Ứng dụng mô hình số Simclast nghiên cứu sự phát triển của châu thổ sông Hồng giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen

Mô hình Simclast đã được kiểm chứng và áp dụng có hiệu quả trong mô phỏng quá trình hình thành và phát

triển một số châu thổ lớn trên thế giới thông qua quá trình tương tác sông - biển chu kỳ dài và sau đó đã

được thực hiện tại châu thổ sông Hồng. Kết quả mô hình đã chỉ ra rằng phần lục địa khu vực nghiên cứu thu

hẹp nhanh sau giai đoạn biển tiến (10.000-8.000 năm BP), bề mặt địa hình chủ yếu thay đổi mạnh ở ngoài

khơi hệ thống sông Hồng, sông Đáy và ít thay đổi ngoài khơi hệ thống sông Thái Bình. Hoạt động của các

lòng sông cổ cũng có sự khác biệt, hệ thống sông Hồng cổ có thời gian hoạt động mạnh mẽ ở thượng nguồn

đến khoảng 11.000 năm BP và kéo dài tới khoảng 2.000 năm BP làm cho quá trình bồi - xói liên tục gây

thay đổi hình thái địa hình. Hệ thống sông Thái Bình cổ đánh dấu sự hoạt động bình ổn cho đến 5.500 năm

BP và hoạt động mạnh mẽ hơn kể từ đây đến giai đoạn hiện đại nhưng ít gây xáo trộn về địa hình. Đường bờ

hiện đại từ mô hình sô tương đối phù hợp với đường bờ hiện nay.

Ứng dụng mô hình số Simclast nghiên cứu sự phát triển của châu thổ sông Hồng giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen trang 1

Trang 1

Ứng dụng mô hình số Simclast nghiên cứu sự phát triển của châu thổ sông Hồng giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen trang 2

Trang 2

Ứng dụng mô hình số Simclast nghiên cứu sự phát triển của châu thổ sông Hồng giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen trang 3

Trang 3

Ứng dụng mô hình số Simclast nghiên cứu sự phát triển của châu thổ sông Hồng giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen trang 4

Trang 4

Ứng dụng mô hình số Simclast nghiên cứu sự phát triển của châu thổ sông Hồng giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen trang 5

Trang 5

Ứng dụng mô hình số Simclast nghiên cứu sự phát triển của châu thổ sông Hồng giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen trang 6

Trang 6

Ứng dụng mô hình số Simclast nghiên cứu sự phát triển của châu thổ sông Hồng giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen trang 7

Trang 7

Ứng dụng mô hình số Simclast nghiên cứu sự phát triển của châu thổ sông Hồng giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen trang 8

Trang 8

Ứng dụng mô hình số Simclast nghiên cứu sự phát triển của châu thổ sông Hồng giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen trang 9

Trang 9

Ứng dụng mô hình số Simclast nghiên cứu sự phát triển của châu thổ sông Hồng giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 16 trang viethung 5980
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Ứng dụng mô hình số Simclast nghiên cứu sự phát triển của châu thổ sông Hồng giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng mô hình số Simclast nghiên cứu sự phát triển của châu thổ sông Hồng giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen

