Vai trò của hình thái địa hình đối với mưa lớn ở vùng Bắc Trung Bộ và sự phân hóa giữa Bắc và Nam Đèo Ngang

Những năm gần đây, dải ven biển Trung Bộ

Việt Nam trong đó có Bắc Trung Bộ (BTB) liên

tục phải hứng chịu rất nhiều thiên tai do thời tiết

khí hậu bất lợi, trong đó có thiên tai do mưa lớn.

Mưa lớn sinh lũ lụt, lũ ống, lũ quét làm sạt lở

đường sá, bờ sông, gây ngập lụt nhà cửa, ruộng,

vườn, hoa màu của người dân, hủy hoại các công

trình công cộng, làm biến đổi môi trường tự nhiên,

môi trường sống, ảnh hưởng đến các hoạt động

kinh tế của cả một khu vực rộng lớn

Vai trò của hình thái địa hình đối với mưa lớn ở vùng Bắc Trung Bộ và sự phân hóa giữa Bắc và Nam Đèo Ngang trang 1

Trang 1

Vai trò của hình thái địa hình đối với mưa lớn ở vùng Bắc Trung Bộ và sự phân hóa giữa Bắc và Nam Đèo Ngang trang 2

Trang 2

Vai trò của hình thái địa hình đối với mưa lớn ở vùng Bắc Trung Bộ và sự phân hóa giữa Bắc và Nam Đèo Ngang trang 3

Trang 3

Vai trò của hình thái địa hình đối với mưa lớn ở vùng Bắc Trung Bộ và sự phân hóa giữa Bắc và Nam Đèo Ngang trang 4

Trang 4

Vai trò của hình thái địa hình đối với mưa lớn ở vùng Bắc Trung Bộ và sự phân hóa giữa Bắc và Nam Đèo Ngang trang 5

Trang 5

Vai trò của hình thái địa hình đối với mưa lớn ở vùng Bắc Trung Bộ và sự phân hóa giữa Bắc và Nam Đèo Ngang trang 6

Trang 6

Vai trò của hình thái địa hình đối với mưa lớn ở vùng Bắc Trung Bộ và sự phân hóa giữa Bắc và Nam Đèo Ngang trang 7

Trang 7

Vai trò của hình thái địa hình đối với mưa lớn ở vùng Bắc Trung Bộ và sự phân hóa giữa Bắc và Nam Đèo Ngang trang 8

Trang 8

Vai trò của hình thái địa hình đối với mưa lớn ở vùng Bắc Trung Bộ và sự phân hóa giữa Bắc và Nam Đèo Ngang trang 9

Trang 9

pdf 9 trang viethung 2920
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của hình thái địa hình đối với mưa lớn ở vùng Bắc Trung Bộ và sự phân hóa giữa Bắc và Nam Đèo Ngang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của hình thái địa hình đối với mưa lớn ở vùng Bắc Trung Bộ và sự phân hóa giữa Bắc và Nam Đèo Ngang

