Ứng dụng thi pháp học của M. M. Bakhtin trong nghiên cứu – phê bình văn học ở Việt Nam từ cấp độ khái niệm
M.M. Bakhtin là người có ảnh hưởng lớn đối với lịch sử thi pháp học hiện đại trên
thế giới. Từ thập niên 80 của thế kỷ trước, trong sự phát triển của thi pháp học ở
nước ta, việc tiếp nhận ngày càng đầy đủ các quan điểm thi pháp học của Bakhtin
có ý nghĩa quan trọng, góp phần định hình diện mạo thi pháp học Việt Nam trong
gần bốn thập kỷ. Bài viết này trình bày một cái nhìn hệ thống đối với tình hình
ứng dụng các khái niệm thi pháp học của Bakhtin trong nghiên cứu – phê bình
văn học ở Việt Nam, từ đó đưa ra một số đánh giá và đề xuất cho việc ứng
dụng Bakhtin trong tương lai
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng thi pháp học của M. M. Bakhtin trong nghiên cứu – phê bình văn học ở Việt Nam từ cấp độ khái niệm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng thi pháp học của M. M. Bakhtin trong nghiên cứu – phê bình văn học ở Việt Nam từ cấp độ khái niệm
No.18_Oct 2020|Số 18 – Tháng 10 năm 2020|p.48-55 DOI: ỨNG DỤNG THI PHÁP HỌC CỦA M.M. BAKHTIN TRONG NGHIÊN CỨU – PHÊ BÌNH VĂN HỌC Ở VIỆT NAM TỪ CẤP ĐỘ KHÁI NIỆM Phan Trọng Hoàng Linh1* 1 Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Huế * Email: phantronghoanglinh@gmail.com Thông tin bài viết Tóm tắt Ngày nhận bài: 24/7/2020 Ngày duyệt đăng: 20/9/2020 M.M. Bakhtin là người có ảnh hưởng lớn đối với lịch sử thi pháp học hiện đại trên thế giới. Từ thập niên 80 của thế kỷ trước, trong sự phát triển của thi pháp học ở nước ta, việc tiếp nhận ngày càng đầy đủ các quan điểm thi pháp học của Bakhtin có ý nghĩa quan trọng, góp phần định hình diện mạo thi pháp học Việt Nam trong gần bốn thập kỷ. Bài viết này trình bày một cái nhìn hệ thống đối với tình hình ứng dụng các khái niệm thi pháp học của Bakhtin trong nghiên cứu – phê bình văn học ở Việt Nam, từ đó đưa ra một số đánh giá và đề xuất cho việc ứng dụng Bakhtin trong tương lai. Từ khóa: M.M. Bakhtin, thi pháp học, khái niệm, nghiên cứu - phê bình văn học, Việt Nam 1. Đặt vấn đề Từ cuối thế kỷ XX, trên phạm vi thế giới, vai trò của M.M. Bakhtin (1895 – 1975) ngày một trở nên quan trọng trên nhiều địa hạt như triết học, mỹ học, ngôn ngữ và nghiên cứu văn học. Vào những năm 80 của thế kỷ trước, ông bắt đầu ảnh hưởng đến các nhà lý luận và nghiên cứu văn học ở Việt Nam, cùng trong quá trình thi pháp học trở lại nước ta một cách mạnh mẽ và có hệ thống. Hầu như các tư tưởng quan trọng của ông đều trở nên phổ biến trong giới học thuật, có sự chi phối không nhỏ tới tiến trình thi pháp học ở Việt Nam, trên cả bình diện lý thuyết, lẫn thực hành phê bình và sáng tác. Trong bài viết này, chúng tôi đặt ra mục tiêu khái quát và hệ thống lại tình hình ứng dụng các khái niệm thi pháp học của Bakhtin ở nước ta gần bốn thập niên vừa qua, từ đó, nêu lên một số đánh giá và hướng đến một số đề xuất cho triển vọng ứng dụng Bakhtin trong tương lai. 2. Nội dung nghiên cứu Trong các công trình quan trọng nhất của Bakhtin, đặc biệt là hai cuốn Những vấn đề thi pháp Dostoievski (có chỉnh sửa, bổ sung ở lần tái bản năm 1963) [1] và Sáng tác của François Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ và Phục hưng (1965) [2], có thể thấy rõ ý thức của tác giả muốn hợp nhất toàn bộ ý tưởng học thuật vào một hệ thống. Song, mong muốn đó không thể ngăn được giới nghiên cứu nhận ra ba mảng đóng góp nổi bật của ông trong các vấn đề liên