Vì sao giá nhà đất ở đô thị tại nước ta cao ?
Giá nhà đất ở đô thị (GNĐƠĐT) có ý nghĩa quan trọng trong việc mua nhà ở ổn định cuộc sống của phần lớn cộng đồng dân cư, nhưng thực tế GNĐƠĐT nước ta luôn duy trì ở mức cao vượt qua khả năng chi trả của đại đa số cư dân đô thị. Do vậy nhận diện chính xác những yếu tố tác động đến GNĐƠĐT luôn là thách thức đối với các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách
Qua việc tổng hợp và phân tích các cơ sở dữ liệu luật liên quan đến quản lý đất đai và thị trường bất động sản từ 1993 đến nay, kết hợp với phân tích cơ sở lý luận về thẩm định giá. Nghiên cứu của tác giả đã nhận diện rằng GNĐƠĐT ở nước ta tăng cao có hai nguyên nhân trực tiếp tác động, đó là phát sinh những bất cập trong việc thay đổi cách tính tiền sử dụng đất và chi phí sử dụng vốn cho dự án đầu tư vào bất động sản rất cao. Dựa trên phân tích những bất cập làm cho GNĐƠĐT tăng, tác giả đề xuất 4 kiến nghị nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong các văn bản pháp quy, tìm giải pháp giảm GNĐƠĐT tiệm cận với khả năng chi trả của cộng đồng, góp phần phát triển công tác an sinh xã hội
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vì sao giá nhà đất ở đô thị tại nước ta cao ?
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 1 (11) - Tháng 11/2011 Nghiên cứu & Trao đổi 54 4 kiến nghị nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong các văn bản pháp quy, tìm giải pháp giảm GNĐƠĐT tiệm cận với khả năng chi trả của cộng đồng, góp phần phát triển công tác an sinh xã hội. 1. Đặt vấn đề GNĐƠĐT nước ta được đánh giá rất cao so với các nước trong khu vực, nghịch lý cho thấy mặc dầu thị trường nhà đất từ 2008 đến nay trong giai đoạn trầm lắng nhưng GNĐƠĐT vẫn tăng. Giá cao đã vượt qua khả năng chi trả của đa số cộng đồng dân cư có nhu cầu về nhà ở, bài toán an sinh xã hội của Chính phủ trở nên khó giải quyết. Có nhiều nguyên nhân để lý giải hiện tượng trên nhưng theo nghiên cứu của tác giả trọng tâm tập trung ở hai vấn đề chính, là do các bất cập trong cách tính tiền sử dụng đất và chi phí sử dụng vốn của các doanh nghiệp đầu tư vào dự án quá cao. Giá nhà đất ở đô thị (GNĐƠĐT) có ý nghĩa quan trọng trong việc mua nhà ở ổn định cuộc sống của phần lớn cộng đồng dân cư, nhưng thực tế GNĐƠĐT nước ta luôn duy trì ở mức cao vượt qua khả năng chi trả của đại đa số cư dân đô thị. Do vậy nhận diện chính xác những yếu tố tác động đến GNĐƠĐT luôn là thách thức đối với các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách. Qua việc tổng hợp và phân tích các cơ sở dữ liệu luật liên quan đến quản lý đất đai và thị trường bất động sản từ 1993 đến nay, kết hợp với phân tích cơ sở lý luận về thẩm định giá. Nghiên cứu của tác giả đã nhận diện rằng GNĐƠĐT ở nước ta tăng cao có hai nguyên nhân trực tiếp tác động, đó là phát sinh những bất cập trong việc thay đổi cách tính tiền sử dụng đất và chi phí sử dụng vốn cho dự án đầu tư vào bất động sản rất cao. Dựa trên phân tích những bất cập làm cho GNĐƠĐT tăng, tác giả đề xuất TS. NGUYỄN NGỌC VINH Khoa Kinh tế phát triển Trường Đại học Kinh tế TP. HCM − Giá sản phẩm nhà đất − Tiến bộ khoa học kỹ thuật trong xây dựng − Giá các yếu tố đầu vào − Chính sách (thuế, tín dụng, quy hoạch) − Thủ tục hành chính − Tâm lý − Số lượng doanh nghiệp tham gia thị trường − Giá sản phẩm nhà, đất − Thu nhập