Ứng dụng x quang cắt lớp vi tính trong đánh giá mối tương quan giữa kích thước mạch máu gan với các yếu tố tuổi, giới tính và dạng giải phẫu

Kiến thức giải phẫu mạch máu gan đóng vai trò

quan trọng trong thực hành lâm sàng không chỉ đối với

các phẫu thuật viên chuyên ngành gan mật tụy mà còn

cho những bác sĩ chẩn đoán hình ảnh và các bác sĩ can

thiệp nội mạch. Trong những năm gần đây, phẫu thuật

gan mật và các phương pháp can thiệp nội mạch trong

những trường hợp ung thư tế bào gan, xơ gan đã đạt

được nhiều tiến bộ vượt bậc đặc biệt là kỹ thuật ghép

gan trên người cho gan còn sống [1], [2]. Tất cả các

kỹ thuật trên đòi hỏi sự nhận biết tường tận và chính

xác về giải phẫu mạch máu gan trước khi tiến hành can

thiệp, nhằm hạn chế tối đa nguy cơ chảy máu trong mổ

cũng như các tai biến, biến chứng sau mổ. Hơn nữa,

còn giúp lựa chọn người cho gan phù hợp nhất trong kỹ

thuật ghép gan cũng như tiên lượng được độ phức tạp

của các cuộc phẫu thuật. Vì vậy, việc thiết lập một “bản

đồ mạch máu gan” nay đã trở thành một bước không

thể thiếu trước các phẫu thuật hay thủ thuật can thiệp

vào vùng gan mật [3]. Nhiều phương pháp được lựa

chọn như nghiên cứu trên xác, chụp mạch kỹ thuật số

xóa nền (Digital subtraction angiography) và chụp cộng

hưởng từ (CHT) đã được đề cập nhiều trong các nghiên

cứu trong và ngoài nước [4], [5]. XQCLVT sử dụng các

máy thế hệ mới đa dãy đầu dò, đang ngày càng được

ứng dụng rộng rãi với những ưu điểm như không xâm

lấn, thời gian chụp nhanh, giá thành rẻ so với DSA và

CHT, đặc biệt sự ra đời của các phần mềm xử lý hình

ảnh giúp tạo ra hệ mạch máu gan đẹp và rõ nét

Ứng dụng x quang cắt lớp vi tính trong đánh giá mối tương quan giữa kích thước mạch máu gan với các yếu tố tuổi, giới tính và dạng giải phẫu trang 1

Trang 1

Ứng dụng x quang cắt lớp vi tính trong đánh giá mối tương quan giữa kích thước mạch máu gan với các yếu tố tuổi, giới tính và dạng giải phẫu trang 2

Trang 2

Ứng dụng x quang cắt lớp vi tính trong đánh giá mối tương quan giữa kích thước mạch máu gan với các yếu tố tuổi, giới tính và dạng giải phẫu trang 3

Trang 3

Ứng dụng x quang cắt lớp vi tính trong đánh giá mối tương quan giữa kích thước mạch máu gan với các yếu tố tuổi, giới tính và dạng giải phẫu trang 4

Trang 4

Ứng dụng x quang cắt lớp vi tính trong đánh giá mối tương quan giữa kích thước mạch máu gan với các yếu tố tuổi, giới tính và dạng giải phẫu trang 5

Trang 5

Ứng dụng x quang cắt lớp vi tính trong đánh giá mối tương quan giữa kích thước mạch máu gan với các yếu tố tuổi, giới tính và dạng giải phẫu trang 6

Trang 6

Ứng dụng x quang cắt lớp vi tính trong đánh giá mối tương quan giữa kích thước mạch máu gan với các yếu tố tuổi, giới tính và dạng giải phẫu trang 7

Trang 7

Ứng dụng x quang cắt lớp vi tính trong đánh giá mối tương quan giữa kích thước mạch máu gan với các yếu tố tuổi, giới tính và dạng giải phẫu trang 8