quan đến carnaval, đối thoại và thể loại văn học. Điều này bắt nguồn từ tiềm năng nghiên cứu độc lập của mỗi bộ khái niệm mà Bakhtin xây dựng. Phần nhiều trong đó là các khái niệm sẵn có nhưng được Bakhtin xác lập một nội hàm mới. Liên quan đến nguyên lý carnaval là các khái niệm như carnaval, trào tiếu, nghịch dị, giễu nhại, Với nguyên lý đối thoại là các khái niệm như đối thoại, tiểu thuyết đa thanh, tác giả, nhân vật, giọng điệu, Với lý thuyết thể loại văn học là các khái niệm như tiểu thuyết, sử thi, dung hợp thể loại, thời - không gian, lời văn hai giọng, không hoàn kết, Ở Việt Nam, việc ứng dụng các khái niệm của Bakhtin theo từng mảng tri thức là rất phổ biến. Kiểu TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO ISSN: 2354 - 1431 P.T.H.Linh/ No.18_Oct 2020|p.48-55 ứng dụng này, bên cạnh những thuận tiện, cũng tiềm ẩn một số nguy cơ. Tuy nhiên, thao tác phân loại của chúng tôi sẽ không dựa trên lần lượt từng khái niệm, xuất phát từ thực tế là hiệu quả ứng dụng thường không được thể hiện nhiều qua việc trích dẫn hoặc gợi nhắc một vài thuật ngữ riêng lẻ. Hơn nữa, việc tổng hợp toàn bộ công trình, bài viết có xuất hiện một hoặc một vài thuật ngữ của Bakhtin nằm ngoài khả năng bao quát của chúng tôi, nhất là với tình trạng Bakhtin đã có lúc trở thành cái tên thời thượng trong giới nghiên cứu văn học Việt Nam, và trích dẫn ông trở thành cái mốt. Tương ứng với mỗi mảng tri thức của Bakhtin, việc phân loại công trình được chúng tôi tiến hành lần lượt trên hai cấp độ tiêu chí: cấp độ đầu tiên dựa vào đối tượng nghiên cứu: văn học nước ngoài hay văn học Việt Nam; cấp độ thứ hai dựa vào cách thức ứng dụng: sử dụng lý thuyết như bộ “mã khóa” duy nhất để lý giải đối tượng, hay là kết hợp lý thuyết của Bakhtin với các lý thuyết khác. 2.1. Ứng dụng các khái niệm liên quan đến nguyên lý carnaval - Ứng dụng nguyên lý carnaval trong nghiên cứu - phê bình các hiện tượng văn học nước ngoài + Cách ứng dụng thứ nhất: “Sự song hành của thời gian carnaval trong Don Quixote của Cervantes” (2005) của Đào Duy Hiệp [3], “Tính chất carnaval trong tiếng cười của Mark Twain” (2008) của Dương Thị Ánh Tuyết [4], “Dấu ấn Carnaval hóa trong Truyện mười ngày của Boccacio” (2008) của Trần Nhật Thư [5], “Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Don Quixote của Cervantes - từ lý thuyết văn hóa trào tiếu dân gian” (2014) của Phan Trọng Hoàng Linh [6], + Cách ứng dụng thứ hai: “Gogol - thử nhận chân một thế giới nghệ thuật” (2002) [7], “Thử nhận chân thế giới nghệ thuật của Gogol” (2009) [8] của Phạm Vĩnh Cư, “Nghịch dị trong nghệ thuật khắc hoạ chân dung nhân vật của Oe Kenzaburo (qua tiểu thuyết Một nỗi đau riêng)” (2008) của Ôn Thị Mỹ Linh [9], Đặc biệt, còn có các chuyên luận: Tự sự kiểu Mạc Ngôn (2013) của Nguyễn Thị Tịnh Thy [10], Nghệ nhân và Margarita (M. Bulgakov) và đặc điểm tiểu thuyết huyền thoại thế kỷ XX (2016) của Nguyễn Thị Như Trang [11], - Ứng dụng nguyên lý carnaval trong nghiên cứu - phê bình các hiện tượng văn học Việt Nam + Cách ứng dụng thứ nhất: “Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương” (1990) của Đỗ Đức Hiểu [12], ““Carnaval hóa” trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại” (2017) của Vũ Thị Thanh Hoài [13], + Cách ứng dụng thứ hai: “Thực hành thơ như là thực hành sống - Hồ Thế Hà - một trải nghiệm chơi” (2015) [14], “Trò chơi ngôn ngữ trong Không biết đâu mà lần của Văn Thành Lê” (2016) [15] của