Vai trò của hình thái địa hình đối với mưa lớn ở vùng Bắc Trung Bộ và sự phân hóa giữa Bắc và Nam Đèo Ngang
 38 
34(1), 38-46 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 3-2012 
VAI TRÒ CỦA HÌNH THÁI ĐỊA HÌNH ĐỐI VỚI 
MƯA LỚN Ở VÙNG BẮC TRUNG BỘ VÀ 
SỰ PHÂN HÓA GIỮA BẮC VÀ NAM ĐÈO NGANG 
NGUYỄN KHANH VÂN 
Email: ngkhvan@gmail.com 
Viện Địa lý - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
Ngày nhận bài: 20 - 6 - 2011 
1. Mở đầu 
Những năm gần đây, dải ven biển Trung Bộ 
Việt Nam trong đó có Bắc Trung Bộ (BTB) liên 
tục phải hứng chịu rất nhiều thiên tai do thời tiết 
khí hậu bất lợi, trong đó có thiên tai do mưa lớn. 
Mưa lớn sinh lũ lụt, lũ ống, lũ quét làm sạt lở 
đường sá, bờ sông, gây ngập lụt nhà cửa, ruộng, 
vườn, hoa màu của người dân, hủy hoại các công 
trình công cộng, làm biến đổi môi trường tự nhiên, 
môi trường sống, ảnh hưởng đến các hoạt động 
kinh tế của cả một khu vực rộng lớn. 
Nghiên cứu điều kiện hoàn lưu khí quyển và 
các tác nhân gây mưa lớn ở vùng BTB đã được 
tổng kết trong một số nghiên cứu [3, 5-7]. Hình thế 
thời tiết (HTTT) gây mưa lớn ở đây là bão, áp thấp 
nhiệt đới (ATNĐ), hội tụ nhiệt đới (HTNĐ), hội tụ 
kinh hướng (HTKH), không khí lạnh (KKL), và 
hoạt động đồng thời hoặc gối tiếp nhau của tổ hợp 
hai hoặc ba HTTT đó. 
Sự cộng hưởng của hình thái địa hình (HTĐH) 
khu vực với các tác nhân gây mưa nêu trên, để hình 
thành “một miền Trung bão, lũ” rất điển hình, cho 
đến nay chỉ mới được đề cập đến trên những nét 
khái quát, tổng thể. Dọc theo bờ biển miền Trung, 
với chế độ mưa “thu đông”, xuất hiện liên tục 
những đợt mưa lớn và rất lớn do vai trò của địa thế 
dải Trường Sơn ở phía tây, sự chuyển hướng 
đường bờ biển ở phía đông, cũng như vị thế khá 
đặc biệt của các nhánh núi chạy ra sát biển (đèo 
Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cả, đèo Cù Mông,) 
cho đến nay vẫn còn cần được nghiên cứu tiếp. 
Tiếp theo bài báo “Nguyên nhân và quy luật 
của thời tiết mưa lớn, mưa lớn trái mùa vùng BTB 
(giai đoạn 1987-2006)” [6], bài báo này trình bày 
kết quả nghiên cứu về vai trò của HTĐH trong sự 
gia tăng các đợt mưa lớn, mưa rất lớn ở BTB và sự 
phân hóa về mưa lớn giữa các khu vực Bắc và 
Nam đèo Ngang. 
2. Lãnh thổ, dữ liệu và phương pháp nghiên cứu 
2.1. Lãnh thổ nghiên cứu 
BTB là một vùng khá rộng lớn, bao gồm 6 tỉnh: 
Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, 
Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế, có diện tích tự 
nhiên là 51.524,6km², dân số năm 2010 là 10.092,9 
nghìn người (chiếm 11,61% dân số cả nước). 
BTB nổi tiếng nhiều thiên tai mưa lớn, bão lũ, 
điều kiện khí hậu khắc nghiệt, là khu vực có điều 
kiện kinh tế - xã hội khó khăn, khả năng phòng 
chống thiên tai thấp kém hơn các khu vực khác. 
Điểm nổi bật của địa hình BTB là dải Trường Sơn 
trấn giữ ở phía tây, phía đông là biển, dốc và 