Trang 8

Ứng dụng x quang cắt lớp vi tính trong đánh giá mối tương quan giữa kích thước mạch máu gan với các yếu tố tuổi, giới tính và dạng giải phẫu trang 9

Trang 9

pdf 9 trang minhkhanh 3900
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng x quang cắt lớp vi tính trong đánh giá mối tương quan giữa kích thước mạch máu gan với các yếu tố tuổi, giới tính và dạng giải phẫu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng x quang cắt lớp vi tính trong đánh giá mối tương quan giữa kích thước mạch máu gan với các yếu tố tuổi, giới tính và dạng giải phẫu

Ứng dụng x quang cắt lớp vi tính trong đánh giá mối tương quan giữa kích thước mạch máu gan với các yếu tố tuổi, giới tính và dạng giải phẫu
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 38 - 06/202038
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
ỨNG DỤNG X QUANG CẮT LỚP VI TÍNH 
TRONG ĐÁNH GIÁ MỐI TƯƠNG QUAN 
GIỮA KÍCH THƯỚC MẠCH MÁU GAN 
VỚI CÁC YẾU TỐ TUỔI, GIỚI TÍNH VÀ 
DẠNG GIẢI PHẪU
Multi-detector computed tomography for 
assessment the correlation between dimensions 
of hepatic vessels and factors of aging, gender 
and anatomy variants
Nguyễn Thị Thanh Thiên*, Phạm Đăng Diệu**,
Phạm Ngọc Hoa***, Võ Tấn Đức*, Cao Trọng Văn****
Objective: The study aimed to determine the correlation between 
dimensions of hepatic vessels (including hepatic arteries, portal and 
hepatic veins) and aging, gender and anatomical variants factors, using 
multidetector computed tomography (MDCT).
Design: We conducted a retrospective study of 611 adults (344 
Male, 277 Female, mean age 55.0 ± 13.1 years), who were clinically 
examined and underwent abdominal MDCT with iodinated contrast agents 
for different complaints at the University Medical Center between August 
2017 and August 2018. MDCT images were stored on the picture archiving 
and communication system (PACS) and processed to create multiplanar 
reformation (MPR), curved planar reformation (CPR), maximum intensity 
projection (MIP), volume rendering (VR) images which were subsequently 
used to measure the length and diameter of hepatic arteries, portal, and 
hepatic veins. Also to determine the correlation between dimensions of 
hepatic vessels and aging, gender and anatomical variants factors.
Results: The average diameter of common hepatic artery in the 
variant group was smaller than in the normal group. The length of common 
hepatic artery increased with age (P<0.05). There was a strong correlation 
(R = 0.77, P <0.05 ) for the diameters between the common hepatic and 
proper hepatic arteries. The diameters of main portal vein, right portal 
vein and left portal vein decreased with age (P<0.05). The male group had 
diameters of hepatic artery and portal vein greater than the female one. 
There is no correlaton between the dimension of hepatic veins and some 
factors of anatomy, age and gender.
Conclusions: MDCT might be considered a safe and accurate 
imaging modality with high sensitivity in assessing the correlation 
