ 
THÍCH ỨNG VỚI THAY ĐỔI CƠ CẤU TUỔI TẠI VIỆT NAM 
Nhóm nghiên cứu: 
PGS. TS. PHẠM THẮNG 
Viện trưởng Viện Lão khoa Quốc gia, Bộ Y tế 
TS. ĐỖ THỊ KHÁNH HỶ 
Phó viện trưởng Viện Lão khoa Quốc gia , Bộ Y tế 
Email: vienlaokhoa@vnn.vn 
Hà Nội-2009 
 1 
I. GIÀ HÓA DÂN SỐ: VẤN ĐỀ TOÀN CẦU TRONG THẾ KỶ 21 
1. Xu hướng già hóa trên thế giới 
Già hoá dân số đánh dấu thành công của chuyển đổi nhân khẩu học nhờ kết 
hợp giảm nhanh, giảm mạnh mức chết và mức sinh trong đó giảm mức sinh là 
yếu tố quyết định nhất dẫn đến làm thay đổi cơ cấu tuổi, phân bố dân số của từng 
nhóm tuổi (tỷ lệ người trưởng thành và người cao tuổi tăng lên trong cơ cấu dân 
số, tỷ lệ dân số trẻ so với tổng dân số giảm rõ rệt) và tuổi trung vị của dân số 
không ngừng tăng lên. Để xem xét đánh giá vấn đề dân số già hóa, các nhà nhân 
khẩu học dựa vào các chỉ số như tuổi thọ bình quân, tỷ lệ dân số 60 tuổi trở lên, 
65 tuổi trở lên, tuổi trung vị1... 
Ở hầu hết các nước phát triển, từ 65 tuổi trở lên được coi là người cao tuổi. 
Tuy nhiên với nhiều nước đang phát triển thì mốc tuổi này không phù hợp. Hiện 
tại chưa có một tiêu chuẩn thống nhất cho các quốc gia, tuy nhiên Liên Hợp quốc 
chấp nhận mốc để xác định dân số già là từ 60 tuổi trở lên trong đó phân ra làm 
ba nhóm: Sơ lão (60-69 tuổi), trung lão (70-79 tuổi) và đại lão (từ 80 tuổi trở 
lên). 
Ở Việt Nam, Pháp lệnh người cao tuổi quy định những người từ 60 tuổi trở 
lên được coi là người cao tuổi. Khái niệm người cao tuổi được sử dụng thay cho 
người cao tuổi vì thực tế nhiều người từ 60 tuổi trở lên, vẫn còn hoạt động, vì vậy 
cụm từ "người cao tuổi " bao hàm tính kính trọng, động viên hơn so với cụm từ 
"người cao tuổi". Tuy nhiên về khoa học thì người cao tuổi hay người cao tuổi 
đều được dùng với ý nghĩa như nhau. Trong báo cáo này, những người từ 60 tuổi 
trở lên được coi là người cao tuổi. 
Già hoá diễn ra khi mức sinh giảm trong khi triển vọng sống duy trì không 
đổi hoặc tăng lên ở các độ tuổi già. Trong giai đoạn 1950-2005, không chỉ mức tử 
vong sơ sinh giảm mà mức tử vong ở tất cả những nhóm tuổi khác cũng giảm. 
Mức sinh giảm ở hầu hết các nước trên thế giới. Thế kỷ XX đã chứng kiến một 
cuộc cách mạng về tăng tuổi thọ. Tuổi thọ bình quân của thế giới đã tăng thêm 20 
năm, dự kiến đạt mức 67,2 tuổi năm 2010 và 75,4 tuổi vào năm 2050. Kết quả là 
1 Tuổi trung vị là tuổi chia dân số thành hai nhóm bằng nhau về lượng; có nghĩa là một nửa số dân thuộc nhóm trẻ 
hơn và một nửa già hơn độ tuổi đó. 