của dân cư − Tập quán, thị hiếu − Chính sách (thuế, tín dụng, quy hoạch) − Thủ tục hành chính − Tâm lý − Quy mô dân số Giá nhà đất ở đô thị Các yếu tố tác động đến cầu Các yếu tố tác động đến cung Số 1 (11) - Tháng 11/2011 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Nghiên cứu & Trao đổi 55 2. Cơ sở lý luận Theo quan điểm kinh tế học GNĐƠĐT hình thành từ quan hệ cung cầu của chúng trên thị trường, mà cung cầu thị trường chịu tác động bởi rất nhiều yếu tố như giá của sản phẩm nhà đất, các chính sách của cơ quan quản lý, tâm lý, thu nhập, giá các yếu tố đầu vào, số lượng chủ thể tham gia thị trường Qua sơ đồ ta thấy chính sách thuế, tín dụng, quy hoạch và thủ tục hành chính đều tác động lên cung và cầu thị trường nhà đất ở, những chính sách này đều do các cơ quan nhà nước ban hành các văn bản quản lý. Trong phạm vi nghiên cứu tác giả tập trung vào việc phân tích các chính sách thuế, tín dụng và thủ tục hành chính tác động lên GNĐƠĐT. 3. Các quy định có liên quan đến tiền sử dụng đất, giá trị thị trường và giá trị phi thị trường Tiền sử dụng đất là số tiền mà người được giao đất phải nộp vào ngân sách khi được nhà nước trao quyền sử dụng và chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Điều 17 Hiến pháp sửa đổi 1992 có quy định: Đất đai và các tài nguyên quan trọng khác thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước là chủ sở hữu đại diện và thống nhất quản lý. Năm 1993 Luật đất đai sửa đổi công nhận các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê; từ đó thị trường đất đai ở nước ta bắt đầu chính thức hoạt động. Khi nhà nước giao đất cho các tổ chức, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài, họ có quyền chuyển nhượng, chuyển đổi mục đích sử dụngthì phải nộp tiền sử dụng đất, số tiền này được xem là khoản thu ngân sách khi nhà nước giao đất. Như vậy về cơ sở lý luận tiền sử dụng đất hình thành trên 2 nội dung: phí chuyển quyền sử dụng đất và phí chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Theo tiêu chuẩn số 1 trong Quyết định số 24/2005 do Bộ Tài Chính ban hành ngày 18/4/2005 về giá trị thị trường (market value) làm cơ sở thẩm định giá được hiểu như sau: Giá trị thị trường là mức giá thể hiện bằng tiền giữa bên mua sẵn lòng mua và bên bán sẵn lòng bán, giao dịch thực hiện trong điều kiện khách quan, độc lập, thị trường ổn định và thông tin minh bạch. Theo tiêu chuẩn số 2 trong Tiêu chuẩn thẩm định giá VN từ Quyết định 77/2005 do Bộ Tài chính ban hành 1/11/2005 về Giá trị phi thị trường (non-market value): Giá trị phi thị trường là mức giá được xác định theo căn cứ khác không dựa trên giá trị thị trường hoặc được giao dịch theo mức giá không phản ánh giá trị thị trường. Có thể hiểu rằng nếu thẩm định giá trị lô đất mà căn cứ trên các chứng cứ giao dịch từ thị trường có tính khách quan, độc lập, thông tin minh bạch và thị trường ổn định là thẩm định theo giá trị thị trường. Nếu căn cứ trên các ý kiến chủ quan và căn cứ khác (lợi ích riêng) thì thẩm định theo giá trị phi thị trường. 