between dimensions of hepatic vessels and the factors of age, gender and 
anatomical variants. 
* Bệnh viện ĐHYD TP. HCM. 
** Trường Đại học Y khoa 
Phạm Ngọc Thạch
*** Hội CĐHA TP.HCM
**** Bệnh viện Ung Bướu 
TP.HCM
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 38 - 06/2020 39
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Kiến thức giải phẫu mạch máu gan đóng vai trò 
quan trọng trong thực hành lâm sàng không chỉ đối với 
các phẫu thuật viên chuyên ngành gan mật tụy mà còn 
cho những bác sĩ chẩn đoán hình ảnh và các bác sĩ can 
thiệp nội mạch. Trong những năm gần đây, phẫu thuật 
gan mật và các phương pháp can thiệp nội mạch trong 
những trường hợp ung thư tế bào gan, xơ gan đã đạt 
được nhiều tiến bộ vượt bậc đặc biệt là kỹ thuật ghép 
gan trên người cho gan còn sống [1], [2]. Tất cả các 
kỹ thuật trên đòi hỏi sự nhận biết tường tận và chính 
xác về giải phẫu mạch máu gan trước khi tiến hành can 
thiệp, nhằm hạn chế tối đa nguy cơ chảy máu trong mổ 
cũng như các tai biến, biến chứng sau mổ. Hơn nữa, 
còn giúp lựa chọn người cho gan phù hợp nhất trong kỹ 
thuật ghép gan cũng như tiên lượng được độ phức tạp 
của các cuộc phẫu thuật. Vì vậy, việc thiết lập một “bản 
đồ mạch máu gan” nay đã trở thành một bước không 
thể thiếu trước các phẫu thuật hay thủ thuật can thiệp 
vào vùng gan mật [3]. Nhiều phương pháp được lựa 
chọn như nghiên cứu trên xác, chụp mạch kỹ thuật số 
xóa nền (Digital subtraction angiography) và chụp cộng 
hưởng từ (CHT) đã được đề cập nhiều trong các nghiên 
cứu trong và ngoài nước [4], [5]. XQCLVT sử dụng các 
máy thế hệ mới đa dãy đầu dò, đang ngày càng được 
ứng dụng rộng rãi với những ưu điểm như không xâm 
lấn, thời gian chụp nhanh, giá thành rẻ so với DSA và 
CHT, đặc biệt sự ra đời của các phần mềm xử lý hình 
ảnh giúp tạo ra hệ mạch máu gan đẹp và rõ nét. 
Trong khi nhiều nơi trên thế giới đã công bố các 
công trình nghiên cứu giải phẫu mạch máu gan bằng 
XQCLVT [6], [7], [8], [9], các nghiên cứu ở Việt Nam về 
vấn đề này vẫn còn hạn chế. Trên cơ sở đó, chúng tôi 
tiến hành nghiên cứu nhằm xác định các số đo chiều 
dài, đường kính mạch máu gan bao gồm hệ ĐMG, TMC 
và TMG. Song song đó chúng tôi cũng đánh giá mối 
tương quan giữa các chỉ số kích thước trên với các yếu 
tố tuổi, giới tính và dạng giải phẫu.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
Nghiên cứu hồi cứu, cắt ngang mô tả với cỡ mẫu 
tối thiểu tính theo công thức xác định tỷ lệ trong cộng 
đồng là 544. Bệnh nhân được nhận vào mẫu nghiên 
cứu thỏa các tiêu chuẩn sau: người Việt Nam trưởng 
thành (tuổi > 18), được chụp XQCLVT vùng bụng có 
tiêm thuốc tương phản với kỹ thuật động học (gồm thì 
động mạch và tĩnh mạch), chụp với máy CT đa dãy đầu 
dò (MDCT) 64 hoặc 128 dãy đầu dò. Tiêu chuẩn loại trừ 
là những trường hợp có bệnh lý gan mật như xơ gan, 
ung thư tế bào gan, ung thư đường mật, tắc mật cùng 
các bệnh nhân có tiền sử phẫu thuật vùng gan mật tụy. 
Thuốc tương phản sử dụng tương phản 1,5 - 2ml. Hệ 