Phan Tuấn Anh, Và các chuyên luận: Những dấu h ... về tiểu thuyết, nên lý thuyết thể loại văn học của ông được tiếp nhận rộng rãi với vai trò trung tâm của những ý kiến bàn về tiểu thuyết ở hai vấn đề: quan hệ giữa tiểu thuyết với sử thi và quan hệ giữa tiểu thuyết với thơ. Nếu vấn đề thứ nhất gần như nhận được sự tán thành tuyệt đối thì vấn đề thứ hai thường xuyên được các nhà nghiên cứu phát triển trên cơ sở phản biện. Thứ hai, theo chúng tôi, việc tiếp nhận lý thuyết thể loại văn học của Bakhtin, nhất là ở quan niệm về sử thi và tiểu thuyết, trước hết xuất phát từ đòi hỏi tự thân của giới nghiên cứu và sáng tác trong việc xác định bản chất của nền văn học Việt Nam thời chiến. Điều này được thể hiện rất rõ trong các nghiên cứu của Lã Nguyên, người am hiểu sâu sắc và vận dụng có hệ thống lý thuyết của Bakhtin qua hàng loạt tiểu luận được lần lượt công bố trong thời gian dài: “Diện mạo văn học Việt Nam 1945 - 1975 (Nhìn từ góc độ thi pháp thể loại)” (1995), “Nhìn lại các bước đi. Lắng nghe những tiếng nói (Về văn học Việt Nam thời đổi mới 1975 - 1991)” (2005), “Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài” (2006), “Văn xuôi hậu hiện đại Việt Nam: Quốc tế và bản địa, cách tân và truyền thống” (2012) và “Nguyễn Huy Thiệp và bước ngoặt của văn học Việt Nam sau 1975” (2014). Dù mục tiêu cụ thể và cách thức triển khai mỗi tiểu luận có khác nhau, nhưng từ góc độ thể loại, có thể nhìn nhận chúng như một sự kết nối tiến trình thể loại của văn học đất P.T.H.Linh/ No.18_Oct 2020|p.48-55 nước ở hai chặng, với những đặc điểm riêng: từ 1945 đến 1975 và từ 1975 đến nay. Điểm khác biệt cốt yếu giữa văn học Việt Nam trước và sau 1975 là gì? Theo Lã Nguyên, đó là: “Trước 1975, văn học Việt Nam chủ yếu là văn học sử thi. Văn học sau 1975 lại chủ yếu là văn học thế sự” [32;102]. Sau 1945, tính phức tạp của các phương diện mâu thuẫn, đối lập bị khắc phục triệt để nhằm tạo ra sự thống nhất một chiều, trên cơ sở tất cả thể loại đều được quy về một loại hình nội dung cơ bản là thể hiện trạng thái sử thi của thế giới, với lý tưởng thẩm mỹ hướng về cái đẹp và cái cao cả. Theo chúng tôi, cần nhấn mạnh rằng, đó không phải cái đẹp như một phạm trù mỹ học phổ quát, mà là cái đẹp trong sự định hướng để trở thành cái cao cả, nên thực chất lý tưởng thẩm mỹ giai đoạn này chỉ gói gọn trong phạm trù cái cao cả. Phát triển tiếp ý trên, Lã Nguyên nhận định, với một loại hình nội dung và lý tưởng thẩm mỹ như vậy, văn học giai đoạn này là mảnh đất màu mỡ cho sự thống soái của truyện và thơ trữ tình, nhưng lại là khắc tinh đối với tiểu thuyết theo tinh thần hiện đại của Bakhtin. Văn học 1945 - 1975 không phải không đặt ra vấn đề đời tư - thế sự, song chỉ với tư cách những motif phụ trợ, góp phần soi sáng trạng thái sử thi của thế giới. Nó khác hẳn với nội dung đời tư - thế sự trong văn học 1975 được bắt nguồn từ nhu cầu tự thân và được cắt nghĩa từ kinh nghiệm cá nhân của tác giả. Như vậy, xét trên nguyên tắc thế giới quan của tư duy thể loại, văn học Việt Nam từ 1975 đến nay là sự tiếp nối quá trình phát triển của giai đoạn hiện đại hóa văn học, sau một chặng đột biến do sự quy định của bối cảnh lịch sử đặc thù: chiến tranh. Cái nhìn sử thi hóa về thế giới chuyển dần thành cái nhìn tiểu thuyết hóa về con người. Chúng tôi cho rằng, thực ra không phải văn học sau 1975 “chủ yếu là văn học thế sự”. Văn học sử thi vẫn được dung dưỡng để duy trì mạch sống của riêng nó. Có lẽ, nên diễn đạt là thành tựu văn học sau 1975 chủ yếu được xác lập bởi văn học thế sự thì chuẩn xác hơn. Lã Nguyên nhận xét, dù sự khác nhau là rất lớn, nhưng văn học trước và sau 1975 vẫn chung một điểm: đều là sự thống ngự của những tiếng nói rất to hướng về thực tại. Những tiếng nói thầm trong văn xuôi của Nguyễn Minh Châu, Bảo Ninh, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Châu Diên, là trường hợp ngoại lệ. Song, dẫu nói to hay nói thầm, văn học lúc này ít nhiều đều gắn với tiếng cười trào tiếu, giễu nhại, thứ phân biệt nó với giọng điệu trang trọng, quyền uy của văn học cách mạng. Trong số những gương mặt văn chương sau 1975, Lã Nguyên đặc biệt chú ý ba cái tên: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài và Đặng Thân, vì tác phẩm của họ, theo ông, đi liền với một hệ hình tư duy mới trong nghệ thuật: hệ hình hậu hiện đại. Nếu Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài là bước chuyển với các dấu hiệu, các yếu tố hậu hiện đại “giống những tảng đá hộc xây đắp nền móng đưa văn học dân tộc phát triển theo một hướng mới”, thì Đặng Thân đã là “bước ngoặt quyết đoán của văn học hậu hiện đại Việt Nam” [32;118]. Các tiểu luận liên quan đến chủ đề hậu hiện đại của Lã Nguyên đều được viết rất công phu, uyên bác và cả hóm hỉnh trên nền tảng của những mô hình thế giới diễn ngôn và truyện kể vô cùng độc đáo do chính ông phát hiện từ thực tế văn bản. Thế nhưng, mức độ đồng thuận của học giới trước những kết luận khoa học của ông không phải bao giờ cũng giống nhau. Nếu người ta tán thành rất cao với trường hợp Đặng Thân thì cũng không ít ý kiến nghi ngờ trường hợp Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, hai tác gia thường được số đông xếp vào phạm trù hiện đại. Hơn nữa, dựa trên những tiêu chí của dấu hiệu/ yếu tố hậu hiệu đại được Lã Nguyên phân tích, thì dường như chính ông đã “đành đoạn ngó lơ” với nhiều tên tuổi từng được ông ghi danh trong nền văn học Việt Nam đổi mới như Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Thứ ba, mặc dù số lượng công trình được chúng tôi điểm tên ở đây khá khiêm tốn so với các công trình ứng dụng hai nguyên lý carnaval và đối thoại, nhưng trên thực tế, số lượng công trình chịu ảnh hưởng quan niệm thể loại của Bakhtin là nhiều không kể xiết. Thậm chí, có thể nói, sự phân biệt sử thi và tiểu thuyết của Bakhtin đã trở thành một tri thức có tính đại trà xuất hiện trong bất cứ công trình nào có nhắc đến tiểu thuyết ở nước ta. Chính điều này khiến chúng tôi buộc phải thu hẹp phạm vi tổng thuật chủ yếu vào các chuyên luận được xuất bản thành sách. Và xét trong phạm vi ấy, đối tượng nghiên cứu hầu hết được tập trung ở mảng văn học Việt Nam, đặt trong cái nhìn khái quát. Thực tế đó cũng hợp lý, vì có lẽ không nhiều học giả nước ta đủ khả năng bao quát toàn cảnh sự vận động của một nền tiểu thuyết nước ngoài. Đề xuất: Bakhtin cho rằng tiểu thuyết là thể loại đang tiếp diễn vận động, chưa định hình thành một bộ khung rắn chắc, không ngừng dung hợp các hình thức văn P.T.H.Linh/ No.18_Oct 2020|p.48-55 chương và ngoại văn chương vào cấu trúc bên trong của nó. Đây là quan niệm vừa chuẩn xác, vừa chừa ra một độ mở rất lớn để các thế hệ nghiên cứu đi sau tiếp tục phát triển, trên cơ sở khái quát thực tế vận động của thể loại trong thời đại mới. Ta thấy, không hiếm khi thể nghiệm táo bạo của nhà văn đã dẫn đến những hình hài mới của tiểu thuyết gây bối rối cho cả các