nghiêng từ tây bắc xuống đông nam, không gian 
hẹp, nơi rộng nhất khoảng 200km, nơi hẹp nhất 
chưa tới 50km (hình 1). 
Không như những vùng khí hậu khác ở nước ta 
(Tây Bắc, Đông Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ, Tây 
Nguyên, Nam Bộ) với chế độ mưa mùa hè, chủ yếu 
do gió mùa Tây Nam, BTB và Nam Trung Bộ có 
chế độ mưa do gió mùa Đông Bắc chi phối là chính 
[1]. Do sự kết hợp giữa các tác nhân gây mưa và 
địa hình, địa thế khu vực, mùa mưa ở BTB bao 
 39
gồm mùa mưa Tiểu mãn (từ giữa tháng V đến 
tháng VI) và mùa mưa chính vụ (từ tháng VIII đến 
tháng XI, XII). Trong mùa mưa chẳng những tổng 
lượng mưa cao, số ngày mưa nhiều mà còn tập 
trung rất nhiều ngày mưa lớn (≥ 50mm/ngày) và 
mưa rất lớn (≥ 100mm/ngày) thành từng đợt. 
Hình 1. Địa hình lãnh thổ Bắc Trung Bộ
2.2. Cơ sở dữ liệu và phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu vai trò của HTĐH các khu vực với 
mưa lớn ở BTB đã sử dụng: 
+ Các dữ liệu trắc lượng hình thái địa hình 
vùng BTB trên bản đồ địa hình, tỷ lệ 1:250.000: 
hướng sơn văn, độ cao trung bình của đường đỉnh, 
độ dài của các dãy núi, độ chia cắt sâu, đặc điểm địa 
hình, hướng đường bờ các khu vực ven biển (nơi tiếp 
xúc đầu tiên của các khối khí nóng ẩm từ biển vào). 
+ Các số liệu khí hậu bao gồm: số liệu thống kê 
phân loại tần suất hoạt động của các HTTT gây 
mưa lớn trên vùng BTB, giai đoạn 1987-2006 [8] 
và các số liệu lượng mưa ngày (tích lũy 24 giờ) của 
các trạm khí tượng, điểm đo mưa (cũng trong giai 
đoạn trên). 
QĐ Hoàng Sa. 
QĐ Trường Sa. 
 40 
Các phương pháp được sử dụng để nghiên cứu 
mưa lớn với HTĐH khu vực là: 
- Phương pháp thống kê phân loại khí tượng 
synop: phân tích các bản đồ synop về các HTTT và 
tổ hợp các HTTT gây mưa lớn; phân loại, thống kê 
tần suất hoạt động của các HTTT gây mưa lớn và 
tổ hợp của chúng. 
- Phương pháp thống kê khí hậu: phân tích diễn 
biến, thời gian kéo dài của các đợt mưa lớn, xác 
định phạm vi không gian ảnh hưởng của các đợt 
mưa lớn. 
- Phương pháp hình thái địa hình: nghiên cứu 
định tính (mô tả diện mạo) và định lượng (đo đạc, 
phân tích các thông số trắc lượng - hình thái) địa 
hình, vì HTĐH có ý nghĩa quan trọng đối với sự 
phân bố lại vật chất và năng lượng tự nhiên (trong 
đó có nguồn năng lượng của mưa - mưa lớn) trên 
bề mặt Trái Đất. 
- Phương pháp phân loại địa lý - hình thái: 
Phân loại địa lý - HTĐH các khu vực với những 
đặc điểm sơn văn, hướng sườn, thế núi, hướng 
đường bờ biển, trong mối tương tác với hướng 
chuyển động của các HTTT gây mưa lớn, nhằm 
xác định các khu vực có tiềm năng mưa lớn và 
mưa rất lớn. 
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 
3.1. Đặc điểm HTĐH và tiềm năng sinh mưa lớn 
ở Bắc Trung Bộ 
Trong nghiên cứu vai trò của HTĐH đối với mưa 
lớn vùng BTB, trước tiên cần phân tích hai nhóm yếu 
tố sau: 
- Nhóm địa hình cấu trúc có ảnh hưởng lớn đến sự 
hình thành các khu vực mưa lớn, bao gồm hướng sơn 
văn (độ cao địa hình, hướng, tính liên tục của các dãy 
núi, độ cao trung bình đường phân thủy) và đặc điểm 
hình thái các dãy núi chính. 
- Nhóm địa hình mặt đệm có những ảnh hưởng
nhất định đối với sự tương tác khối khí - địa hình, bao 
gồm mức độ chia cắt sâu, chia cắt ngang, hình thái 
các lưu vực sông, hình thái các kiểu đồng bằng và 
hướng đường bờ biển. 
Hướng sơn văn: Dải Trường Sơn với hướng  ... i cồn cát ven biển cao 5-10m 
Kiểu đồng bằng hẹp (10-20km) ở Bình Trị Thiên, Dải 
cồn cát cao 10-50m và một dải đầm phá ven biển lớn 
nhất cả nước (dài 70km, rộng ≈ 10km, sâu ≈ 10m) 
Hướng đường bờ Đường bờ biển phía đông chạy chủ yếu theo 
hướng bắc nam 
Đường bờ biển phía đông chủ yếu theo hướng 
tây bắc - đông nam 
Tóm lại, trên một không gian khoảng 4 vỹ độ 
địa lý, các khu vực BĐN và NĐN có những khác 
biệt chính về HTĐH sau: 
- Ở BĐN các dãy núi thuộc Trường Sơn cao 
hơn ở NĐN. 
- Khu vực BĐN vùng đồi núi có phân cắt sâu 
nhỏ hơn so với NĐN. 
- Ở BĐN các lưu vực sông lớn và mở rộng hơn, 
trong khi ở NĐN các lưu vực sông hẹp, ngắn 
và dốc. 
- BĐN có đồng bằng ven biển rộng hơn so với 
NĐN. 
- Những cồn cát ven biển ở BĐN thấp hơn so với 
ở NĐN. 
- Hướng đường bờ của BĐN là B-N, của NĐN là 
TB-ĐN. 
Phân hóa của các hình thế thời tiết gây mưa 
lớn và tần số mưa lớn 
Mưa lớn và rất lớn trên diện rộng là hệ quả 
tương tác giữa hoạt động của các HTTT gây mưa 
có tính hệ thống với điều kiện địa hình khu vực. 
 43
Việc phân chia vùng nghiên cứu thành hai khu vực 
như trên vừa phân tích là cần thiết, các khu vực 
đựợc phân chia này một mặt phải “đủ rộng” để 
không làm “mờ nhạt” tính hệ thống của bản thân 
hiện tượng, mặt khác cũng “không thể quá hẹp”, đủ 
để “làm sáng tỏ” được tính khác biệt của tác nhân 
HTĐH trên từng khu vực. 
Theo các kết quả nghiên cứu về mưa lớn đã 
được tiến hành [4, 6] với các tiêu chí để xác định 
mưa lớn và mưa rất lớn1 được đề xuất trong 
[Nguyễn Khanh Vân (chủ biên), 2009, kết quả 
phân loại và thống kê số đợt mưa lớn và tần suất 
xuất hiện trong mối liên hệ với các HTTT gây mưa 
lớn ở vùng BTB được thể hiện trong bảng 3. 
Bảng 3. Thống kê số đợt mưa lớn và tần suất xuất hiện theo các HTTT ở BĐN và NĐN, giai đoạn 1987-2006 
Tổng số đợt mưa lớn Tần suất các đợt mưa lớn (%) 
STT Hình thế thời tiết 
BĐN NĐN BĐN NĐN 
1 Bão hoặc ATNĐ 12 13 17,9 11,7 
2 HTNĐ 20 17 29,8 15,3 
3 KKL 7 41 10,4 37,0 
4 XT hoặc RT và gió SE; HTKH: Dải thấp, vùng thấp phía tây, 14 20 20,9 18,0 
5 Bão (hoặc ATNĐ) và KKL - 7 - 6,3 
6 HTNĐ và Bão (hoặc ATNĐ) 13 10 19,5 9,0 
7 HTNĐ và KKL 1 3 1,5 2,7 
Tổng số 67 111 100 100 
* Nguồn: Nguyễn Khanh Vân (chủ biên), 2009 
Thống kê đồng thời các số liệu mặt đất và 
synop về mưa lớn qua 20 năm (1987-2006) cho 
thấy những khác biệt như sau: 
- Về các HTTT gây mưa lớn: ở BĐN chỉ có 6 
loại HTTT gây mưa lớn, trong khi ở NĐN có đủ cả 