Ứng dụng mô hình số Simclast nghiên cứu sự phát triển của châu thổ sông Hồng giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen
463 
Vietnam Journal of Marine Science and Technology; Vol. 19, No. 4; 2019: 463–478 
DOI: https://doi.org/10.15625/1859-3097/19/4/12706 
Application of numerical model Simclast for studying the development 
of Red river delta in late Pleistocene-Holocene 
Mai Duc Dong
1
, Phung Van Phach
1
, Nguyen Trung Thanh
1
, Duong Quoc Hung
1
,
Pham Quoc Hiep
1
, Nguyen Van Diep
1
, Renat Shakirov
2 
1
Institute of Marine Geology and Geophysics, VAST, Vietnam 
2
Far East Geological Institute, FEB RAS, Russia 
*
E-mail: ducdong.geo@gmail.com 
Received: 29 December 2018; Accepted: 28 June 2019 
©2019 Vietnam Academy of Science and Technology (VAST) 
Abstract 
The Simclast model has been verified and applied effectively in simulating the delta development for some 
major deltas in the world. In this study, we applied the model Simclast for simulating the history of the Red 
river delta development in late Pleistocene-Holocene. Results of the model reveal that the mainland of study 
area had reduced rapidly during transgression period (10,000-8,000 BP). The morphology changed 
significantly in the paleo-Red and Day river systems, but slightly in the paleo Thai Binh river system. The 
paleo-river network had been active in upper part before 11,000 BP and then shifted seaward until 2,000 BP. 
The river-sea interaction causes erosion and accumulation; as a result the morphology changed remarkably. 
The paleo-Thai Binh river had been inactive until 5,500 BP and then it was active but the morphology had 
not varied remarkably. The recent coastline generated from Simclast is relatively in accordance with the 
present coastline. 
Keywords: Simclast model, delta development, Red river delta, late Pleistocen-Holocene 
Citation: Mai Duc Dong, Phung Van Phach, Nguyen Trung Thanh, Duong Quoc Hung, Pham Quoc Hiep, Nguyen Van 
Diep, Renat Shakirov, 2019. Application of numerical model Simclast for studying the development of Red river delta in 
late Pleistocene-Holocene. Vietnam Journal of Marine Science and Technology, 19(4), 463–478. 
464 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển, Tập 19, Số 4; 2019: 463–478 
DOI: https://doi.org/10.15625/1859-3097/19/4/12706 
Ứng dụng mô hình số Simclast nghiên cứu sự phát triển của châu thổ 
sông Hồng giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen 
Mai Đức Đông1, Phùng Văn Phách1, Nguyễn Trung Thành1, Dương Quốc Hưng1, 
Phạm Quốc Hiệp1, Nguyễn Văn Điệp1, Renat Shakirov2 
1Viện Địa chất và Địa vật lý biển, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Việt Nam 
2Viện Địa chất Viễn Đông, Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang Nga, Liên bang Nga 
*
E-mail: ducdong.geo@gmail.com 
Nhận bài: 29-12-2018; Chấp nhận đăng: 28-6-2019 
Tóm tắt 
Mô hình Simclast đã được kiểm chứng và áp dụng có hiệu quả trong mô phỏng quá trình hình thành và phát 
triển một số châu thổ lớn trên thế giới thông qua quá trình tương tác sông - biển chu kỳ dài và sau đó đã 
được thực hiện tại châu thổ sông Hồng. Kết quả mô hình đã chỉ ra rằng phần lục địa khu vực nghiên cứu thu 
hẹp nhanh sau giai đoạn biển tiến (10.000-8.000 năm BP), bề mặt địa hình chủ yếu thay đổi mạnh ở ngoài 
