Ẩm thực Nam Bộ và những ảnh hưởng từ ẩm thực Thăng Long, Hà Nội
Ẩm thực Nam Bộ được hình thành cùng với lịch sử hình thành vùng đất Nam Bộ. Ở
đây có những món ăn mang hương vị rất riêng biệt, độc đáo của nhiều địa phương, nhiều
quốc gia. Mỗi món ăn ở từng địa phương đều có nét riêng biệt, nhưng khi đến một địa
phương khác đều được biến hoá để phù hợp với điều kiện thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng và
thói quen của cư dân tại đây. Ngày nay, có rất nhiều món ăn miền Nam là kết qu được
tổng hợp và biến hoá từ nhiều nền văn hoá c ng như vùng miền khác nhau, chiều dài lịch
sử kéo dài hàng mấy trăm năm đã tạo nên b n sắc riêng cho món ăn vùng đồng bằng sông
nước này. Một bộ phận khá lớn cư dân Nam Bộ ngày nay có nguồn gốc từ miền ngoài vào,
vì vậy ẩm thực Thăng Long có một nh hưởng nhất định đối với ẩm thực Nam Bộ
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ẩm thực Nam Bộ và những ảnh hưởng từ ẩm thực Thăng Long, Hà Nội
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 5 - Thaùng 01/2011 129 ẨM THỰC NAM BỘ VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG TỪ ẨM THỰC THĂNG LONG, HÀ NỘI NGUYỄN THỊ DIỆU THẢO (*) TÓM TẮT Ẩm thực Nam Bộ được hình thành cùng với lịch sử hình thành vùng đất Nam Bộ. Ở đây có những món ăn mang hương vị rất riêng biệt, độc đáo của nhiều địa phương, nhiều quốc gia. Mỗi món ăn ở từng địa phương đều có nét riêng biệt, nhưng khi đến một địa phương khác đều được biến hoá để phù hợp với điều kiện thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng và thói quen của cư dân tại đây. Ngày nay, có rất nhiều món ăn miền Nam là kết qu được tổng hợp và biến hoá từ nhiều nền văn hoá c ng như vùng miền khác nhau, chiều dài lịch sử kéo dài hàng mấy trăm năm đã tạo nên b n sắc riêng cho món ăn vùng đồng bằng sông nước này. Một bộ phận khá lớn cư dân Nam Bộ ngày nay có nguồn gốc từ miền ngoài vào, vì vậy ẩm thực Thăng Long có một nh hưởng nhất định đối với ẩm thực Nam Bộ. ABSTRACT Southern food and drink came together with the history of the Southern territory. There are dishes of unique flavors from many local areas and other nations. Each dish in each locality has its own specialty, but when it comes to another part of the country, it will be changed to suit the weather, climate, soil, and habits of the inhabitants there. Today, there are many Southern dishes resulting from the synthesis and transformation of the food from various cultures and regions. Through the history of hundreds of years, the dishes have created particular characteristics of the food of the region of rivers and plains. A large majority of Southern habitants today came from the North, so Thang Long food and drink has a certain impact on the food and drink of the South of Vietnam. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ (*) Việt Nam là một nước nông nghiệp nhiệt đới, do đó nguồn thực vật, cây trồng xanh tốt bốn mùa, gồm đủ các loại rau, củ, quả. Biển, sông, lạch, ngòi là nguồn cung cấp thủy sản phong phú đa dạng, đủ các chủng loại. Khí hậu nước ta không những thuận lợi cho việc phát triển cây trồng, trong đó cây lúa là lương thực chính, mà còn thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm mà chủ yếu là gà, vịt, lợn, trâu, bò, dê, thỏ... tùy theo từng vùng. Ba miền B c, Trung, Nam, trong chế biến món ăn vẫn có những tương đồng mang tính thống nhất. (*) TS, Trường Đại học Sài Gòn. Là một