4. Những bất cập Khi vận dụng các cơ sở lý luận nêu trên trong thực tiễn đã phát sinh những bất cập. Những bất cập liên quan đến cách tính tiền sử dụng đất. Việc tính tiền sử dụng đất khi nhà nước giao đất cho doanh nghiệp có thu tiền sử dụng đất được quy định trong nhiều văn bản pháp quy ở nước ta, trong nghiên cứu tác giả đã thống kê và chia ra làm 2 giai đoạn: + Giai đoạn 1 bao gồm các văn bản: Nghị định 38/2000/NĐ-CP ngày 23/08/2000 về thu tiền sử dụng đất Thông tư 115/2000/TT-BTC ngày 11/12/2000 hướng dẫn thi hành Nghị định số 38/2000/NĐ- CP ngày 23/08/2000 về thu tiền sử dụng đất Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất Nghị định 198/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về thu tiền sử dụng đất Thông tư 117/2004/TT-BTC ngày 11/12/2004 hướng dẫn thi hành Nghị định số 198/2000/NĐ- CP ngày 03/12/2004 về thu tiền sử dụng đất. + Giai đoạn 2 bao gồm các văn bản: Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27.1.2006 về sửa đổi bổi sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật đất đai. Thông tư 70/2006/TT-BTC Hướng dẫn sửa đổi, bổ sung Thông tư 117/2004/TT-BTC Nghị định 123/2007/NĐ-CP ngày 22/7/2007 sửa đổi Nghị định 188/2004/NĐ-CP về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất Nghị định 44/2008/NĐ-CP ngày 09/04/2008 sửa đổi, bổ sung Nghị định 198/2004/NĐ-CP về thu tiền sử dụng đất Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 về bổ sung quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ tái định cư. Nghị định 120/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 sửa đổi bổ sung PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 1 (11) - Tháng 11/2011 Nghiên cứu & Trao đổi 56 1 số điều Nghị định 198/2004/NĐ- CP về thu tiền sử dụng đất Thông tư 93/2011/TT-BTC ngày 29/06/2011 sửa đổi bổ sung Thông tư 117/2004/TT-BTC ngày 11/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 198/2000/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về thu tiền sử dụng đất. Trong giai đoạn 1 từ Nghị định 38/2000 đến Thông tư 117/2004 có cách tính tiền sử dụng đất giống nhau, cụ thể như trong Nghị định 38, điều 4, mục 2 có quy định: “Giá đất tính bằng đồng VN trên một mét vuông (đồng/m2) theo khung giá do Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định theo khung giá các loại đất của Chính phủ” Mô hình công thức tính tiền sử dụng đất theo khung nhà nước trong giai đoạn 1: (1) Trong đó: Như vậy trước Nghị định 17/2006 tiền sử dụng đất khi nhà nước giao đất được tính trên khung giá Ủy ban Nhân dân tỉnh (thành phố) ban hành tại thời điểm được giao đất. Tuy nhiên trong giai đoạn 2 từ Nghị định 17/2006 cho đến Thông tư 93/2011 đều có cùng nội dung mới trong cách tính tiền sử dụng đất cụ thể như điều 1, mục 1 khoản 1.4.và 1.5 Thông tư 93 có quy định: “Giá đất tính thu tiền sử dụng đất là giá đất do Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh quy định. Trường hợp giá đất do Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh quy định chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường để quyết định giá đất cụ thể cho phù hợp”. Mô hình công thức tính tiền sử dụng đất theo giá trị thị trường trong giai đoạn 2. (2) Trong đó: : Giá bình quân 1 m2 đất ở theo thị trường Các bất hợp lý trong cách tính tiền sử dụng đất theo quy định mới. * Phí sử dụng đất tăng đột biến tạo gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp đầu tư. Từ 1 và 2 ta thấy rằng sự khác biệt trong cách tính là thay khung giá đất ở mà Ủy ban Nhân dân tỉnh (thành phố) quy định như trước đây bằng giá đất ở theo thị t rường . Vì trước 2006 thường tiệm cận với giá , thấp hơn rất nhiều so v ớ i do vậy tiền sử dụng đất là khoản