 2 
dân số của nhiều quốc gia sẽ già hoá nhanh chóng và số lượng quốc gia phải đối 
mặt với thực trạng này ngày càng tăng. Thành tựu này cùng với kết quả tăng 
trưởng dân số trong nửa đầu của thế kỷ XXI, dự báo trong giai đoạn 2005-2050, 
một nửa lượng dân số gia tăng là do tăng số người trên 60 tuổi (60+), số trẻ em 
dưới 15 tuổi sẽ giảm nhẹ. Dân số 60+ của thế giới sẽ tăng gấp ba từ 673 triệu (246 
triệu sống ở các quốc gia phát triển) năm 2005 lên 2 tỷ vào năm 2050 (406 triệu ở 
các quốc gia phát triển). Tỷ lệ người cao tuổi tăng từ 10% năm 1998 lên 15% 
năm 2025. 
Già hoá dân số sẽ trở thành một vấn đề lớn ở các nước đang phát triển, nơi 
mà dân số sẽ bị già hoá nhanh chóng trong nửa đầu của thế kỷ XXI. Các nước 
đang phát triển sẽ là nơi có tỉ lệ người cao tuổi tăng cao nhất và nhanh nhất, theo 
dự báo số người cao tuổi ở khu vực này sẽ tăng gấp 4 lần trong vòng 50 năm tới. 
Tỷ lệ người cao tuổi theo dự báo sẽ tăng từ 8% lên 19% vào năm 2025, trong khi 
đó tỷ lệ trẻ em sẽ giảm từ 33% xuống 22%. Hơn một nửa dân số tuổi 80+ sống ở 
những nước đang phát triển, dự báo sẽ tăng lên 71% vào năm 20502. Tốc độ già 
hóa tại các nước đang phát triển ngày càng nhanh hơn tại các nước phát triển (ví 
dụ Pháp mất khoảng 75 năm còn ở Singapore chỉ mất 19 năm), dẫn đến xảy ra 
nguy cơ “Già trước khi giàu” chứ không phải “Giàu trước khi già”. 
Tuổi trung vị của thế giới dự báo sẽ tăng từ 28 2005 lên 38 tuổi 2050. Điều 
quan trọng hơn là nhóm dân số già nhất (80+) tăng nhanh hơn nhiều. Nếu dân số 
60+ dự kiến tăng gấp ba vào năm 2050 thì nhóm dân số này tăng xấp xỉ 5 lần, từ 
88 triệu năm 2005 lên 402 triệu năm 20503 . 
Trong số người cao tuổi thì phụ nữ nhiều hơn nam giới. Tuổi càng tăng, sự 
khác biệt này càng lớn. Hiện trạng của phụ nữ già ở khắp nơi trên thế giới đòi hỏi 
sự ưu tiên trong các hành động chính sách. Sự lão hoá tác động lên phụ nữ và 
nam giới một cách không giống nhau. Ý thức được điều này là yếu tố cần thiết để 
đảm bảo sự bình đẳng nam nữ một cách đầy đủ và phát triển các biện pháp hiệu 
quả nhằm giải quyết vấn đề. Do vậy, điều quan trọng là đưa sự khác nhau về giới 
vào tất cả các chính sách, chương trình và luật pháp. 
2 Liên Hợp Quốc, Triển vọng dân số thế giới phiên bản 2006 
3 Liên Hợp Quốc, Triển vọng dân số thế giới phiên bản 2006 
 3 
Có sự khác biệt lớn về phân bố dân số giữa các nước phát triển và đang 
phát triển. Trong khi phần lớn người cao tuổi ở các nước phát triển sống ở thành 
thị, thì phần lớn người cao tuổi ở các nước đang phát triển sống tại khu vực nông 
thôn. Theo dự báo, đến năm 2025, 82% dân số ở các nước phát triển sẽ sống ở 
thành thị, trong khi đó ở các nước đang phát triển tỷ lệ này chưa đến 50%. 