nước nông nghiệp, chủ yếu sản xuất lúa gạo, cả ba miền đều lấy cơm làm thức ăn chính. Người Việt Nam lại rất có khả năng trong việc sáng tạo món ăn, mỗi miền đều có cách chế biến món ăn tạo ra những hương vị khác nhau, cách thưởng thức cũng có những nét riêng, vùng này không giống vùng kia. Ẩm thực Việt Nam mang những đặc trưng về tính linh hoạt trong chọn lựa nguyên liệu, chế biến và thưởng thức, có tính phối hợp nguyên liệu khoa học và phù hợp với sức khỏe. Xét trên các khía cạnh dinh dưỡng học, tâm lí học, sinh lí học và triết học, ẩm thực Việt Nam có những thể hiện phù hợp với ẩm thực hiện đại. Vùng châu th phía B c là nơi t tiên ta sớm định cư lâu đời, mọi cái ăn cái 130 mặc đều được sàng lọc, đúc kết đ trở nên chuẩn mực của làng, của nước, không d g thay đ i. ó thể coi đất B c là nơi còn giữ đầy đủ các đặc điểm của nền ẩm thực truyền thống. Suốt quá tr nh Nam tiến, ông bà ta đ lưu giữ được cái hồn của ẩm thực Việt Nam và không ngừng sáng tạo, thích nghi theo điều kiện sống ở vùng đất mới, đem lại sự đa dạng, đặc s c của các món ăn ba miền. Qua đó mà khẩu vị, phong cách nấu ăn của cả ba miền, bên cạnh những điểm tương đồng, cũng có những đặc điểm khác biệt khá rõ nét. Điều này thể hiện rõ nét qua sự h nh thành và phát triển của ẩm thực Nam Bộ. Ẩm thực Nam Bộ từ khi b t đầu h nh thành vào những thập niên cuối thế kỉ thứ 17 đến nay, theo bước chân của lưu dân từ phía B c và miền Trung di dân vào cho đến nay đ có nhiều thay đ i và tạo nên đặc điểm riêng biệt của vùng miền. Một số món ăn có nguồn gốc và sự ảnh hưởng lớn từ văn hoá ẩm thực Thăng Long, Hà Nội theo thời gian không chỉ trở thành quen thuộc với người Nam Bộ mà còn thể hiện nét đặc s c riêng biệt. 2. NỘI DUNG 2.1.Lịch sử hình thành và phát triển ẩm thực Nam Bộ Vào những thập niên cuối thế kỉ XVII, lưu dân người Việt theo đường biển, ngược sông Tiền, qua cửa sông Lôi Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu tiến vào khai thác vùng Mỹ Tho ngày nay. Một Bộ phận khác đi xa hơn đ đến tận Hà Tiên để sinh sống. Trong lớp dân cư mới đến vùng Đồng Nai – Gia Định vào thế kỉ XVII, có một số đông người Hoa đến từ Quảng Đông, Quảng Tây... (Trung Quốc). Đến thế kỉ XVIII lại có thêm một số đông người hăm gia nhập vào số cư dân ở đây. Đồng thời với những bước khai hoang của nhân dân lao động, chính quyền nhà Nguy n đ giúp cho giai cấp địa chủ phát triển ở Nam Bộ. hính v địa chủ là chỗ dựa cho chính quyền phong kiến nhà Nguy n nên các vua nhà Nguy n trong suốt nửa đầu thế kỉ XIX càng chú tâm phát triển giai cấp này. Triều đ nh nhà Nguy n ra lệnh cho quan lại địa phương khuyến khích khai phá đất hoang. Người nông dân, nhất là người nông dân phiêu bạt đ khai hoang trồng trọt để sinh sống cho dù có sự khuyến khích của chính quyền hay không. ũng như ở giai đoạn trước, người dân tự đi t m đất khai phá gồm rất nhiều thành phần: những người dân phiêu bạt v ngh o kh , v chiến tranh... từ các tỉnh Trung Bộ đi vào Nam tiếp t c làn sóng di dân đ di n ra từ thế kỉ trước. Trong thành phần này còn có nhiều nông dân ngh o kh đ sinh sống từ lâu ở Nam Bộ. Ngoài những nông dân lưu tán, còn có những người trốn tránh việc cấm đạo hay nghi kị tôn giáo của chính quyền nhà Nguy n. Trong các lưu dân khai phá còn có những cư dân định cư trong thôn ấp cũng góp phần vào việc khai hoang đất đai. Họ tiếp t c lấn dần vào vùng đất hoang vốn còn nhiều trong khu vực cư trú, nới rộng thêm diện tích cày