chuyên gia trong giới nghiên cứu. Ở Việt Nam có thể nhắc đến trường hợp Đặng Thân. Nhưng ngay cả những trường hợp đó thì cũng không nằm ngoài một hướng phát triển mở đầy linh hoạt của thể loại mà Bakhtin đã tiên đoán. Do đó, chúng tôi cho rằng, chừng nào còn chưa đến thời điểm suy tàn của tiểu thuyết như có người từng cảnh báo, thì quan điểm về thể loại của Bakhtin vẫn là nền tảng lý thuyết để chúng ta dõi theo hành trình tiểu thuyết trong tương lai. 3. Kết luận Từ những năm 1980 đến nay, thi pháp học như một bộ môn nghiên cứu giá trị nghệ thuật của tác phẩm văn học liên tục được truyền bá rộng rãi vào Việt Nam với nhiều trường phái, chi nhánh. Trong dòng chảy ấy, những phát kiến vĩ đại của Bakhtin, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến carnaval, đối thoại và thể loại văn học, đã trở thành một nhánh trọng yếu và còn nhiều tiềm năng. Do vậy, trong bài viết này, chúng tôi hướng đến một cái nhìn hệ thống đối với việc ứng dụng các khái niệm thi pháp học của Bakhtin ở Việt Nam. Cách ứng dụng Bakhtin thông qua các khái niệm riêng lẻ được thực hiện rất phổ biến trong nhiều công trình nghiên cứu văn học ở nước ta, bởi tính dễ dàng, tiện lợi, không đòi hỏi quá nhiều công phu nghiền ngẫm lý thuyết. Nhưng cũng vì thế, các công trình có giá trị chỉ thuộc về số ít; còn lại, đa phần rơi vào tình trạng “hớt ngọn”, “nói theo”, “đẽo chân cho vừa giày”, Dẫu vậy, chỉ với thiểu số các công trình có giá trị kể trên, chúng ta cũng có thể nhận ra một pham vị đối tượng tiếp cận khá phong phú. Về cách thức vận dụng lý thuyết, bên cạnh những khả thủ cũng khó tránh khỏi một số bất cập, đặc biệt là ở những công trình ứng dụng đầu tiên. Tiềm năng của lý thuyết ở một vài khu vực nghiên cứu văn học vẫn còn bỏ trống, do đó, có thể hứa hẹn những viễn cảnh trong tương lai. REFERENCES [1] M.M. Bakhtin (1998), Problems of Dostoievski's Poetry, Tran Dinh Su, Lai Nguyen An & Vuong Tri Nhan Translating, Writers Association Publishing House, Hanoi. [2] M.M. Bakhtin (2006), Writing of François Rabelais and folklore of the Middle Ages and Renaissance, translated by Tu Thi Loan, Social Science Publishing House, Hanoi. [3] Dao Duy Hiep (2008), Literary criticism from modern theory, Educational Publishing House, Hanoi. [4] Duong Thi Anh Tuyet (2008), "The carnaval nature in Mark Twain's laughter", Journal of Literary Researches, No. 4, p.96-108. [5] Tran Nhat Thu (2008), "The Carnaval’s Mark in Boccatio's Ten-Day Story", source: chi/c96/n550/Da-uan-Carnaval -ho-a-in-n-muo-i-nga- y-cu-a-Boccatio.html, updated: May 20, 2018. [6] Phan Trong Hoang Linh (2014), "Art space and time in Cervantes' novel Don Quixote - from folk satirical theory", Journal of Science and Technology, University of Hue Science, no.2, p.37-46. [7] Pham Vinh Cu (2007), Creation and exchange, Educational Publishing House, Hanoi. [8] Pham Vinh Cu (2009), "Trying to acknowledge Gogol's world of art", Foreign Literature Magazine, No. 5, pp.89-129. [9] On Thi My Linh (2008), "The grotesque in portrayal of Oe Kenzaburo's character (through the novel A Personal Pain)", Journal of Literary Studies, No. 3, p.88 -97. [10] Nguyen Thi Nhu Trang (2016), Artist and Margarita (M. Bulgacov) and characters of the legendary twentieth century, Hanoi National University Publishing House , Hanoi. [11] Nguyen Thi Tinh Thy (2013), Mac Ngon Autobiography, Literature Publishing House, Hanoi. [12] Do Duc Hieu (2000), Modern