Có sự khác nhau đáng kể giữa các nước phát triển và đang phát triển về 
kiểu hộ gia đình mà trong đó người cao tuổi sinh sống. Ở các nước đang phát 
triển phần lớn người cao tuổi sống trong gia đình có nhiều thế hệ. Sự khác biệt 
này ngụ ý rằng các hoạt động chính sách đối với người cao tuổi sẽ không giống 
nhau giữa các nước đã và đang phát triển. 
2. Xu hướng già hóa tại Việt Nam: 
Già hoá dân số sẽ là một thách thức lớn mà Việt Nam sẽ phải đối mặt trong 
thời gian tới. Do những thành tựu đạt được trong lĩnh vực y tế và kế hoạch hoá 
gia đình, mức sinh của nước ta đã giảm mạnh từ trung bình 4,8 con 1979 xuống 
2,33 con ... a, thể 
thao, môi trường; 
 - Thông tư số 135/2008/TT-BTC ngày 31/12/2008 của Bộ Tài chính hướng 
dẫn Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ. 
 Môi trường chính sách hiện nay đã tạo rất nhiều điều kiện để nâng cao chất 
lượng sống, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cho người cao tuổi. Tuy nhiên, 
theo đánh giá của Viện chiến lược và chính sách y tế, Bộ Y tế, việc triển khai 
thực hiện các chính sách chăm sóc sức khỏe người cao tuổi cho thấy: 
- Các chính sách chăm sóc sức khỏe người cao tuổi được ban hành đã thể 
hiện rõ được tính ưu việt của Đảng và Nhà nước. Người cao tuổi đã được quan 
 25 
tâm chăm sóc tốt hơn. Điều này đặc biệt rõ nét đối với những người cao tuổi tàn 
tật, cô đơn không nơi nương tựa và người cao tuổi từ 90 tuổi trở lên. 
- Việc tổ chức triển khai thực hiện Pháp lệnh người cao tuổi và một số 
chính sách chăm sóc sức khỏe người cao tuổi ở một số địa phương còn gặp nhiều 
khó khăn do: 
+ Việc ban hành các văn bản hướng dẫn của các ngành có liên quan chưa 
kịp thời và chưa cụ thể, do vậy tuyến cơ sở còn gặp khó khăn trong triển khai 
thực hiện chính sách. 
+ Thiếu sự phối hợp liên ngành trong triển khai thực hiện chính sách đặc 
biệt ở tuyến cơ sở do thiếu văn bản chỉ đạo hướng dẫn triển khai cụ thể của địa 
phương đối với từng cấp. 
- Việc phổ biến văn bản chính sách ở tuyến xã chưa được thực hiện đầy đủ 
tới tất cả các đối tượng có liên quan. 
- Việc triển khai thực hiện còn gặp nhiều khó khăn ở hầu hết các địa 
phương do thiếu kinh phí, nguồn nhân lực cũng như nhận thức về chính sách 
chưa đầy đủ của một số nhà lãnh đạo địa phương. Do vậy, quyền lợi của người 
cao tuổi chưa được đảm bảo như quy định. 
- Thiếu sự gắn kết chặt chẽ giữa tổ chức Hội người cao tuổi các cấp trong 
triển khai thực hiện chính sách. 
- Chưa có hoạt động kiểm tra giám sát quá trình triển khai thực hiện chính 
sách ở hầu hết các địa phương. 