cấy trồng trọt. Lúc này những người đi khai hoang đ được phép của chính quy ... này thường tập trung ở các trung tâm đô thị lớn, nhất là Sài Gòn, trung tâm kinh tế và du lịch của miền Nam. Đây cũng là nơi hội t sản vật “tứ xứ” với đủ loại thực phẩm và các món ăn của mọi miền đất nước, trong đó các món ăn Nam Bộ chiếm đa số và được hầu hết khách ưa chuộng. ác vị chua, ngọt, béo, đặc trưng của miền Nam cũng dần dần được điều chỉnh cho phù hợp với các vùng miền khác nhau, mang tính đại chúng và d chấp nhận hơn. Điều đó cho thấy sự phát triển của các món ăn Nam Bộ trong t ng thể văn hoá ẩm thực của cả nước, tạo sự dung hoà và phong phú cho văn hoá ẩm thực Việt Nam. Món cá lóc nướng trui, có từ thời khẩn hoang lập đất, có được chính từ vùng đồng b ng sông ửu Long đến nay trở thành món ăn của mọi nơi, mọi nhà. á lóc nướng trui có lẽ là món ăn ph biến mà cư dân miền Nam ở thôn quê rất thích do d chế biến, nguyên liệu đơn giản mà hấp dẫn, rất phù hợp với tiệc tùng... Ở thôn quê khi nướng trui không bao giờ người ta dùng vỉ nướng và than hồng như nướng các thức ăn khác, mà là nướng trên lửa ngọn, lửa rơm. h một que tre tươi vót nhọn một đầu, xiên suốt từ miệng đến đuôi cá, c m đứng xuống đất, phủ rơm khô lên đốt. Khi rơm tàn cũng là lúc cá chín, mùi thơm bốc lên là ăn được. Điểm quan trọng của món ăn là cá phải tươi, sống... Ở thành phố hay trong các nhà hàng, không có điều kiện để thực hiện như cách trên do thiếu rơm và cũng không có chỗ để c m cá. Hơn nữa thực hiện cách này, thực khách chờ đợi khá lâu, v vậy món cá nướng được chế biến b ng cách gói giấy bạc, bọc loại đất sét nhân tạo, nướng chín sau đó cho vào ống tre nh m m c đích tạo ấn tượng cho người ăn mà thôi. Tuy nhiên dù theo cách chế biến nào, điều quan trọng trong món cá nướng trui là cá phải còn sống, lửa vừa độ để cá chín mà không bị khô và quan trọng hơn hết là muối ớt chấm k m với món ăn phải dùng loại muối hột, hay như cách gọi trong dân d là muối “c c” th mới ngon. Hoặc từ món m m kho dân d khi vào đến thành phố đ biến hoá trở thành món lẩu m m n i tiếng và là món đặc trưng Nam Bộ được đem ra giới thiệu cùng du khách các nơi. Xuất phát từ món m m và rau hay món m m kho, ảnh hưởng món bún nước l o nấu cá với ng i bún của người ampuchia, lại được thêm nguyên liệu thịt quay theo khẩu vị của Trung Hoa. Khi xuất hiện ở các nhà hàng lớn, nó lại có thêm các nguyên liệu hải sản như tôm, mực cho thêm phần phong phú và trở thành món ăn n i tiếng của miền Nam. 2.3. Những món ăn Nam Bộ chịu ảnh hưởng ẩm thực Thăng Long hịu ảnh hưởng ẩm thực Thăng Long, trước tiên phải nh c đến món phở của Sài Gòn. Nói phở Sài Gòn chứ không nói phở Nam Bộ, v không đâu ở miền Nam, món phở nhiều như ở Sài Gòn. Đi dần về miền Tây, người ta ít thấy phở hơn. Mặc dù món phở cũng có xuất phát từ miền B c, nhưng có lẽ người Sài Gòn ăn phở cũng nhiều không kém người dân Thăng Long. Từ rất lâu, Sài Gòn đ n i tiếng với các tiệm Phở Hoà, Phở Tàu bay. Gần đây, thương hiệu Phở 24 đưa món phở Việt Nam nhân rộng kh p các tỉnh thành trong nước và nhiều nước khác trên thế giới, mà xuất xứ của Phở 24 th lại là từ Sài Gòn, từ một chủ doanh 133 nghiệp người Sài Gòn. Ăn phở Sài Gòn khác nhiều so với phở B c, tuy r ng cách nấu đều từ xương bò ninh kĩ với củ hành nướng, gừng nướng nh m làm mất mùi gây gây của xương bò, cũng các loại gia vị như hoa hồi, quế, đinh hương... Thành phần và tỉ lệ gia vị có thay đ i khác nhau tuỳ công thức nấu của mỗi hàng quán. Dù vậy, trước hết là sự khác nhau về vị. Nước dùng phở của Nam Bộ dứt khoát phải thật đậm đà, là cái ngọt từ xương bò thật đầy đủ và được hầm đủ thời gian để nước có vị ngọt đậm. Gia vị ngoài vị mặn, ngọt của xương còn là vị ngọt của đường. Người Nam Bộ có thói quen ăn ngọt. Món canh, món xúp, món bún và tất nhiên cả món phở đều có đường. Tuy nhiên, độ ngọt của món ăn ở từng địa phương có khác nhau. Người Sài Gòn biết gia giảm vị mặn, vị ngọt sao cho cân b ng, để người thưởng thức chỉ cảm nhận vị ngon trong tô phở chứ không có cảm giác khó chịu v vị ngọt của đường. Tô phở miền Nam, ngoài tương đen và tương đỏ, còn phải được dọn chung với chanh tươi, ớt sừng tươi x t lát và các loại rau húng cây, húng quế, ngò gai. Nhiều tiệm phở miền Nam còn dọn chung với cả rau om. Giá tr ng hoặc giá sống và hành chần được thực khách gọi thêm, nhưng cũng là những thành phần hầu như không thể thiếu trong món phở. Tô phở ở miền Nam khi dùng có nhiều ph liệu như vậy, thế mà khi dùng, thực khách khi th còn gọi thêm chén tái, chén nước tiết, khi thì chén bò viên hay chén trứng nữa! Bên cạnh phở, người Nam Bộ từ lâu đ rất quen với các món bún. Bún miền Nam rất đa đạng từ món bún m m, bún nước l o chịu ảnh hưởng ẩm thực người hăm vùng Tây Nam Bộ, còn có các món bún giò heo, bún riêu, bún ốc, bún thịt nướng, bún nem, bún b ... Món bún riêu từ lâu đ rất quen với người dân Nam Bộ, với phần váng cua và màu đỏ cam của cà chua xào thơm với củ hành tím phi vàng. Tô bún riêu của người Nam Bộ tuy có xuất phát đầu tiên từ món bún riêu của miền B c, nhưng vào đến miền Nam, nó đ thay đ i rất nhiều. Món ăn Thăng Long th luôn có đặc tính thanh cảnh, thuần tuý n i bật vị của nguyên liệu chính trong đó. Vị là vị ngọt thanh, không đường, ít mặn, v vậy món bún riêu truyền thống của miền B c chỉ là nước và riêu cua đồng, ăn với bún, rau và m m tôm. Còn món bún riêu miền Nam th ngoài vị ngọt của cua đồng, nước dùng còn được nấu với sườn non để tăng độ ngọt đậm đà cho món ăn. Màu s c tô bún miền Nam tăng phần hấp dẫn nhờ cà chua xào lấy màu, thêm ít màu lấy từ loại hạt điều chuyên dùng tạo màu cho các món ăn. Nguyên liệu trong tô bún riêu miền Nam rất đa dạng, không chỉ là phần váng riêu trong tô bún mà còn thêm vài miếng đậu chiên, miếng huyết heo. Rau các loại và m m tôm th dầu là tô bún riêu miền B c hay ở miền Nam cũng đều gần như b t buộc phải có. ách chế biến món ăn của miền Nam đa dạng, phong phú nhưng vẫn giữ được hương vị truyền thống của món ăn. ách chế biến này gần đây cũng được nhiều người dân Thăng Long ưa chuộng, và có thể thấy qua món bún riêu của Hà Nội giờ cũng có thêm đậu, thêm huyết, có nơi còn thêm cả thịt bò tái, tôm tươi nữa. Tương tự như món bún riêu, món bún ốc của Nam Bộ cũng có xuất xứ từ món bún ốc truyền thống của miền B c, nhưng cách nấu của người miền Nam rất khác. Món bún ốc của miền B c cũng là vị ngọt và chua nhẹ của giấm b ng, không có chất béo v ốc được luộc chín và khêu lấy thịt cho vào bát bún. Nhưng món bún ốc vào miền Nam th được chế biến khác đi ít nhiều. Người miền Nam 134 không có thói quen dùng giấm b ng trong chế biến, v vậy, vị chua của giấm b ng được thay b ng vị của cà chua. Nếu muốn chua hơn th dùng thêm với nước me. Ốc th lấy thịt vào xào thật thơm rồi mới cho vào tô bún. Người miền Nam không bao giờ dùng nước luộc ốc để làm nước dùng. Nước dùng của bún ốc được sử d ng từ nước ngọt nấu từ cua và sườn heo của món bún riêu, v món bún ốc của Nam Bộ bao giờ cũng đi liền với bún riêu. Người dân Thăng Long vào Nam, ăn tô bún ốc và cho r ng nấu thế là không đúng, không có mùi giấm b ng, không thanh tao. Ngược lại, người Nam Bộ ra B c ăn bát bún ốc thanh cảnh đúng kiểu Thăng Long th lại cho là nhạt nhẽo, thiếu vị, thiếu béo. Trong lĩnh vực ẩm thực không thể quá cứng nh c, nhất là trong nhận xét và chế biến món ăn. Dù món ăn có xuất xứ từ Thăng Long, nhưng trải qua qu ng thời gian dài du nhập vào Nam, đ có biến đ i cho phù hợp khẩu vị, sở thích của người dân ở đây. V vậy có thể nhận xét là ngon hay không ngon, thích hay không thích chứ không thể đơn giản nói là đúng hay sai. Vị của món ăn đ khác nhau tùy theo thói quen ăn uống của từng địa phương, từng gia đ nh, v vậy cả trong cách chế biến cũng sẽ có sự khác biệt. Sự khác biệt này ngoài nguyên nhân chính xuất phát từ thói quen ăn uống, còn do điều kiện thiên nhiên, điều kiện x hội. Tính chất của các nguyên liệu thực phẩm ở mỗi địa phương cũng có sự khác biệt. Tất cả các yếu tố đó tạo nên nét đặc trưng cho từng món ăn của các vùng miền. Ngoài các loại bún nóng, khi ăn dùng với nước dùng nóng, Nam Bộ còn nhiều món bún dùng chung với nước m m, như món bún thịt nướng, bún chả giò, bún nem, bún chạo tôm, bún b , bún thịt bò xào... Trong đó món bún thịt nướng là món ăn có nhiều điểm tương đồng với món bún chả của người Hà Nội. Nói tương đồng vì chưa hẳn món bún thịt nướng là biến tấu từ món bún chả Hà Nội, v thực tế, cách dùng bún tươi với các loại thịt, nem, chạo, b với nước m m pha và rau sống rất ph biến đối với người Nam Bộ. ách ăn các món bún này cũng khác xa với món bún chả. Bún chả Hà Nội nguyên liệu chính là chả, tức thịt băm nhuy n, viên thành viên tròn, dẹp và nướng vàng thả vào bát nước chấm. Nước chấm được pha thật nhạt, nhạt đến mức hầu như không cảm giác vị mặn trong đó. Bún và rau, chủ yếu là các loại rau mùi được dọn riêng. Tất cả cho lên mâm nhỏ. Khi thưởng thức, người ta g p một ít bún và rau mùi, nhúng vào bát nước chấm có thả mấy miếng su hào ngâm chua. Món bún chả của Hà Nội ngoài chả còn là thịt nướng, v vậy trông có v rất giống món bún thịt nướng của Nam Bộ. Tuy nhiên, cách đây khoảng mười năm, nhiều người dân Nam Bộ có dịp ra Hà Nội thưởng thức món bún chả Hàng Mành, hầu như không thể cảm nhận được cái ngon của món ăn. Lí do duy nhất chỉ v loại nước chấm rất nhạt này. ó dịp dùng món bún thịt nướng Nam Bộ mới thấy sự khác biệt với món bún chả và sự và độc đáo trong món ăn này. Thịt nướng trong món ăn được ướp gia vị thật đậm đà, hài hoà giữa các vị ngọt, mặn, thơm. ó nơi người ta còn cho thêm ít m hoặc sả vào để khi nướng, thịt sẽ thơm ngon hơn. Trong món bún thịt nướng có đủ loại rau, nào là salad và các loại rau thơm x t nhỏ, một ít giá sống b g y đôi, và đặc biệt không thể thiếu dưa leo b m nhuy n. ác loại rau này được xếp một bên, bún một bên. Trên cùng là những miếng thịt nướng thơm phức. Như vậy cũng còn chưa đủ, trên cùng, người ta còn cho thêm ít mỡ hành xanh biếc, và một nhúm đậu phộng rang vàng nữa. Món 135 Bún thịt nướng của Nam Bộ, chưa ăn, chỉ nh n thấy cách bày trí, màu s c và mùi thơm cũng đ khiến người ta có cảm giác ngon miệng rồi. uối cùng là phần nước chấm. Người dân Nam Bộ rất coi trọng nước chấm trong các món ăn. Nước m m ăn bún thịt nướng phải đầy đủ vị ngọt, mặn vừa, chua nhẹ của chanh. Đặc biệt bên trên phải phủ đầy màu đỏ tươi của