khơi hệ thống sông Hồng, sông Đáy và ít thay đổi ngoài khơi hệ thống sông Thái Bình. Hoạt động của các 
lòng sông cổ cũng có sự khác biệt, hệ thống sông Hồng cổ có thời gian hoạt động mạnh mẽ ở thượng nguồn 
đến khoảng 11.000 năm BP và kéo dài tới khoảng 2.000 năm BP làm cho quá trình bồi - xói liên tục gây 
thay đổi hình thái địa hình. Hệ thống sông Thái Bình cổ đánh dấu sự hoạt động bình ổn cho đến 5.500 năm 
BP và hoạt động mạnh mẽ hơn kể từ đây đến giai đoạn hiện đại nhưng ít gây xáo trộn về địa hình. Đường bờ 
hiện đại từ mô hình sô tương đối phù hợp với đường bờ hiện nay. 
Từ khóa: Mô hình số Simclast, phát triển châu thổ, châu thổ sông Hồng, Pleistocen muộn – Holocen. 
MỞ ĐẦU 
Châu thổ được định nghĩa là một thể địa 
chất nổi lên tách biệt với xung quanh bởi 
đường bờ được hình thành nơi sông đổ ra đại 
dương, biển kín, hồ, hoặc đầm phá và được tích 
tụ dưới sự chi phối bởi các quá trình động lực 
khu vực và có thể tái phân bố bởi các quá trình 
của bồn [1]. Các châu thổ hiện đại trên thế giới 
hình thành như là kết quả của sự suy giảm tốc 
độ mực nước biển dâng vào khoảng 8.500-
6.500 năm cách ngày nay [2]. Châu thổ sông 
Hồng (CTSH) nằm ở phía tây vịnh Bắc Bộ, là 
một trong hai châu thổ lớn của đất nước bắt đầu 
hình thành cách ngày nay khoảng 8.500-8.000 
năm BP [3, 4]. Các nghiên cứu về tiến hóa trầm 
tích đã chỉ ra rằng, lịch sử hình thành và phát 
triển châu thổ trong Holocen (11.700 năm BP) 
phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố như dao động 
mực nước biển, lưu lượng trầm tích của các hệ 
thống sông, tốc độ tích tụ trầm tích, địa hình 
đáy, chế độ động lực và hoạt động tân kiến tạo 
trong khu vực [4–7]. Các kết quả nghiên cứu về 
dao động mực nước biển trong giai đoạn 
Holocen - hiện đại, lịch sử hình thành và tiến 
hóa CTSH có thể chia ra 3 giai đoạn chính: 
Giai đoạn từ cực đại băng hà cuối cùng đến 
11.000 năm BP, mực nước biển ở độ sâu tương 
ứng khoảng (–)45–50 m, hoạt động của sông 
chi phối khu vực đồng bằng châu thổ, từ 11.000 
năm BP đến 8.500 năm BP mực nước biển 
dâng cao hơn lên đến –7 m đã biến khu vực 
nghiên cứu trờ thành môi trường estuary và từ 
Application of numerical model Simclast for studying 
465 
8.500 năm BP đến nay đánh dấu sự hình thành 
và phát triển châu thổ sông Hồng hiện đại. Tác 
động phức tạp của các quá trình sông - biển chu 
kỳ dài dưới ảnh hưởng của sự thay đổi mực 
nước biển đã được xây dựng lại chi tiết trên cơ 
sở mô hình lý thuyết thông qua Simclast [8], 
sau đó được áp dụng trên châu thổ sông 
Mekong [9], khu vực thềm Nha Trang (Nha 
Trang shelf) [10] đã cho thấy kết quả có thể 
ứng dụng được để quan sát nghiên cứu quá 
trình tiến hóa của châu thổ. Trong đó, các yếu 
tố đầu vào của mô hình (các yếu tố thủy thạch 
động học), đặc biệt là dao động ...  tác sông biển tại các 
cửa sông cổ. Hình thái bề mặt địa hình ít thay 
đổi đến khoảng 11.000 năm BP ở giai đoạn này 
địa hình lục địa chủ yếu chịu hoạt động của 
nhóm sông Hồng cổ. Hình thái bề mặt địa hình 
sau đó thay đổi phức tạp. Diện tích đất liền khu 
vực đồng bằng châu thổ bị thu hẹp nhanh sau 
giai đoạn biển tiến, khu vực biển nông gần hệ 
thống sông cổ thay đổi mạnh (vùng 3). Sự thay 
dổi này diễn ra do quá trình xói lở - bồi tụ tích 
cực cở cửa sông cổ gây ra. Quá trình này làm 
các dấu tích của lòng sông cổ sông Hồng không 