7 loại HTTT, ở BĐN qua 20 năm chưa quan sát 
thấy đợt mưa lớn nào liên quan đến tổ hợp thời tiết 
bão (hoặc ATNĐ) và KKL. 
- Về tổng số đợt mưa lớn và tần suất xuất hiện 
của từng loại HTTT gây mưa lớn: tổng số đợt mưa 
lớn ở BĐN là 67, trong khi ở NĐN là 111 đợt (gấp 
1,66 lần so với BĐN). Nói cách khác, nếu như hàng 
năm ở BTB có khoảng 3, 4 đợt mưa lớn/năm thì ở 
NĐB số đợt mưa lớn tăng lên đáng kể, lên đến 5,6 
đợt/năm. 
- Ở cùng một thời kỳ 1987-2006, trong lúc số 
lượng các HTTT số 1, số 2, số 6 giữa hai khu vực 
khác nhau không nhiều thì HTTT mưa lớn do KKL 
có sự gia tăng đột suất ở phía nam vùng BTB. Đã có
 41 đợt mưa lớn do KKL ở NĐN so với 7 đợt ở BĐN. 
Điều này cho thấy ở khu vực NĐN vai trò của mưa 
lớn do KKL đã gia tăng một cách đáng kể, đáng được 
phân tích kỹ hơn sau đây. 
Mưa lớn do hoạt động của KKL sau các frông 
lạnh: 
Các đợt xâm nhập KKL theo hướng TB-ĐN, 
với sự tiềm ẩn của các tác nhân gây mưa bên trong, 
với vai trò hội tụ các khối không khí ở khu vực 
frông lạnh là nguyên nhân chính gây mưa và mưa 
lớn mỗi khi có KKL tràn về. Tuy nhiên, nếu chỉ 
đơn thuần có thế, mưa và mưa lớn do KKL sẽ 
thường thấy hơn ở BĐN, và sẽ yếu dần, giảm dần 
khi đến NĐN. Trên thực tế, số liệu thống kê số đợt 
mưa lớn do KKL lại cho thấy những khác biệt rõ 
ràng, cụ thể: 7 đợt ở BĐN/41 đợt ở NĐN. Điều này 
cho thấy rõ vai trò chủ đạo của những phân hóa 
HTĐN ở NĐN là nhân tố quyết định gây mưa địa 
hình, làm gia tăng đột biến số đợt mưa lớn lên gấp 
gần 6 lần so với ở BĐN. 
1Mưa lớn: lượng mưa ≥50mm/ngày, kéo dài từ 2 ngày trở lên, diện mưa chiếm ≥ 50% số trạm trong khu vực. 
1Mưa rất lớn: lượng mưa ≥100mm/ngày, kéo dài từ 2 ngày trở lên, diện mưa chiếm ≥ 50% số trạm trong khu vực. 
 44 
Trên cơ sở số liệu mưa ngày của 19 trạm quan 
trắc mưa (giai đoạn 1987-2006) đã xác định được 41 
đợt mưa lớn do KKL, vị trí địa lý, giá trị trung bình 
trận của những đợt mưa lớn này được thể hiện trong 
bảng 4, bản đồ phân bố lượng mưa trung bình trận 
do hoạt động của KKL được trình bày trên hình 3. 
Bảng 4. Lượng mưa trung bình mỗi đợt mưa lớn (mm) do KKL khu vực NĐN (1987-2006) 
STT Trạm Kinh độ Vỹ độ Độ cao (m) 
Lượng 
mưa đợt STT Trạm Kinh độ Vỹ độ 
Độ cao 
(m) 
Lượng 
mưa đợt
1 Tuyên Hóa 106°01’ 17°53’ 25 68 10 Mai Hóa 106°11’ 17°48’ - 59 
2 Đồng Tâm 106°06’ 17°50’ 222 64 11 Đông Hà 107°05’ 16°50’ 4 207 
3 Ba Đồn 106°25’ 17°45’ 8 64 12 Khe Sanh 106°50’ 16°38’ 367 76 
4 Đồng Hới 106°36’ 17°29’ 7 93 13 Phú Ốc 107°28’ 16°32’ - 236 
5 NT Trường Sơn - - - 110 14 Huế 107°35’ 16°24’ 17 259 
6 NTViệtTrung 106°19’ 17°27’ - 101 15 Bình Điền 107°29’ 16°21’ - 230 
7 Lệ Thủy 106°48’ 17°14’ - 139 16 Kim Long 107°19’ 16°16 - 194 
8 Cẩm Ly 106°39’ 17°12’ - 168 17 A Lưới 107°15’ 16°13’ 550 271 
9 Kiên Giang 106°45’ 17°07’ - 151 18 Nam Đông 107°43’ 16°10’ 15 295 
 19 Thượng Nhật 107°41’ 16°07’ - 232 
Hình 3. Bản đồ phân bố lượng mưa trung bình trận do hoạt động của 41 đợt KKL Nam Đèo Ngang (thu từ tỷ lệ 