chi chấp nhận đối với doanh nghiệp đầu tư. Nếu tính như quy định mới thì phí sử dụng đất sẽ là khoản phí đầu vào tăng thêm rất lớn, điều này sẽ dẫn đến hai hệ lụy: buộc doanh nghiệp sẽ chuyển chi phí đầu vào trên vào giá thành sản phẩm và kết quả cuối cùng là GNĐƠĐT sẽ tăng cao. Thứ hai là giảm dần số lượng doanh nghiệp tham gia thị trường tạo điều kiện cho các tập doàn, công ty nước ngoài có cơ hội thôn tính thị trường bất động sản nước ta. * Không được hoàn lại khi đền bù cao hơn mức giá quy định. Khi lập phương án đền bù giải phóng mặt bằng, doanh nghiệp đầu tư dự án chỉ được tính theo mức giá đền bù phê duyệt mức giá này thường xoay q u a n h khung giá đất nông nghiệp được ban hành, trong khi doanh nghiệp dưới cơ chế tự giải phóng mặt bằng phải trả cho người sử dụng đất, mức giá tiệm cận với giá thị trường trong bài viết gọi là giá đất đền bù thực tế thông thường cao h ơ n rất nhiều so v ớ i . Nhưng khi tính tiền sử dụng đất khoảng chênh lệch trên không được hoàn trả lại. Mô hình công thức tính chênh lệch giá đền bù: (3) Trong đó : Tổng số tiền chênh lệch từ tiền đền bù đất theo cách tính mới. : Đơn giá 1 m2 đất ở bình quân đền bù thực tế Lý giải vì sao cơ quan thuế không chấp nhận mức giá đền bù thực tế? bởi vì sợ doanh nghiệp kê khống tiền đền bù nhằm giảm phí khi đóng tiền sử dụng đất. Trong thực tế người nhận tiền đền bù luôn hướng tới mức giá thị trường thậm chí còn có tính đến cả yếu tố dự kiến lợi ích của lô đất trong tương lai khi chuyển từ đất nông nghiệp sang đất ở. Xét trên quan điểm lý luận thì cách tính tiền sử dụng đất mới không hợp lý vì đáng lẽ tất cả đại lượng trong hàm phải đồng nhất theo giá trị thị trường hoặc theo giá : Tiền sử dụng đất : Giá bình quân 1 m2 đất ở do UBND quy định : Diện tích đất kinh doanh : Giá bình quân 1 m2 đất ở đền bù theo phê duyệt : Diện tích đất dự án DA Đ PD ĐB KD Đ QĐ ĐSDĐ xDTGxDTGT −= SDĐT QĐ ĐG KD ĐDT PD ĐBG DA ĐDT DA Đ PD ĐB KD Đ TT ĐSDĐ xDTGxDTGT −= TT ĐG QĐ ĐG TT ĐG QĐ ĐG PD ĐBG TT ĐG PD ĐBG TT ĐBG PD ĐBG Đ PD ĐB TT ĐBCL DTGGT )( −=∑ CLT∑ TT ĐBG Số 1 (11) - Tháng 11/2011 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Nghiên cứu & Trao đổi 57 trị phi thị trường. Nhưng trong công thức 2 thì bao gồm cả hai, khi thu tiền sử dụng đất thì tính theo giá trị thị trường còn khấu trừ thì tính theo giá đền bù do nhà nước quy định chính là giá trị phi thị trường. Doanh nghiệp sẽ chịu thiệt phần chênh lệch tiền đền bù thực tế theo công thức 3, vì không được cấn trừ vào tiền sử dụng đất. Số tiền chênh lệch này nhiều hay ít phụ thuộc vào mức độ chênh lệch giữa giá đền bù thực tế với giá đền bù phê duyệt và quy mô diện tích dự án. Qua tham khảo thực tế mức chênh lệch có thể từ 50 - 90% vô hình chung doanh nghiệp phải trả trên mỗi đơn vị diện tích đất dự án gấp 1,5 đến 1,9 lần so với giá trị thị trường. Khi giá trị chênh lệch đền bù cao dẫn đến GNĐƠĐT cao là điều không tránh khỏi. Vì lợi ích riêng doanh nghiệp đầu tư dự án với một số cá nhân trong chính quyền địa phương hoặc ban bồi thường sẽ “bắt tay” ép người dân bị thu hồi đất nhận tiền đền bù theo giá thấp, hệ lụy số lượt và tính chất khiếu kiện liên quan đến đền bù đất đai có nguy cơ ngày càng nhiều và phức tạp hơn, gây bức xúc trong dư luận xã hội. * Thu phí sử dụng đất trên toàn bộ diện tích đất trong dự án. Tổng diện tích đất dự án bất động sản bao gồm