2.6. Thách thức thứ sáu: Năng lực cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe 
người cao tuổi còn hạn chế 
Hiện nay, mạng lưới y tế của Việt Nam từ trung ương đến địa phương đã 
được củng cố. Nhiều dịch vụ y tế mới được nghiên cứu và đưa ra áp dụng trong 
thực tế. Những vấn đề như bảo hiểm y tế, nâng cao các hoạt động hỗ trợ cho việc 
chi trả của người dân đối với các dịch vụ y tế nhất là với những người nghèo, dân 
tộc thiểu số dành được sự quan tâm lớn của nhà nước. Các Quỹ khám chữa bệnh 
cho người nghèo cũng đã được thành lập đặc biệt dành cho vùng nông thôn và 
dân tộc thiểu số, có tác động tích cực tới việc chăm sóc sức khỏe cho người 
nghèo, nâng cao khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế cũng như giảm gánh 
năng tài chính cho người nghèo. Tuy nhiên, việc triển khai Quỹ khám chữa bệnh 
 26 
còn gặp nhiều khó khăn do chất lượng dich vụ y tế tuyến xã còn hạn chế, kiến 
thức về các vấn đề sức khỏe và chăm sóc sức khỏe của người dân còn chưa đầy 
đủ, và hạn chế trong các hoạt động truyền thông26 Tình hình chăm sóc y tế còn 
yếu; mạng lưới y tế phục vụ người cao tuổi chưa có; số nhân viên y tế phục vụ tại 
cộng đồng vừa thiếu về số lượng vừa yếu về nghiệp vụ và kỹ năng trong khi nhu 
cầu chăm sóc y tế lại rất lớn. Theo con số điều tra của Viện Lão khoa Quốc gia 
tại ba địa bàn Hà Nội, Thừa Thiên Huế và Bà Rịa-Vũng Tàu, phần lớn người cao 
tuổi đều trả lời là không được bác sỹ và nhân viên y tế tới nhà khám, cụ thể là ở 
Phương Mai- Hà Nội là 51%, Phú Xuân-Thừa Thiên Huế là 83,6%, ở Hoà Long-
Bà Rịa Vũng Tàu là 78,3%. Có tới 75,8% các cụ cho rằng mình cần được khám 
chữa bệnh tốt hơn so với hiện tại. Tỷ lệ này cao nhất ở Phương Mai 86,6%, Hoà 
Long 72,7% cuối cùng là Phú Xuân 68,2%. 
Năm 2006, Viện Lão khoa Quốc gia đã tiến hành khảo sát điều tra các sở y 
tế trong toàn quốc. Kết quả cho thấy mới có 22,4% số tỉnh có bệnh viện có 
chuyên khoa Lão khoa với nguồn nhân lực gồm 139 bác sĩ, nghiên cứu viên và 
237 điều dưỡng viên. Cả nước mới có 5 cơ sở chuyên chăm sóc y tế lâu dài cho 
người cao tuổi, hơn một nửa số tỉnh có cơ sở lưu trú cho đối tượng chính sách, 
người cao tuổi neo đơn không nơi nương tựa (trung tâm xã hội thuộc Bộ LĐ-TB-
XH). Cả nước mới có 2 cơ sở đào tạo có bộ môn Lão khoa, số lượng các hình 
thức đào tạo chuyên đề, ngắn hạn, các công trình nghiên cứu cũng như các ấn 
phẩm chuyên ngành hầu như còn rất ít. Chăm sóc người cao tuổi là lĩnh vực liên 
ngành, nhưng hiểu biết của nhân viên y tế về các khía cạnh chính sách, chương 
trình và sự phối hợp giữa các cơ cấu tổ chức y tế và xã hội là còn hạn chế. 
III. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ, ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP 
3.1. Khuyến nghị 1: Tăng cường sức khỏe và chăm sóc sức khoẻ người cao 
tuổi, phòng bệnh bao gồm ngăn ngừa và quản lý các loại bệnh thường xảy ra 
khi tuổi cao. 
Tăng cường sức khoẻ là quá trình giúp cho con người kiểm soát và cải 
thiện sức khỏe của bản thân. Đương nhiên quá trình này phải được tiến hành 
26 Viện chiến lược và chính sách y tế, Đàm Viết Cương và cộng sự, Đánh giá tình hình chăm sóc sức khỏe cho 
người nghèo tại năm tỉnh miền núi phía bắc và Tây Nguyên 
( 
 27 
trong suốt cuộc đời. Ở đây, vai trò của bản thân người cao tuổi và gia đình là rất 
quan trọng. Tập luyện thích hợp, ăn uống điều độ, không hút thuốc, không uống 
rượu và sử dụng thuốc một cách khôn ngoan ở tuổi già có thể giúp ngăn ngừa 
bệnh tật và giảm chức năng, giúp kéo dài tuổi thọ và tăng chất lượng sống. 