1:250.000) [Nguyễn Khanh Vân (chủ biên), 2009] 
Dãy Hoành Sơn – Đèo Ngang 
Dãy Bạch Mã - Đèo Hải Vân 
 45
Số liệu thống kê tổng lượng mưa trung bình 
trận do hoạt động của 41 đợt KKL cho thấy, lượng 
mưa lớn trung bình trận dao động trong phạm vi rất 
lớn, từ khoảng trên dưới 60mm/trận đến xấp xỉ 
300mm/trận. 
Bản đồ phân bố tổng lượng mưa trung bình trận 
do hoạt động của KKL cho thấy vai trò của địa 
hình trong sự hình thành các khu vực mưa lớn ở 
mức thấp (trên dưới 60mm/trận) như Ba Đồn, 
Đồng Tâm - phía sau dãy Hoành Sơn cũng như các 
khu vực mưa lớn ở mức cao (200-300mm/trận) - 
Nam Đông, đèo Hải Vân-phía trước dãy Bạch Mã. 
Mưa lớn do các HTTT liên quan đến KKL: 
Mưa lớn do các HTTT có liên quan đến KKL bao 
gồm các HTTT: số 3 - hoạt động của KKL (sau các 
frông lạnh), số 5 - hoạt động của tổ hợp thời tiết bão 
(hoặc ATNĐ) và KKL, và số 7 - hoạt động của tổ 
hợp thời tiết HTNĐ và KKL. Bảng 5 dưới đây thống 
kê số đợt mưa lớn và tần suất xuất hiện của các HTTT 
liên quan đến 3 HTTT trên. 
Bảng 5. Số đợt mưa lớn và tần suất xuất hiện các 
HTTT liên quan đến hoạt động của KKL ở BĐN và 
NĐN, giai đoạn 1987-2006 
Tổng số đợt 
mưa lớn 
Tần suất các đợt 
mưa lớn (%) Hình thế thời tiết 
BĐN NĐN BĐN NĐN 
Các HTTT mưa lớn 
liên quan đến hoạt 
động của KKL 
8 51 11,9 45,9 
Các HTTT mưa lớn 
còn lại 59 60 88,1 54,1 
Tổng số 67 111 100 100 
Qua số liệu bảng 5 chúng ta thấy nếu như mưa 
lớn có liên quan đến KKL ở BĐN chỉ là 8/67 đợt 
(chiếm 11,9% tổng số đợt), thì ở NĐN tỷ số này là 
51/111đợt (chiếm tới 45,9% tổng số đợt). Nói cách 
khác, gần nửa số đợt mưa lớn ở NĐN là do thời tiết 
KKL hoặc do tổ hợp KKL với bão (hoặc ATNĐ) 
và KKL với HTNĐ gây nên. 
Sự khác biệt rõ nét về đặc điểm HTĐH của NĐN 
so với BĐN như đã nêu ở trên (bảng 1) là nguyên 
nhân chính, làm tăng lên đáng kể số đợt mưa lớn ở 
đây. Nói một cách khác, những đặc điểm HTĐH khu 
vực (hướng sơn văn, đặc điểm hình thái những dãy 
núi chính, hướng của đường bờ,) đã phát huy tác 
dụng cộng hưởng một cách tối đa, làm cho số lượng, 
tần suất mưa lớn ở NĐN tăng lên rõ rệt. 
4. Kết luận 
Mối quan hệ giữa mưa và điều kiện địa hình là 
một thực tế hiển nhiên, có thật, được lý giải có cơ sở 
khoa học và mô tả chi tiết trong các giáo trình khí 
tượng học, địa lý học, Sự chuyển dịch mùa mưa 
từ hè sang thu đông và sự gia tăng đáng kể của 
lượng mưa ở các khu vực bờ đông của lục địa Châu 
Á được lý giải do hệ quả tương tác giữa hoàn lưu 
gió mùa mùa đông châu Á và địa hình bờ biển gây 
nên. Tuy nhiên, trên thực tế mối quan hệ này rất 
phức tạp và nó lại được làm phức tạp thêm bởi điều 
kiện HTĐH ở từng khu vực cụ thể. Mưa lớn và rất 
lớn là những hiện tượng thời tiết mang tính hệ 
thống, khi xuất hiện ở BTB thời tiết đặc biệt này 
lại được cộng hưởng thêm bởi vai trò phân dị vừa 
có tính hệ thống (các hệ thống núi) vừa có tính khá 