thống bơm tiêm tự động 2 nòng 18-20G, đường truyền 
tĩnh mạch, tốc độ là loại không ion hóa với áp lực thẩm 
thấu thấp, nồng độ 300 tới 350 ng/ml. Liều thuốc bơm 
3 - 4ml/s. Từ dữ liệu hình ảnh được lưu trữ trên hệ 
thống PACS Carestream, sử dụng các chương trình xử 
lý mạch máu chuyên dụng trên phần mềm PACS Vue 
Motion bao gồm kỹ thuật tái tạo đa mặt phẳng (MPR), 
tái tạo cấu trúc cong (MPR), hướng cường độ tối đa 
(MIP) và tạo hình ba chiều (VR) để phân tích và thu 
thập số liệu. Tất cả dữ liệu khảo sát được thực hiện bởi 
một người, kiểm tra độ tin cậy bởi người thứ hai là một 
bác sĩ chẩn đoán hình ảnh với trên 5 năm kinh nghiệm. 
Các số liệu được thu nhận qua bảng thu thập số liệu, 
sau đó lưu trữ và quản l ...  khác biệt có ý nghĩa thống kê theo giới 
về chiều dài TMC chính (p>0,05). Bên cạnh đó, chúng 
tôi xác định được đường kính trung bình TMC chính 
đối với nam là 14,2 ± 1,8mm và nữ là 13,0 ± 1,7mm. 
Đường kính của TMC chính của nam giới lớn hơn nữ 
giới (p<0,001).
Bảng 4. Kích thước tĩnh mạch cửa trái
Các chỉ số kích thước Trung bình (mm) Nhỏ nhất (mm) Lớn nhất (mm) p
Chiều dài
Nam (n=334) 23,2 ± 4,1 6,8 39,1
p >0,05
Nữ (n=277) 23,1 ± 4,1 10,5 42,7
Tổng (n=611) 23,2 ± 4,1 6,8 42,7
Đường kính
Nam (n=334) 11,1 ± 1,9 6,9 21,4
p < 0,001
Nữ (n=277) 10,3 ± 1,5 7,1 15,1
Tổng (n=611) 10,7 ± 1,7 6,9 21,4
Chiều dài trung bình của TMC trái là 23,2 ± 4,1mm, 
nhỏ nhất 6,8mm, lớn nhất 42,7mm. Không có sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê chiều dài TMC trái theo giới 
(p>0,05). Ngược lại, có sự khác biệt giữa đường kính 
TMC trái theo giới, cụ thể đường kính ở nam giới lớn 
hơn nữ giới (p<0,001).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 38 - 06/202042
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 5. Kích thước tĩnh mạch cửa phải
Trung bình (mm) Nhỏ nhất (mm) Lớn nhất (mm) p
Chiều dài
Nam (n=277) 21,7 ± 4,3 6,3 35,9
p > 0,05
Nữ (n=237) 20,8 ± 3,9 8,4 33,4
Tổng (n=514) 21,3 ± 4,1 6,3 35,9
Đường kính
Nam (n=277) 12,0 ± 1,7 7,6 19,4
p < 0,001
Nữ (n=237) 10,8 ± 1,5 7,5 14,8
Tổng (n=514) 11,4 ± 1,7 7,5 19,4
514 trường hợp trong nghiên cứu chúng tôi có 
dạng phân chia giải phẫu TMC thuộc nhóm 1 (dạng giải 
phẫu bình thường). Chúng tôi đo được chiều dài trung 
bình của TMC phải là 21,3 ± 4,1mm, đường kính trung 
bình 11,4 ± 4,7mm. Tương tự như TMC trái, chúng tôi 
tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về đường 
kính TMC phải theo giới, đường kính mạch máu này ở 
nam lớn hơn nữ (p<0,001). 
Hệ tĩnh mạch gan
Bảng 6. Kích thước các tĩnh mạch gan
Trung bình (mm) Nhỏ nhất (mm) Lớn nhất (mm) p
Tĩnh mạch gan trái
Nam (n=334) 7,7 ± 2,1 2,1 14,3
p>0,05
Nữ (n=277) 7,5 ± 2,2 2,0 13,4
Tổng (n=611) 7,7 ± 2,2 2,0 14,3
Tĩnh mạch gan giữa
Nam (n=334) 7,4 ± 1,9 2,1 13,0
p > 0,05
Nữ (n=277) 7,3 ± 1,9 2,5 13,3
Tổng (n=611) 7,4 ± 1,9 2,1 13,3
Tĩnh mạch gan phải
Nam (n=334) 8,9 ± 2,4 3,0 17,2
p > 0,05
Nữ (n=277) 8,9 ± 2,5 2,2 17,7
Tổng (n=611) 8,9 ± 2,5 2,2 17,7
Hệ TMG bao gồm TMG trái, TMG giữa và TMG 