được biểu hiện rõ vtrên các mặt cắt địa chấn 
phân giải cao (hình 1b). Sự hoạt động của 
nhóm sông Đáy cổ cũng đã gây ra sự thay đổi 
bề mặt địa hình nhưng chỉ có thể nhận thấy sự 
hoạt động của các sông địa phương hiện nay và 
phát hiện được trên một số mặt cắt địa chấn (ví 
dụ hình 4). Địa hình khu vực bị ảnh hưởng bởi 
sông Thái Bình cổ ít có sự thay đổi, trái ngược 
hẳn với khu vực còn lại. Sự hoạt động bình ổn 
của nhóm sông này có thể làm cho các trầm 
tích ít có xáo trộn và cũng có thể quan sát trên 
các mặt cắt địa chấn phân giải cao khu vực, đây 
là điều kiện rất tốt để xác định dấu tích của 
lòng sông cổ trên các mặt cắt địa chấn với các 
cấu tạo xiên chéo rõ ràng (hình 1a và hình 8) 
bởi quá trình lắng đọng trầm tích ổn định trong 
lòng sông trong suốt thời kỳ biển tiến. 
Hình 8. Ảnh hưởng của dòng chảy ổn định trong lòng sông cổ trên mặt cắt RR2-18. Mặt cắt gốc 
(trên) tham khảo từ Ross (2011) [27], mặt cắt minh giải (dưới) tham khảo từ Đông và nnk., [22] 
Hoạt động của con người có ảnh hưởng lớn 
tới các quá trình tự nhiên, đặc biệt tại cửa các 
con sông lớn, nơi phù sa liên tục được bồi đắp. 
Quá trình bồi tụ/xói lở diễn ra mạnh tại cửa 
sông Hồng và sông Đáy sẽ làm đường bờ thay 
đổi đáng kể. Đường bờ dự kiến từ kết quả mô 
hình (hình 6) tại thời điểm 10.000 năm BP khá 
tương đồng với kết quả nghiên cứu trên quy mô 
khu vực của Yao et al., (2009) [43], trong giai 
đoạn 10.000-6.000 năm BP chưa có sự tương 
đồng với kết quả xác định đường bờ cổ chi tiết 
hơn so với Tanabe và nnk., (2006) [19]. Vị trí 
đường bờ kể từ 6.000 năm BP đến hiện đại 
tương đồng với các nghiên cứu trước đây. 
Nguyên nhân có thể kể đến mức độ chi tiết của 
tài liệu, mục tiêu nghiên cứu... Nhưng đường 
bờ hiện đại khi so sánh với đường bờ hiện tại từ 
dữ liệu từ Google Earth lại khá tương đồng, 
ngoại trừ vị trí cửa Ba Lạt và cửa Đáy (hình 9). 
Như vậy, có thể nói rằng nếu bỏ qua các tác 
động của con người thì đường bờ biển tại thời 
điểm hiện đại xuất ra từ mô hình số Simclast 
tương đối trùng khí với đường bờ cửa sông 
châu thổ thực tế hiện nay khi so sánh với đường 
bờ, địa hình, hoạt động của lòng sông cổ Thái 
Bình và sông Hồng. 
Application of numerical model Simclast for studying 
475 
Hình 9. Kết quả so sánh đường bờ hiện đại theo dữ liệu vệ tinh Google Earth và kết quả mô hình 
KẾT LUẬN 
Trên cơ sở nghiên cứu sự phát triển của đồng 
bằng châu thổ sông Hồng giai đoạn Pleistocen 
muộn-Holocene bằng mô hình số Simclast cho 
phép rút ra một số kết luận như sau: 
Địa hình khu vực nghiên cứu ít có sự 
thay đổi vào đầu Holocen, lục địa bị thu hẹp 
nhanh sau giai đoạn biển tiến, hình thái bề mặt 
địa hình thay đổi mạnh ngoài khơi khu vực 
sông Hồng, sông Đáy và ít thay đổi khu vực 
ngoài khơi sông Thái Bình. Cùng với quá trình 
này, xu thế hoạt động của các sông cổ cũng có 
sự khác biệt: Nhóm sông Hồng cổ có thời gian 
hoạt động mạng mẽ ở thượng nguồn giai đoạn 
đầu (đến 11.000 năm BP) và kéo dài tới 
khoảng 2.000 năm BP làm cho quá trình bồi - 
xói liên tục gây thay đổi địa hình. Nhóm sông 
Thái Bình cổ đánh dấu sự hoạt động bình ổn ở 
giai đoạn trước 5.500 năm BP và sau đó hoạt 
động mạnh mẽ hơn cho đến hiện đại nhưng ít 
gây xáo trộn về hình thái địa hình. Dao động 
mực nước biển là một trong các yếu tố chi 