Những bệnh thường thấy ở người cao tuổi là các bệnh không lây truyền và 
chấn thương. Phòng bệnh bao gồm cả “cấp 1, tiên phát” (ví dụ tránh hút thuốc), 
“cấp 2, thứ phát” (khám sàng lọc để phát hiện sớm bệnh mãn tính) và “cấp ba” 
(quản lý lâm sàng thích hợp đối với các bệnh). Tất cả các cách thức phòng bệnh 
này giúp giảm nguy cơ bị tàn phế. Đối với mọi lứa tuổi, các chiến lược phòng 
bệnh- kể cả đối với các bệnh lây truyền - đều dẫn tới tiết kiệm được chi phí, tiền 
của. Tàn phế liên quan với tuổi già và bệnh mãn tính có thể phòng ngừa hoặc trì 
hoãn nếu như chấp thuận các hành vi, lối sống lành mạnh. Không hút thuốc lá, 
tăng vừa phải mức độ vận động cũng đã có thể làm giảm đáng kể nguy cơ mắc 
bệnh tim mạch và các bệnh khác. 
a) Đẩy mạnh các hoạt động giáo dục truyền thông để người cao tuổi có kiến thức 
tự tăng cường và chăm sóc sức khỏe; cải thiện chuẩn mực sống và tình trạng 
sức khỏe tốt hơn ngay từ khi còn trẻ. Tạo sự thay đổi trong nhận thức và hành 
vi hướng tới sự đồng thuận của dư luận và thực hành của cá nhân, tăng cường 
hỗ trợ của cộng đồng không chỉ về phòng ngừa tàn phế mà cả vấn đề giảm 
thiểu những rào cản mà người tàn phế thường phải đối mặt. 
b) Tăng cường quản lý và kiểm soát các bệnh mãn tính; ứng dụng các kỹ thuật 
mới trong chẩn đoán và điều trị sớm, điều trị lâu dài các bệnh mãn tính như 
tim mạch, tăng huyết áp, thoái khớp, tiểu đường, ung thư 
c) Tăng cường hỗ trợ người cao tuổi sử dụng các dụng cụ trợ giúp - từ những 
dụng cụ cá nhân đơn giản như gậy, khung đỡ, tay vịn đến những công nghệ 
cho mọi người như điện thoại - làm giảm tính phụ thuộc của những người bị 
tàn phế. 
3.2 Khuyến nghị 2: Đảm bảo cho mọi người cao tuổi có thể tiếp cận một cách 
bình đẳng với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. 
a) Phân bổ bình đẳng các nguồn lực về y tế và phục hồi chức năng cho người cao 
tuổi, đặc biệt là người cao tuổi nghèo, ở khu vực nông thôn và vùng sâu vùng 
 28 
xa, bao gồm các cách tiếp cận có thể chi trả được đối với những thuốc thiết 
yếu cũng như những biện pháp điều trị khác. 
b) Bảo đảm sự tiếp cận bình đẳng đối với hệ thống chăm sóc chính thức qua các 
dịch vụ y tế và xã hội. 
c) Tăng khả năng tiếp cận một cách bình đẳng với dịch vụ chăm sóc cho người 
cao tuổi nghèo, cũng như ở các vùng nông thôn, vùng xa bằng cách giảm hoặc 
miễn phí, cung cấp các chế độ bảo hiểm và những biện pháp hỗ trợ tài chính 
khác. 
d) Khẩn trương xây dựng và củng cố mạng lưới y tế chăm sóc sức khoẻ người 
cao tuổi, đặc biệt là mạng lưới kiểm soát các bệnh mãn tính ở người cao tuổi. 