hai phần: phần diện tích kinh doanh và phần diện tích dành cho hạ tầng của dự án thể hiện qua công thức: (4) Trong đó: : Diện tích đất dành cho hạ tầng Vì văn bản Luật không quy định rõ trong dự án phát triển nhà ở phần diện tích dành cho hạ tầng nào phải đóng và phần diện tích nào miễn đóng tiền sử dụng đất? Do vậy các cơ quan thuế thông thường tính hầu hết phần diện tích đất dự án vào phí sử dụng đất. Mà tỷ lệ diện tích đất hạ tầng chiếm từ 40% trong tổng cơ cấu diện tích đất của dự án, việc đóng phí sử dụng đất trên hầu hết phần diện tích hạ tầng sẽ tăng chi phí đầu vào của doanh nghiệp và hệ lụy làm cho GNĐƠĐT tăng cao và không khuyến khích doanh nghiệp dành diện tích cho hạ tầng nhiều hơn góp phần tăng giá trị cảnh quan, môi trường đô thị. * Hoàn toàn bị động trong kế hoạch tài chính - Giá trị thị trường trong điều kiện bình thường là khung giá được tính khi thu tiền sử dụng đất, nhằm xác định giá thị trường cần phải thẩm định, hơn nữa thị trường luôn biến động do vậy sẽ làm cho doanh nghiệp đầu tư dự án bất động sản hoàn toàn bị động trong kế hoạch tài chính, một khâu rất quan trọng trong cho sự thành công của dự án. Chi phí sử dụng vốn rất cao. * Vướng mắc truyền thống. Thủ tục hành chính vấn đề có tính “truyền thống” vì đã được đề cập rất nhiều trên các diễn đàn, hội thảo nhưng vẫn có tính thời sự cho đến ngày nay. Mặc dầu cơ quan quản lý đã có nhiều cải thiện, nhưng cơ chế một cửa vẫn chưa thực sự thông thoáng trong việc giải quyết các vướng mắc cho doanh nghiệp. Thủ tục hành chính rườm rà, do nhiều cơ quan quản lý và sự phân cấp quản lý chưa rõ ràng, dẫn đến thời gian triển khai dự án kéo dài khoảng 3 năm (nguồn: Báo cáo của Hiệp hội bất động sản TP.HCM - 2010), chi phí sử dụng vốn càng tăng, khả năng sinh lợi dự án càng thấp, GNĐƠĐT sẽ bị đẩy lên theo hướng “bù giá” là điều tất nhiên. * Và khó khăn phi truyền thống. Chính sách thắt chặt tín dụng tác động mạnh mẽ lên thị trường bất động sản, và lãi suất vay rất cao như hiện nay là các khó khăn “phi truyền thống” không những tác động rất mạnh lên sự tăng GNĐƠĐT mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường bất động sản, sự tồn vong của nhiều doanh nghiệp tham gia thị trường. Bởi vì đầu tư kinh doanh bất động sản cần rất nhiều tiền và phần lớn được sự tài trợ từ hệ thống ngân hàng, điều này trong giai đoạn hiện nay là không khả thi. Đành rằng chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát là chủ trương cần thiết và đúng đắn trong giai HT Đ KD Đ DA Đ DTDTDT += HT ĐDT PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 1 (11) - Tháng 11/2011 Nghiên cứu & Trao đổi 58 đoạn hiện nay, nhưng không vì thế mà cho rằng mọi hoạt động liên quan đến bất động sản là lĩnh vực phi kinh doanh nên không cho vay, vì vẫn có những dự án tốt, không những có lợi cho doanh nghiệp mà cho cả cộng đồng và nhà nước góp phần cải thiện môi trường, cảnh quan, an sinh xã hội Dự án bất động sản thường sử dụng vốn trong dài hạn (> 5 năm) những khoản nợ cũ được ngân hàng điều chỉnh lãi suất lên đến 22 - 25% năm hoặc cao hơn làm chi phí sử dụng vốn tăng rất cao. Và doanh nghiệp sẽ chuyển chi phí trên vào giá thành sản phẩm hệ lụy là GNĐƠĐT tăng cao. Minh họa về sự tăng chi phí sử dụng vốn do thủ tục hành chính kéo dài và chi phí sử dụng vốn cao. Giả định chủ đầu tư vay ngân hàng số tiền 100 tỷ đồng phục vụ cho việc đền bù dự án, lãi suất cho vay bình quân: 22% năm. (Giả thuyết chủ đầu tư vay toàn bộ số tiền trên dành cho dự án). Từ đây có thể tính được một số kết quả: Qua bảng trên cho thấy chi phí sử dụng vốn cho các dự án bất động sản trong 3 năm tăng trên 80% nếu 4 năm tăng 121,5% đây là chỉ số đáng quan ngại, tác động rất mạnh đến sự tăng GNĐƠĐT nước ta trong giai đoạn qua có nguyên nhân từ lãi suất cao và sự ách tắt trong khâu thủ tục hành chính. 