phải dẫn lưu máu đổ về TM chủ dưới. Vì các TM này 
có đường đi rất thay đổi nên chúng tôi không thể dựng 
được hình ảnh tái tạo chi tiết toàn bộ chiều dài của 
ba TMG này. Do đó, chúng tôi chỉ tiến hành đo đường 
kính tại gốc của các TMG, kết quả nghiên cứu cho 
thấy đường kính trung bình của TMG trái và TMG giữa 
tương đương nhau (9,2 ± 2,2mm và 9,2 ± 2,1mm) trong 
khi đường kính của TMG phải lớn hơn (11,4 ± 2,5mm). 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về đường 
kính các TMG giữa hai nhóm nam, nữ (p>0,05).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 38 - 06/2020 43
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tương quan giữa kích thước hệ ĐMG, TMC, 
TMG với dạng phân chia giải phẫu
Đường kính ĐMG chung ở dạng giải phẫu thường 
gặp lớn hơn ở dạng biến thể, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p=0,002<0,05)
Không có mối tương quan giữa các chỉ số đường 
kính của hệ TMC và TMG với dạng phân chia giải phẫu 
(p>0,05). 
Tương quan giữa kích thước hệ ĐMG, TMC, 
TMG với tuổi
Chiều dài ĐMG chung tăng theo tuổi 
(p=0,0001<0,05)
Đường kính các TMC chính, TMC trái và TMC 
phải giảm theo tuổi (p=0,001<0,05)
Không có mối tương quan có ý nghĩa thống kê 
giữa các chỉ số đường kính TMG với tuổi của các 
trường hợp trong mẫu nghiên cứu.
IV. BÀN LUẬN
Chụp XQCLVT mạch máu là kỹ thuật chụp hình 
XQCLVT có sử dụng thuốc tương phản đường tĩnh 
mạch để làm tăng đậm độ của cấu trúc mạch máu cần 
khảo sát, cung cấp hình ảnh chi tiết về hình thái mạch 
máu. Có một số phương pháp khác nhau để ghi hình 
mạch máu với những ưu điểm và hạn chế riêng. Tại 
bệnh viện Đại học Y Dược tp.HCM, chúng tôi sử dụng 
thuốc tương phản Iode tan trong nước, áp lực thẩm 
thấu thấp. Đường truyền là đường tĩnh mạch ngoại 
biên, dùng bơm tiêm tự động 2 nòng : một chứa thuốc 
cản quang, một chứa nước muối sinh lý để đẩy thuốc, 
kích thước bơm tiêm 18-20 G, tốc độ bơm 3 - 4ml/giây, 
liều thuốc cản quang 1,5 - 2ml/kg cân nặng. 
Thì động mạch: dùng để khảo sát hệ động mạch 
gan, được ghi hình bắt đầu từ thời điểm 30-35 giây sau 
tiêm thuốc. 
Thì tĩnh mạch: ghi hình ở thời điểm 60-70 giây sau 
tiêm thuốc. 
Kỹ thuật ghi hình theo thời gian cài đặt sẵn giúp 
tiết kiệm thời gian chụp. Tuy nhiên trong các trường 
hợp thay đổi cung lượng tim, cách cài đặt thời gian như 
trên sẽ cho hình ảnh không chính xác, và kỹ thuật Bolus 
tracking sẽ được áp dụng trong các tình huống này. 
Độ tuổi trong mẫu nghiên cứu chúng tôi trải rộng 
từ 18 tuổi tới 93 tuổi. Tỉ lệ nam/nữ xấp xỉ 1,2. Ngoài việc 
xác định tỉ lệ biến thể hệ ĐMG, TMC và TMG, nghiên 
cứu chúng tôi còn tiến hành đo đạc kích thước của các 
mạch máu này nhằm cung cấp các chỉ số về mạch máu 
gan trong dân số người trưởng thành Việt Nam nói 
chung. Những số liệu này cũng đóng vai trò nhất định 
trong các phẫu thuật gan mật đặc biệt là phẫu thuật 
ghép gan, khi mà việc tạo hình các miệng nối mạch 
máu đòi hỏi sự khéo léo và tính toán chính xác nhằm 
hạn chế tối đa các biến chứng trong và sau mổ. 