3.3. Khuyến nghị 3: Tăng cường năng lực quốc gia về chăm sóc sức khỏe 
người cao tuổi 
a) Ưu tiên đầu tư phát triển Viện Lão khoa Quốc gia, là cơ sở đầu ngành chuyên 
chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, chịu trách nhiệm chỉ đạo về chuyên môn 
kỹ thuật cho toàn bộ hệ thống lão khoa trên phạm vi cả nước. 
b) Thiết lập mạng lưới lão khoa trên phạm vi toàn quốc, bao gồm việc thành lập 
và đưa vào hoạt động các khoa lão khoa tại các bệnh viện theo Thông tư số 
02/2004/TT-BYT ban hành ngày 20/01/2004 về việc hướng dẫn thực hiện 
công tác chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi của Bộ Y tế. 
c) Đưa nhiệm vụ kiểm soát bệnh không lây truyền, mãn tính vào nội dung chăm 
sóc sức khoẻ nhân dân tại tuyến cơ sở, gắn với các nhiệm vụ của công tác y tế 
dự phòng, dân số và kế hoạch hóa gia đình. 
d) Xây dựng các mô hình chuẩn Chăm sóc cho người cao tuổi dựa vào công 
đồng; từng bước phát triển mạng lưới và nâng cao năng lực chăm sóc người 
cao tuổi tại nhà (bao gồm các hình thức như tình nguyện viên/ cán bộ y tế cơ 
sở chăm sóc người cao tuổi tại nhà, chương trình hỗ trợ phục hồi chức năng, 
cung cấp dụng cụ trợ giúp, dịch vụ chăm sóc tạm thời, trung tâm chăm sóc 
ban ngày) 
 29 
e) Từng bước xây dựng và quản lý thống nhất mạng lưới Trung tâm điều dưỡng 
người cao tuổi trên cơ sở nhu cầu thực tế và điều kiện cơ sở hạ tầng của từng 
địa phương. 
3.4. Khuyến nghị 4: Tăng cường công tác đào tạo và nghiên cứu liên quan 
đến sức khỏe người cao tuổi 
a) Thành lập bộ môn Lão khoa tại các cơ sở đào tạo y khoa để phát triển chuyên 
ngành Lão khoa, đào tạo nguồn nhân lực cho tương lai. 
b) Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo Điều dưỡngLão khoa 
phù hợp với nhu cầu nguồn nhân lực của mạng lưới chăm sóc người cao tuổi 
và điều kiện thực tế của vùng miền trong từng giai đoạn; đưa các nội dung về 
những nguyên tắc cơ bản, cách tiếp cận trong chăm sóc sức khoẻ người cao 
tuổi vào các chương trình đào tạo sinh viên y khoa, y tá điều dưỡng cũng như 
những cán bộ y tế khác. 
c) Cung cấp thông tin và nội dung giáo dục về già hoá tích cực vào các chương 
trình đào tạo, tập huấn dành cho nhân viên dịch vụ dân số, y tế, xã hội và 
truyền thông. 
d) Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo Người chăm sóc 
không chính thức; cung cấp thông tin, tập huấn về cách thức chăm sóc người 
cao tuổi cho thành viên gia đình, bạn bè đồng niên và những người chăm sóc 
không chính thức khác. 
e) Thí điểm các mô hình cung ứng Điều dưỡngLão khoa cho thị trường lao động 
quốc tế. 
f) Tăng cường nghiên cứu, giám sát thực hiện các chính sách để có những điều 
chỉnh thích hợp đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu, thực hiện chuyển giao công 
nghệ quản lý và chăm sóc sức khỏe người cao tuổi 
3.5. Khuyến nghị 5: Xây dựng chính sách thích ứng với xã hội già 
Trong bối cảnh đất nước còn nghèo; các chương trình bảo hiểm xã hội 
thiếu bền vững, phạm vi bao phủ hết sức hạn chế; đối tượng hưởng lợi của mạng 
an sinh xã hội chủ yếu là nhóm dân số làm việc trong khu vực nhà nước, khu vực 
kinh tế chính thức và sống ở khu vực thành thị. Chăm sóc sức khỏe và lương hưu 
 30 
ở khu vực tư nhân dường như trở lên quan trọng hơn trong mối liên kết giữa khu 
vực công và khu vực tư nhân trong cung cấp dịch vụ y tế. 