5. Kiến nghị Theo quan điểm của tác giả nhà nước nên tính tiền sử dụng đất theo công thức 1 tức là theo khung giá Ủy ban Nhân dân tỉnh (thành phố) ban hành hàng năm, nhưng khung giá đất sẽ có lộ trình điều chỉnh tiệm cận với giá trị thị trường (từ 70% - 80% ) và cố định trong năm. Điều này sẽ phù hợp với cơ sở lý luận trong cách tính vì đồng nhất tính theo giá trị phi thị trường, cơ quan thuế dễ dàng tác nghiệp, hồ sơ không bị ách tắc chờ thẩm định, hạn chế tiêu cực trong khâu thẩm định và tái thẩm định, giúp cho các doanh nghiệp đầu tư trong nước giảm chi phí đầu vào, và doanh nghiệp có thể chủ động kế hoạch tài chính cho dự án trong điều kiện khó khăn về tín dụng như hiện nay. Chúng ta nên có quy định rõ ràng hơn về phần diện tích dành cho hạ tầng nào cần đóng tiền sử dụng và phần nào miễn thu, nhằm khuyến thích cho doanh nghiệp tăng phần diện tích hạ tầng, cảnh quan, giao thông cho dự án góp phần tôn tạo cảnh quan môi trường đô thị. Quy định cụ thể lĩnh vực nào có thể tiếp cận nguồn tín dụng trong giai đoạn hiện nay nhằm duy trì nguồn vốn hỗ trợ sự phát triển của thị trường. Tiếp tục thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, rà soát những quy định chồng chéo bất lợi cho các chủ thể tham gia thị trường. Tóm lại GNĐƠĐT nước ta rất cao có nguyên nhân trực tiếp từ việc tính tiền sử dụng đất còn nhiều bất cập, chi phí sử dụng vốn tăng cao do lãi suất vay rất cao và thủ tục hành chính rườm rà. Tất cả các yếu tố này đều trong sự quản lý nhà nước, nếu chính sách đưa ra chưa phù hợp thì cần phải điều chỉnh, nhằm gỡ rối cho các doanh nghiệp, cho thị trường mang lại lợi ích chung cho cộng đồng, góp phần xây dựng thị trường bất động sản ngày càng ổn định và phát triển hơn tạo điều kiện cho GNĐƠĐT có giá trị thực của nó theo quy luật của thị trường chứ không bị bóp méo từ những chính sách chưa phù hợpl Tài liệu tham khảo Nguyễn Ngọc Vinh, Nguyễn Quỳnh Hoa, (2011), Giáo trình Thẩm định giá trị bất động sản, trang 37-38; 42-47 Đề tài nghiên cứu khoa học (2010): Thị trường bất động sản TP.HCM – Thực trạng và giải pháp phát triển. Chủ nhiệm: TS. Nguyễn Ngọc Vinh. Trang web Bộ Tài chính www.mof.gov.vn Trang web Bộ Tài nguyên môi trường www. monre.gov.vn Trang web Bộ Xây dựng: www.moc.gov.vn Điều 4, mục 2 Nghị định 38/2000/NĐ-CP ban hành ngày 23/08/2000 về Thu tiền sử dụng đất Điều 1, mục 1, khoản 1.4,1.5 của Thông tư 93/2011/TT-BTC ngày 29/06/2011 sửa đổi bổ sung Thông tư 117/2004/TT-BTC ngày 11/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 198/2000/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về thu tiền sử dụng đất. Nội dung Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm 4 Số tiền phải trả NH vào cuối năm (FV) tỷ VND 122 148,84 181,585 221,533 Tỷ lệ tăng của chi phí sử dụng vốn theo vốn vay ban đầu, % 22 48,84 81,58 121,53
File đính kèm:
- vi_sao_gia_nha_dat_o_do_thi_tai_nuoc_ta_cao.pdf