Khi khảo sát mối tương quan giữa kích thước các 
mạch máu gan với giới tính, chúng tôi nhận thấy đa số 
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm nam 
và nữ (p<0,05).
Hệ động mạch gan
Bảng 7. Kích thước động mạch gan
Các chỉ số 
(số trung bình + độ lệch chuẩn) Panagouli và cs Trần Sinh Vương Lê Văn Cường Chúng tôi
Chiều dài ĐMGC (*) 24,83 ± 6,5 25,16 32,5 ± 8,3
ĐK ĐMG chung 5 ± 0,4 4,54 ± 1 4,8 5,4 ± 1,0
ĐK ĐMG riêng 4,5 ± 0,3 3,3 ± 0,9 3,34 4,5 ± 0,9
(*) tác giả không đề cập
Đơn vị đo : mm
ĐK: đường kính
Kết quả về số đo đường kính ĐMG chung và 
ĐMG riêng của chúng tôi khá tương đồng với nghiên 
cứu của Panagouli [12] nhưng chiều dài và đường kính 
ĐMG chung lại lớn hơn kết quả của tác giả Lê Văn 
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 38 - 06/202044
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Cường [10] và Trần Sinh Vương [11]. Điều này có thể 
giải thích là do sự khác biệt về đối tượng nghiên cứu: 
các nghiên cứu của hai tác giả tiến hành trên xác, nên 
các mạch máu có thể có tình trạng xẹp hoặc co nhỏ do 
mất tính đàn hồi.
Khi khảo sát sự liên quan các kích thước hệ ĐMG 
theo giới tính, chúng tôi nhận thấy các chỉ số chiều dài 
và đường kính ĐMG chung, đường kính ĐMG riêng 
ở nữ nhỏ hơn nam, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
(p<0,05).
Chúng tôi cũng so sánh sự khác biệt kích thước 
động mạch giữa hai nhóm có dạng giải phẫu bình 
thường và dạng biến thể. Kết quả chỉ ra có sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê, cụ thể ĐMG chung ở nhóm 
biến thể có đường kính nhỏ hơn nhóm giải phẫu bình 
thường (p<0,05). 
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu chỉ ra có mối 
tương quan thuận, mức độ mạnh giữa đường kính 
ĐMGC và ĐMGR với hệ số tương quan Pearson r 
=0,77 (p<0,05).
Về yếu tố tuổi, chúng tôi ghi nhận chiều dài ĐMG 
chung tăng theo tuổi (p<0,05). 
Hệ tĩnh mạch cửa
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về đường 
kính các TMC giữa hai nhóm nam, nữ. Cụ thể đường 
kính các TMC chính, TMC trái và TMC phải ở nam lớn 
hơn nữ (p<0,05). Trong khi đó, chúng tôi không tìm thấy 
mối tương quan giữa chiều dài TMC với giới tính. 
Theo nghiên cứu của các tác giả Stamm [13] và 
Draghi [14], TMC chính có chiều dài khoảng 60mm và 
đường kính trong khoảng 15-18mm. Nghiên cứu chúng 
tôi cho kết quả nhỏ hơn với chiều dài TMC chính là 43,4 
± 5,5mm và đường kính 13,7 ± 1,8mm. 
Đường kính các TMC chính, TMC trái và TMC 
phải giảm theo tuổi (p<0,05). 
Hệ tĩnh mạch gan
Theo giải phẫu thông thường, gan có ba tĩnh mạch 
gan dẫn lưu máu từ các phân thùy gan về TM chủ dưới 
bao gồm TMG trái, TMG giữa và TMG phải, đây cũng là 
các mốc giải phẫu quan trọng trong việc phân chia các 
phân thùy gan [15], [16]. Tất cả 611 trường hợp trong 
mẫu nghiên cứu đều tìm thấy ba tĩnh mạch gan này với 
chỉ số đường kính có biên độ dao động lớn. Tác giả 
Dong - Ho Bang [17] sử dụng kỹ thuật siêu âm kết quả 
đo được TMG giữa có đường kính 6 ± 1,5mm và TMG 
phải có đường kính 7,8 ± 2,1mm. Nghiên cứu chúng tôi 