phối mạnh mẽ tới sự hình thành và phát triển 
châu thổ. 
Sự dịch chuyển đường bờ trong giai đoạn 
6000 năm qua cho thấy sự tương quan nhất 
định với xu thế xâm lấn của đồng bằng châu 
thổ. Đường bờ xuất ra từ mô hình vào thời 
điểm hiện tại cho thấy sự tương đồng với 
đường bờ hiện tại. Một số sự khác biệt có thể 
đến từ hoạt động nhân sinh. 
Lời cảm ơn: Bài báo được thực hiện trong 
khuôn khổ Nhiệm vụ Hợp tác quốc tế Nghị 
định thư Việt Nam - Trung Quốc mã số 
NĐT.01.CHN/15. Bài báo xin cảm ơn đề tài 
Điều tra cơ bản mã số VAST.ĐTCB.02/16–
17, Nhiệm vụ Hợp tác Quốc tế 
QTRU02.01/18–19 đã bổ sung các số liệu để 
công trình được hoàn thiện. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Elliott, T., 1986. Deltas. In: Reading, H. 
G. (Ed.), Sedimentary Environments and 
Facies. Blackwell Scientific Publications, 
Oxford, pp. 113–154. 
[2] Stanley, D. J., and Warne, A. G., 1994. 
Worldwide initiation of Holocene marine 
deltas by deceleration of sea-level rise. 
Science, 265(5169), 228–231. 
[3] Hori, K., Tanabe, S., Saito, Y., Haruyama, 
S., Nguyen, V., and Kitamura, A., 2004. 
Delta initiation and Holocene sea-level 
change: example from the Song Hong 
Mai Duc Dong et al. 
476 
(Red river) delta, Vietnam. Sedimentary 
Geology, 164(3–4), 237–249. 
[4] Tanabe, S., Hori, K., Saito, Y., Haruyama, 
S., Sato, Y., and Hiraide, S., 2003. 
Sedimentary facies and radiocarbon dates 
of the Nam Dinh-1 core from the Song 
Hong (Red River) delta, Vietnam. Journal 
of Asian Earth Sciences, 21(5), 503–513. 
[5] Funabiki, A., Haruyama, S., Van Quy, N., 
Van Hai, P., and Thai, D. H., 2007. 
Holocene delta plain development in the 
Song Hong (Red river) delta, Vietnam. 
Journal of Asian Earth Sciences, 30(3–4), 
518–529. 
[6] Hanebuth, T. J., Saito, Y., Tanabe, S., Vu, 
Q. L., and Ngo, Q. T., 2006. Sea levels 
during late marine isotope stage 3 (or 
older?) reported from the Red river delta 
(northern Vietnam) and adjacent regions. 
Quaternary International, 145, 119–134. 
[7] Tanabe, S., Hori, K., Saito, Y., Haruyama, 
S., and Kitamura, A., 2003. Song Hong 
(Red river) delta evolution related to 
millennium-scale Holocene sea-level 
changes. Quaternary Science Reviews, 
22(21–22), 2345–2361. 
[8] Dalman, R. A. F., 2009. Multi-scale 
simulation of fluvio-deltaic and shallow 
marine stratigraphy. Thesis in Delft 
University of Technology, Netherland. 
156 p. 
[9] Kabuth, A. K., 2009. Geomorphological 
Modelling of Late Pleistocene to 
Holocene Evolution of the Southeast 
Vietnamese Shelf and the Mekong Delta 
(Doctoral dissertation). Coastal Research 
Laboratory Research and Technology 
Centre Christian Albrechts University 
Kiel, Germany. 74 p. 
[10] Bui, V. D., 2011. The Late Quaternary 
Evolution of the Southern Vietnamese 
Continental Shelf. Doctoral dissertation, 
Christian-Albrechts Universität Kiel. 
136 p. 
[11] Tapponnier, P., Peltzer, G., and Armijo, 
R. On the mechanics of the collision 
between Asia and India. Collision 
Tectonics, 115–157. 
[12] Apponnier, P., Peltzer, G. L. D. A. Y., Le 
Dain, A. Y., Armijo, R., and Cobbold, P., 
1982. Propagating extrusion tectonics in 
Asia: New insights from simple 
experiments with plasticine. Geology, 
10(12), 611–616. 
[13] Rangin, C., Klein, M., Roques, D., and Le 
Pichón, X., 1995. The Red river fault 