ớt băm nhuy n và những tép chanh mọng nước. hén nước m m cho món bún thịt nướng còn được làm phong phú hơn nhờ những sợi đồ chua là cà rốt, củ cải tr ng ngâm giấm đường thả vào, tạo nên vị chua, ngọt và độ giòn tan khi thưởng thức. 3. KẾT LUẬN Từng địa phương, sự khác biệt về đặc điểm địa lí, khí hậu, thời tiết tạo nên sự khan hiếm một số loại thực phẩm đặc biệt khi vùng miền này muốn thực hiện các món ăn ở vùng miền khác. V vậy, trong lĩnh vực ẩm thực, cần có sự biến hoá, thay đ i trong chế biến cũng như năng động trong việc sử d ng nguồn thực phẩm. Khi muốn giới thiệu với thực khách một món ăn truyền thống của địa phương nào đó, chẳng hạn món phở Hà Nội, món bún ốc, bún chả của miền B c, tốt nhất vẫn phải t m đúng nguồn nguyên liệu của địa phương đó. Ăn bún chả Hà Nội mà dùng với rau quế, húng cây của Sài Gòn th không thể cảm nhận được cái ngon của món ăn Hà Nội. Đó phải là lá tía tô, nhánh húng láng miền B c, ăn bún đậu th phải là miếng đậu non của Hà Nội, sợi bún của Hà Nội. òn khi chế biến các món ăn đó theo cách của miền Nam, phải cảm nhận được cái hồn trong con người Nam Bộ và có hiểu biết về bản s c văn hoá Nam Bộ. Ẩm thực là một phần quan trọng tạo nên văn hoá của một địa phương nói riêng và của đất nước nói chung. Trong việc hội nhập trào lưu phát triển kinh tế trong khu vực và quốc tế, một mặt cần tiếp nhận các nền văn hoá khác nhau, một mặt cần bảo tồn và phát triển những giá trị văn hoá truyền thống. Trong đó tăng cường giao lưu văn hoá ẩm thực giữa các miền hay các quốc gia là hướng phát triển văn hoá ẩm thực Việt Nam. Điều này góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế nước nhà, đồng thời là một yếu tố quan trọng thể hiện bộ mặt văn hoá của đất nước, thể hiện bản s c Việt Nam. Ngày nay, ngành dịch v du lịch phát triển, càng có nhiều nhà hàng, quán xá mọc lên với đủ loại h nh: sang trọng, lịch sự, b nh dân, với rất nhiều loại món ăn đặc sản của nhiều quốc gia, nhiều vùng miền khác nhau. Việc kinh doanh ăn uống không chỉ đơn thuần là kinh doanh mà còn là cơ hội nh m giới thiệu, giao lưu về văn hoá ẩm thực đến với mọi người dân trong nước cũng như b bạn năm châu bốn bể. Món ăn miền Nam bản thân nó đ mang tính t ng hợp, nay càng cần có sự biến hoá cho phù hợp với yêu cầu này. Sài Gòn là nơi quy t nhiều nét văn hoá ẩm thực trong nước (B c – Trung – Nam), ẩm thực nước ngoài (Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Pháp, Mĩ...), nhưng n i bật trong đó vẫn là ẩm thực Nam Bộ. Nguồn nguyên liệu khác nhau tạo ra những món ăn đặc trưng ở từng địa phương nhưng vẫn đảm bảo được những tinh hoa cũng như hương vị nguyên thuỷ của món ăn. Để thích nghi với hoàn cảnh chế biến, vừa đảm bảo tính chuyên nghiệp trong ph c v , đảm bảo an toàn thực phẩm, vệ sinh trong ăn uống, cách chế biến các món ăn ở từng vùng miền đ khác đi so với cách làm xa xưa nhưng vẫn phải đảm bảo được nét riêng của món ăn đó. 136 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguy n Thị Diệu Thảo, 2003, Giáo trình Món ăn Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội. 2. Nguy n Thị Diệu Thảo, 2003, Món ăn miền Nam được ưa chuộng, NXB Ph nữ. 3. Nguy n Thị Diệu Thảo, 2007, Giáo trình Văn hoá Ẩm thực Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội. 4. Trần Ngọc Thêm, 1997, Tìm về b n sắc Văn hoá Việt Nam, in lần thứ hai, NXB TP Hồ hí Minh.
File đính kèm:
- am_thuc_nam_bo_va_nhung_anh_huong_tu_am_thuc_thang_long_ha_n.pdf