tìm thấy chỉ số đường kính TMG giữa là 7,4 ± 1,9mm và 
TMG phải là 8,9 ± 2,5mm, không khác biệt nhiều so với 
tác giả này. Các tác giả Wells [18] và Sharma [19] cũng 
công bố đường kính trung bình của các TMG nằm trong 
khoảng 6-15mm. Kết quả này tương tự như nghiên cứu 
của chúng tôi.
Nghiên cứu chúng tôi không tìm được mối tương 
quan giữa các chỉ số kích thước của hệ TMG với các 
yếu tố tuổi và giới tính. 
V. KẾT LUẬN
XQCLVT hữu hiệu và khá an toàn trong việc đánh 
giá các kích thước mạch máu gan cũng như xác định 
mối tương quan giữa các chỉ số kích thước trên với các 
yếu tố tuổi, giới tính và dạng phân chia giải phẫu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Stemmler, B. J. et al. Dual-phase 3D MDCT angiography for evaluation of the liver before hepatic resection. 
183, 1551-1557 (2004).
2 Erbay, N., Raptopoulos, V., Pomfret, E. A., Kamel, I. R. & Kruskal, J. B. J. A. J. o. R. Living donor liver 
transplantation in adults: vascular variants important in surgical planning for donors and recipients. 181, 109-
114 (2003).
3 Heilmaier, C. et al. Mapping of hepatic vascular anatomy: dynamic contrast-enhanced parallel MR imaging 
compared with 64–detector row CT. 245, 872-880 (2007).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 38 - 06/2020 45
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
4 Leyendecker, J. R. et al. MR angiography of the portal venous system: techniques, interpretation, and clinical 
applications. 17, 1425-1443 (1997).
5 Song, S.-Y. et al. Celiac axis and common hepatic artery variations in 5002 patients: systematic analysis with 
spiral CT and DSA. 255, 278-288 (2010).
6 Tanikake, M. et al. Three-dimensional CT angiography of the hepatic artery: use of multi–detector row helical 
CT and a contrast agent. 227, 883-889 (2003).
7 Lawton, J. et al. Computer-assisted study of the axial orientation and distances between renovisceral arteries 
ostia. 39, 149-160 (2017).
8 Araujo Neto, S. A. et al. Multidetector computed tomography angiography of the celiac trunk and hepatic 
arterial system: normal anatomy and main variants. 49, 49-52 (2016).
9 Atasoy, Ç. & Özyürek, E. J. A. J. o. R. Prevalence and types of main and right portal vein branching variations 
on MDCT. 187, 676-681 (2006).
10 Cường, L. V. Các dạng và kích thước động mạch ở người Việt Nam. tr. 102-148 (Nhà xuất bản Y học TP. HCM, 
2012).
11 Trần Sinh Vương. Nghiên cứu về nguyên ủy, các dạng phân nhánh của động mạch gan ở người Việt Nam 
trưởng thành. Tạp chí Y học thực hành 817, tr. 73-75 (2012).
12 Panagouli, E., Lolis, E. & Venieratos, D. J. A. o. A.-A. A. A morphometric study concerning the branching points 
of the main arteries in humans: relationships and correlations. 193, 86-99 (2011).
13 Stamm, E. R. et al. Normal main portal vein diameter measured on CT is larger than the widely referenced 
upper limit of 13 mm. 41, 1931-1936 (2016).
14 Draghi, F. et al. Ultrasound examination of the liver: Normal vascular anatomy. 10, 5-11 (2007).