system in the Tonkin Gulf, Vietnam. 
Tectonophysics, 243(3–4), 209–222. 
[14] Milliman, J. D., 1995. River discharge to 
the sea: a global river index (GLORI). 
LOICZ reports and studies, 2. 
[15] Ngo Quang Toan, Dang Van Doi, Dang 
Mai, Dau Hien, 1999. Map of the 
weathering crust and Quaternary 
sediments in Vietnam, scale 1:1.000.000. 
North Vietnam geologycal mapping 
division, 346 p. (in Vietnamese). 
[16] Haruyama, S., D. D. Lam and N. D. Dy., 
2001. On the Pleistocene/Holocene 
boundary and Holocene stratigraphy in the 
Bac Bo plain. Journal of Geology Series 
B, No. 17/18-1, 1–9. 
[17] Minh, T and Dan, N. V., 1991. 
Groundwater resources in Hanoi area. 
Geological Survey of Vietnam. (in 
Vietnamese). 
[18] Saito, Y., Tanabe, S., Vu, Q. L., 
Hanebuth, T. J. J., Kitamura, A., and Ngo, 
Q. T., 2004. Stratigraphy and Holocene 
evolution of the Song Hong (Red river) 
delta, Vietnam. Stratigraphy of 
Quaternary System in Deltas of Vietnam. 
Department of Geology and Minerals of 
Vietnam, Hanoi, Vietnam, pp. 6–24. 
[19] Tanabe, S., Saito, Y., Vu, Q. L., 
Hanebuth, T. J., Ngo, Q. L., and 
Kitamura, A., 2006. Holocene evolution 
of the Song Hong (Red river) delta 
system, northern Vietnam. Sedimentary 
Geology, 187(1–2), 29–61. 
[20] Doan, D. L., 2001. Some facts of sea-level 
fluctuation during the Late Pleistocene-
Holocene in HaLong bay and Ninh Binh 
area. Vietnam Journal of Earth Sciences, 
23(2), 86–91. 
[21] Lieu. N. T. H., 2006. Holocene evolution 
of the Central Red river delta, Northern 
Vietnam. PhD Thesis. Germany, 130 p. 
[22] Mai Duc Dong, Nguyen Trung Thanh, 
Nguyen Van Diep, Le Duc Anh, Pham 
Application of numerical model Simclast for studying 
477 
Quoc Hiep, Vu Thi Thu Anh., 2016. Some 
reveal boundaries sequence stratigraphy in 
the Red river delta area based in high-
resolution seismic data. Proceedings of 
the 14
th
 Academy of Science and 
Technology Youth conference ISBN987-
604-913-494-4. pp 107–117 (in 
Vietnamese). 
[23] Nguyen Trung Thanh, Paul Jing Liu, Mai 
Duc Dong, Dang Hoai Nhon, Do Huy 
Cuong, Bui Viet Dung, Phung Van Phach, 
Tran Duc Thanh, Duong Quoc Hung, Ngo 
Thanh Nga, 2018. Late Pleistocene-
Holocene sequence stratigraphy of the 
subaqueous Red River delta and the 
adjacent shelf. Vietnam Journal of Earth 
Sciences, 40(3), 271–287. 
[24] Tran, N., and Ngo, Q. T., 2000. 
Development history of deposits in the 
Quaternary of Vietnam. The weathering 
crust and Quaternary sediments in 
Vietnam. Department of Geology and 
Minerals of Vietnam, Hanoi, pp. 177–192. 
[25] Mathers, S., Davies, J., and Mcdonald, A. 
Zalasiewicz, Ja, And Marsh, S., 1996. The 
Red river delta of Vietnam. British 
Geological Survey Technical Report. 41 p. 
[26] Mathers, S., and Zalasiewicz, J., 1999. 
Holocene sedimentary architecture of the 
Red river delta, Vietnam. Journal of 
Coastal Research, 314–325. 
[27] Ross, K., 2011. Fate of Red river 
Sediment in the Gulf of Tonkin, Vietnam. 
Master Thesis. North Carolina State 
University. 
[28] Tran Duc Thanh and Dinh Van Huy, 
2000. Coastal development of the modern 
Red River Delta. Bulletin of the 
Geological Survey of Japan, 51, 276. 
[29] Li, Z., Saito, Y., Matsumoto, E., Wang, 
Y., Tanabe, S., and Vu, Q. L., 2006. 
Climate change and human impact on the 
Song Hong (Red river) delta, Vietnam, 