a) Cải cách khu vực công sẽ tập trung vào chăm sóc sức khỏe, lương hưu và an 
sinh xã hội; triển khai các cơ chế chia sẻ trách nhiệm, hỗ trợ tài chính cho 
người cao tuổi, đặc biệt là những người đã thực hiện tốt chính sách dân số 
trong những thập niên vừa qua; 
b) Xác định và chuẩn hoá tốt hơn các công cụ đánh giá chức năng và mức độ tàn 
phế làm cơ sở để hoạch định chính sách và lập kế hoạch can thiệp trong y học 
và y tế. 
c) Xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách, chương trình, hợp tác quốc tế 
để có thể đương đầu với sự bùng nổ của các bệnh không lây truyền, mãn tính. 
d) Xây dựng và thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe 
cho người cao tuổi; xác định một số mục tiêu lượng hoá được, đặc trưng cho 
từng giới nhằm cải thiện tình trạng sức khỏe người cao tuổi, giảm thiểu các 
bệnh mạn tính, tàn phế và tử vong khi bước vào tuổi già. 
e) Tập trung nỗ lực huy động sự tham gia của cộng đồng và xã hội trong các 
chương trình, dự án tăng cường sức khỏe, phòng bệnh, kiểm soát gánh nặng 
bệnh gắn với các hoạt động phát triển cộng đồng. 
f) Xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách khuyến khích các thành phần 
kinh tế, cộng đồng, gia đình và cá nhân chăm sóc người cao tuổi, tham gia 
dịch vụ bảo hiểm nhân thọ; xây dựng chính sách khuyến khích phụ nữ tham 
gia vào lực lượng lao động cũng như các chương trình tiết kiệm, bảo hiểm xã 
hội, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm y tế ... 
3.6. Khuyến nghị 6: Xây dựng một xã hội hài hoà cho mọi lứa tuổi 
a) Tạo dựng môi trường thân thiện với người cao tuổi 
o Tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho người chăm sóc người tàn phế (thời 
gian làm việc linh hoạt), lao động tuổi 60+ (nơi làm việc không có vật cản, 
thời gian làm việc linh hoạt). 
o Đảm bảo an toàn, thuận tiện cho người cao tuổi trong sinh hoạt, đi lại và sử 
dụng các dịch vụ. 
o Đảm bảo an ninh tài chính cho người cao tuổi có hoàn cảnh đặc biệt. 
 31 
o Thực hiện chương trình học tập suốt đời, luyện tập phục hồi chức năng, vui 
chơi giải trí. 
o Hỗ trợ sử dụng các phương tiện, thiết bị, dụng cụ trợ giúp người cao tuổi. 
o Nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi ứng xử với người cao tuổi trong 
mọi tình huống. 
b) Củng cố hình ảnh của người cao tuổi trong xã hội hiện đại. 
o Ghi nhận và tôn vinh những đóng góp của người cao tuổi với xã hội, gia 
đình. 
o Đề cao những tấm gương điển hình về người cao tuổi “sống vui, sống 
khoẻ, sống có ích”, gia đình “ Ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo 
hiền”. 
o Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục đạo đức “Uống nước nhớ nguồn”. 
o Tăng cường mối liên kết giữa các thế hệ bằng các hoạt động phát triển, các 
sự kiện lớn tại cộng đồng. 
c) Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, thực hiện nghiêm pháp luật và 
các quy định bảo vệ và chăm sóc người cao tuổi. 

File đính kèm:

  • pdfbao_cao_tong_quan_ve_chinh_sach_cham_soc_nguoi_gia_thich_ung.pdf