Poetry, Writers Association Publishing House, Hanoi. [13] Vu Thi Thanh Hoai (2017), "Carnavalization" in contemporary Vietnamese novels, Journal of Literary Researches, No. 8, pp.73- 84. [14] Phan Tuan Anh (2015), "Practice poetry as a practice living - Ho The Ha - a playing experience", Song Huong Magazine, No. 11, pp.60-65. [15] Phan Tuan Anh (2019), Innovative Vietnamese literature - from reference points of view, Culture Publishing House, Ho Chi Minh City. P.T.H.Linh/ No.18_Oct 2020|p.48-55 [16] Phung Gia The (2016), Signs of Postmodernism in Contemporary Vietnamese Prose (1986-2012), Hanoi National University Publishing House, Hanoi. [17] Huynh Thu Hau (2018), Grotesque Art in Vietnamese Fiction, Writers Association Publishing House, Hanoi. [18] Dang Anh Dao (editor) (1999), Western Literature, Educational Publishing House, Hanoi. [19] Thanh Đuc Hong Ha (2017), Poetry of prose A.S. Pushkin, National University Publishing House, Hanoi. [20] Tran Dinh Su (1996), Theory and literary criticism, Educational Publishing House, Hanoi. [21] Thai Phan Vang Anh (2017), Vietnamese Novel at the beginning of the twenty-first century - A game changer, Hue University Publishing House, Hue. [22] Le Huy Bac (2019), Symbols and symbols, Ho Chi Minh Synthetic General Publishing House, Ho Chi Minh City. [23] Le Thi Thuy Hang (2016), Principle of dialogue in Vietnamese fictions from 1986 to 2010 (Doctoral thesis in Literature), Hue University, Hue. [24] Nguyen Dang Diep (2003), Vong from the word, Literature Publishing House, Hanoi. [25] Nguyen Thuy Trang (2017), "Dialogicality - How to connect with the natural world in contemporary Vietnamese fictions", Journal of Literary Researches, No. 3, p.32-37. [26] Mai Hai Oanh (2009), Art Innovations in Contemporary Vietnamese Fiction, Writers Association Publishing House, Hanoi. [27] Dang Anh Dao (2007), Vietnam and the West - received and interfered in literature, Educational Publishing House, Hanoi. [28] Nguyen Thi Binh (2015), Vietnamese Prose after 1975, Hanoi Pedagogical University Publishing House. [29] Hoang Cam Giang (2015), Vietnamese Novels in the early twenty-first century - structure and trends, National University Publishing House, Hanoi. [30] Nguyen Thi Hai Phuong (2016), Contemporary Vietnamese Novels - from the perspective of discourse, Vietnamese Educational Publishing House, Hanoi. [31] Tran Viet Thien (2016), Interaction genre in contemporary Vietnamese prose, Ho Chi Minh National University Publishing House, Ho Chi Minh City. [32] La Nguyen (2018), Semantics review, Women Publishing House, Hanoi. APPLICATION OF M.M. BAKHTIN’S POETICS IN LITERARY RESEARCH - CRITICISM IN VIETNAM FROM CONCEPTUAL LEVEL Article info Abstract Recieved: 24/7/2020 Accepted: 20/9/2020 M.M. Bakhtin had a great influence on the history of modern poetics in the world. From the 1980s onwards, the adoption of Bakhtin’s poetics was of great significance, contributing to the development of poetics in Vietnam in nearly four decades. This paper presents a systematic view of the application of Bakhtin’s concepts of poetics in literary research - criticism in Vietnam, giving some assessments and suggestions for the application of Bakhtin in the future. Keywords: M.M. Bakhtin, poetics, conceptual level, literary research - criticism, Vietnam
File đính kèm:
- ung_dung_thi_phap_hoc_cua_m_m_bakhtin_trong_nghien_cuu_phe_b.pdf