during the Holocene. Quaternary 
International, 144(1), 4–28. 
[30] Doan Dinh Lam, 2003. Development 
history of sediment in Red river delta. 
Ph.D thesis of Geology, Vietnam National 
University, Hanoi. 193 p, (in Vietnamese). 
[31] Doan Dinh Lam, 2008. Delta lobes of the 
Red River Delta. Journal of Geology, 
series A, No. 308, 59–67. (inVietnamese). 
[32] Milliman, J. D., and Syvitski, J. P., 1992. 
Geomorphic/tectonic control of sediment 
discharge to the ocean: the importance of 
small mountainous rivers. The journal of 
Geology, 100(5), 525–544. 
[33] Nhuan, M. T., Van Ngoi, C., Nghi, T., 
Tien, D. M., van Weering, T. C., and van 
den Bergh, G. D., 2007. Sediment 
distribution and transport at the nearshore 
zone of the Red River delta, Northern 
Vietnam. Journal of Asian Earth Sciences, 
29(4), 558–565. 
[34] Einsele. G., 2000. Sedimentary Basins: 
Evolution, Facies, and Sediment Budget. 
SpringerVerlag, Berlin, Heidelberg, New 
York, London, Paris, Tokyo, Hong Kong, 
Barcelona, Budapest, 792 p 
[35] Dang, T. H., Coynel, A., Orange, D., 
Blanc, G., Etcheber, H., and Le, L. A., 
2010. Long-term monitoring (1960–2008) 
of the river-sediment transport in the Red 
river Watershed (Vietnam): Temporal 
variability and dam-reservoir impact. 
Science of the Total Environment, 
408(20), 4654–4664. 
[36] Vinh, V. D., Ouillon, S., Thanh, T. D., 
and Chu, L. V., 2014. Impact of the Hoa 
Binh dam (Vietnam) on water and 
sediment budgets in the Red River basin 
and delta. Hydrology and Earth System 
Sciences, 18(10), 3987–4005. 
[37] Tran Duc Thanh, 1995. Lower limit and 
stratigraphy of Holocene sediments in the 
Tonkin Gulf shelf. Vietnam Journal of 
Science and Technology, 33(2), 22–30. 
[38] Le, T. P. Q., Garnier, J., Gilles, B., 
Sylvain, T., and Van Minh, C., 2007. The 
changing flow regime and sediment load 
of the Red river, Vietnam. Journal of 
Hydrology, 334(1–2), 199–214. 
[39] Luu, T. N. M., Garnier, J., Billen, G., 
Orange, D., Némery, J., Le, T. P. Q., Tran, 
H. T., and Le, L. A., 2010. Hydrological 
regime and water budget of the Red River 
Delta (Northern Vietnam). Journal of 
Asian Earth Sciences, 37(3), 219–228. 
Mai Duc Dong et al. 
478 
[40] Vinh, V. D., and Thanh, T. D., 2014. 
Characteristics of current variation in the 
coastal area of red river delta-results of 
resaerch using the 3D numerical model. 
Vietnam Journal of Marine Science and 
Technology, 14(2), 139–148. 
[41] Coleman, J. M., and Wright, L. D., 1975. 
Modern river deltas: variability of 
processes and sand bodies. In: Broussard, 
M.L. (Ed.), Deltas: Models for 
Exploration. Houston Geological Society, 
Houston, pp. 99–149. 
[42] Ministry of Agriculture and Rural 
Development, 2009. Research 
application on the use of MIKE21 model 
to assess, predict and prevent river bank 
erosion (north, central and south 
Vietnam). Technical report of the 
project 2006–2008 of the Ministry of 
Agriculture and Rural Development, 
Hanoi, Vietnam. (in Vietnamese). 
[43] Yao, Y., Harff, J., Meyer, M., and Zhan, 
W., 2009. Reconstruction of 
paleocoastlines for the northwestern South 
China Sea since the Last Glacial 
Maximum. Science in China Series D: 
Earth Sciences, 52(8), 1127–1136. 

File đính kèm:

  • pdfung_dung_mo_hinh_so_simclast_nghien_cuu_su_phat_trien_cua_ch.pdf