cục bộ, địa phương (các dãy núi đơn lẻ) của HTĐH 
khu vực. 
Kết quả phân loại, thống kê các số liệu mưa mặt 
đất và các số liệu cao không về các HTTT gây mưa 
lớn, kết hợp đồng thời với phân tích tương tác mưa 
lớn-đặc điểm HTĐH các khu vực BTB cho thấy 
trong 7 loại HTTT gây mưa lớn, ở NĐN với đặc 
điểm HTĐH thuận lợi hơn cho hình thành mưa 
(hướng sơn văn, đặc điểm hình thái các dãy núi 
chính, hướng đường bờ biển,...), mưa lớn do KKL 
đơn thuần, hoặc do KKL và các HTTT khác (có liên 
quan đến KKL) đã chiếm một tỷ trọng rất cao 
(45,9%) so với tất cả các HTTT còn lại. 
Kết quả nghiên cứu, phân tích đồng thời mưa lớn 
và địa hình như trên một mặt đã phác họa một cách 
chân thực hơn đặc điểm chế độ mưa ven biển BTB, 
mặt khác cũng cho thấy sự tăng lên rõ rệt các đợt mưa 
lớn ở NĐN (gấp 1,66 lần so với BĐN) chủ yếu là do 
hoạt động của KKL và tác nhân địa hình. Kết quả 
nghiên cứu này vừa thiết thực cho công tác dự báo 
mưa, mưa lớn ở BTB, vừa có ý nghĩa tham khảo đối 
với các khu vực khác của dải ven biển Trung Bộ. 
Sự xáo trộn nhiệt ẩm, hội tụ động lực, gia tăng 
dòng thăng do tác động của địa hình là nguyên nhân 
chủ yếu gây nên sự gia tăng mưa lớn đối với các tỉnh 
Trung Bộ. Kết quả nghiên cứu cụ thể trên cho thấy 
cách tiếp cận nghiên cứu thiên tai do mưa lớn của địa 
lý khí hậu là hợp lý và độc đáo. Có thể kỳ vọng rằng 
những nghiên cứu tương tự ở các khu vực thuộc Nam 
Trung Bộ chắc chắn sẽ mang lại nhiều kết quả bổ ích 
và lý thú. 
Công trình được hoàn thành trong khuôn khổ của 
đề tài cấp viện KHCN Việt Nam [Nguyễn Khanh 
Vân (chủ biên), 2009: Nghiên cứu nguyên nhân và 
quy luật hoạt động của thời tiết mưa lớn sinh lũ lụt, 
 46 
“mưa lớn trái mùa” - cảnh báo và đề xuất các giải 
pháp phòng tránh giảm nhẹ thiên tai ở Bắc Trung 
Bộ Việt Nam], hướng “Phòng tránh giảm nhẹ thiên 
tai”, thực hiện trong các năm 2008-2009. 
TÀI LIỆU DẪN 
[1] Nguyễn Đức Ngữ, Nguyễn Trọng Hiệu, 
1985: Phân vùng Khí hậu Việt Nam. Sách Chuyên 
khảo, Tổng cục KTTV, Hà Nội. 
[2] Yêu Trẩm Sinh, 1960: Nguyên lý Khí hậu 
học (Tập 2), bản dịch từ tiếng Trung của Vũ Văn 
Minh, Phạm Quang Trường. Nxb. Nha Khí tượng, 
Hà Nội. 
[3] Lê Văn Thảo, 2000: Mưa lớn ở các tỉnh 
miền Trung do tác động không khí lạnh với nhiễu 
động sóng đông trong đới gió đông cận nhiệt đới. 
Tuyển tập báo cáo hội nghị “Khoa học, công nghệ 
dự báo phục vụ dự báo khí tượng thủy văn”, Hà 
Nội 26 - 27/12/2000. Tổng cục KTTV. 
[4] Nguyễn Khanh Vân, 2002: Tính đa dạng và 
phức tạp trong cơ chế mùa mưa ở dải ven biển Việt
 Nam. Tạp chí Các khoa học về Trái Đất, T.24, 3, 
tr.209-215. 
[5] Nguyễn Khanh Vân, Bùi Minh Tăng, 2003: 
Đặc điểm các hình thế thời tiết gây mưa, lũ, lụt lớn 
và đặc biệt lớn ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, 
Thừa Thiên - Huế. Tạp chí Các Khoa học về Trái 
Đất số đặc biệt kỷ niệm 10 năm thành lập Viện Địa 