15 Chaib, E., Ribeiro Jr, M., Saad, W. A. & Gama-Rodrigues, J. in Transplantation proceedings. 1063-1066 
(Elsevier).
16 Schroeder, T. et al. “All in one” imaging protocols for the evaluation of potential living liver donors: comparison 
of magnetic resonance imaging and multidetector computed tomography. 11, 776-787 (2005).
17 Bang, D.-H., Son, Y., Lee, Y. H. & Yoon, K.-H. J. U. Doppler ultrasonography measurement of hepatic 
hemodynamics during Valsalva maneuver: healthy volunteer study. 34, 32 (2015).
18 Wells, M. L. et al. Imaging findings of congestive hepatopathy. 36, 1024-1037 (2016).
19 Sharma, M., Somani, P. & Rameshbabu, C. S. J. W. j. o. g. e. Linear endoscopic ultrasound evaluation of 
hepatic veins. 10, 283 (2018).
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định mối tương quan giữa các chỉ số kích thước của hệ động mạch gan (ĐMG), hệ tĩnh 
mạch cửa (TMC) và hệ tĩnh mạch gan (TMG) với các yếu tố tuổi, giới tính và dạng giải phẫu bằng hình x quang cắt lớp vi tính 
(XQCLVT). 
Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu, cắt ngang mô tả. Dân số chọn mẫu bao gồm 611 các bệnh nhân trưởng thành (344 
nam, 277 nữ, tuổi trung bình 55,0 ± 13,1 tuổi), đến khám bệnh tại bệnh viện Đại học Y Dược (BV ĐHYD) tpHCM vì nhiều 
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 38 - 06/202046
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
triệu chứng khác nhau từ tháng 08/2017 đến tháng 08/2018, được chụp XQCLVT vùng bụng có tiêm thuốc tương phản thỏa 
tiêu chuẩn chọn mẫu. Từ hình chụp XQCLVT lưu trên hệ thống PACS của bệnh viện, sử dụng các phần mềm xử lý hình ảnh để 
dựng hình hệ ĐMG, TMC và TMG nhằm xác định kích thước các mạch máu gan, mối tương quan giữa các chỉ số này với các 
yếu tố tuổi, giới tính và dạng giải phẫu. 
Kết quả: Ở hệ ĐMG, có mối tương quan giữa đường kính ĐMG chung và dạng phân chia giải phẫu cụ thể đường kính 
động mạch này ở nhóm biến thể nhỏ hơn so với nhóm có dạng giải phẫu thường gặp (p<0,05), chiều dài của ĐMGC tăng theo 
tuổi (p<0,05). Chúng tôi cũng tìm thấy mối tương quan thuận với mức độ mạnh (r = 0,77) giữa đường kính ĐMG chung và ĐMG 
riêng. Ở hệ TMC, chúng tôi không tìm thấy mối tương quan giữa dạng phân chia giải phẫu với kích thước TMC, chúng tôi xác 
định được các đường kính của hệ TMC (bao gồm TMC chính, TMC trái và TMC phải) giảm theo tuổi (p<0,05). Ở hệ TMG, 
không có mối tương quan giữa yếu tố tuổi, giới tính và dạng phân chia giải phẫu với các chỉ số kích thước của hệ TMG. Nghiên 
cứu cũng chỉ ra đa số các chỉ số đường kính của hệ ĐMG và TMC ở nam giới lớn hơn nữ giới (p<0,05). 
 Kết luận: XQCLVT là phương tiện hữu hiệu trong việc đánh giá mối tương quan giữa kích thước mạch máu gan với các 
yếu tố tuổi, giới và dạng giải phẫu.
Người liên hệ: Nguyễn Thị Thanh Thiên, Email: thien.ntt@umc.edu.vn
Ngày nhận bài: 08/06/2020. Ngày chấp nhận đăng: 16/6/2020

File đính kèm:

  • pdfung_dung_x_quang_cat_lop_vi_tinh_trong_danh_gia_moi_tuong_qu.pdf