lý, T.25, 4, tr.339-345. 
[6] Nguyễn Khanh Vân, Bùi Minh Tăng, 2004: 
Đặc điểm hình thế thời tiết gây mưa, lũ, lụt lớn và 
đặc biệt lớn ở các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà 
Tĩnh, thời kỳ 1997 - 2001. Tạp chí Các Khoa học 
về Trái Đất, T.26, 1, tr.50-59. 
[7] Nguyễn Khanh Vân, Đỗ Lệ Thủy, 2009: 
Nguyên nhân và quy luật của thời tiết mưa lớn, 
“mưa lớn trái mùa” vùng Bắc Trung Bộ (giai đoạn 
1987-2006). Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, 
T.31, 3, tr.279-286. 
[8] Рамедж К., 1976: Метеорология 
муссонов. Перевод с английского на русский 
язык. Гидрометеоиздат. Ленинград. 
SUMMARY 
Role of topo-geographical conditions of Northern Central Region Vietnam and the difference of heavy rains between North and 
South Ngang Pass 
Following the article “Causes and the occurring rule of heavy rain unusual heavy rain” in North Central of Vietnam [Journal of 
Sciences of the Earth T.31, N°3/2009], this paper will present the reseach results of the resonant impacts of topo-geographic conditions 
in difference of heavy rains between North and South Ngang Pass. 
Base on the weather situation maps, daily rainfall data over North Central territory (1987-2006), frequencies of heavy rains 
occurrence corresponding to 7 types of Synoptic Weather Situation (SWS) - major factor leading to heavy rain - have been analyzed and 
evaluated. The results of analysing simultaneously topo-geographic conditions of NNP (Northern Ngang Pass) and SNP (Sourthen Ngang 
Pass) territories together with SWS show that: 
- For the heavy rain caused purely by cold air mass (CAM): in NNP, there are only 7 waves (equivalent 10.4% of total number of 
SWS), while in SNP, there are 41 waves (occupied 37% of total number of SWS). 
- For the heavy rain caused by CAM and combination of CAM and other SWS: in NNP, there are 8 waves (11.9% of total number of 
SWS), while in SNP, 51 waves (accounts for 45,9%). 
- The differences in topo-geographic condition of SNP, especially the directions of mountain ranges, characteristics of major mountain 
ranges, as well as the directions of coast line, are the main reason leading to the increasing convergence and increasing the number of 
heavy rains clearly. 
- The study of heavy rains and topo-geographical conditions will be a source of valuable information, contributing to more precisely 
forecast of heavy rains in the areas of Northern Central Region of Vietnam 
The above approach of geographic climatology to examine the topo-geographical conditions and heavy rains is a new and 
reasonable approach. It allows to solve the natural disaster problem more effective and more useful. This special approach can be applied 
to similar researches in areas of Southern Central Region of Vietnam. 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_hinh_thai_dia_hinh_doi_voi_mua_lon_o_vung_bac_tr.pdf