Ứng dụng mô hình số Simclast nghiên cứu sự phát triển của châu thổ sông Hồng giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen
Mô hình Simclast đã được kiểm chứng và áp dụng có hiệu quả trong mô phỏng quá trình hình thành và phát
triển một số châu thổ lớn trên thế giới thông qua quá trình tương tác sông - biển chu kỳ dài và sau đó đã
được thực hiện tại châu thổ sông Hồng. Kết quả mô hình đã chỉ ra rằng phần lục địa khu vực nghiên cứu thu
hẹp nhanh sau giai đoạn biển tiến (10.000-8.000 năm BP), bề mặt địa hình chủ yếu thay đổi mạnh ở ngoài
khơi hệ thống sông Hồng, sông Đáy và ít thay đổi ngoài khơi hệ thống sông Thái Bình. Hoạt động của các
lòng sông cổ cũng có sự khác biệt, hệ thống sông Hồng cổ có thời gian hoạt động mạnh mẽ ở thượng nguồn
đến khoảng 11.000 năm BP và kéo dài tới khoảng 2.000 năm BP làm cho quá trình bồi - xói liên tục gây
thay đổi hình thái địa hình. Hệ thống sông Thái Bình cổ đánh dấu sự hoạt động bình ổn cho đến 5.500 năm
BP và hoạt động mạnh mẽ hơn kể từ đây đến giai đoạn hiện đại nhưng ít gây xáo trộn về địa hình. Đường bờ
hiện đại từ mô hình sô tương đối phù hợp với đường bờ hiện nay.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng mô hình số Simclast nghiên cứu sự phát triển của châu thổ sông Hồng giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen
463 Vietnam Journal of Marine Science and Technology; Vol. 19, No. 4; 2019: 463–478 DOI: https://doi.org/10.15625/1859-3097/19/4/12706 Application of numerical model Simclast for studying the development of Red river delta in late Pleistocene-Holocene Mai Duc Dong 1 , Phung Van Phach 1 , Nguyen Trung Thanh 1 , Duong Quoc Hung 1 , Pham Quoc Hiep 1 , Nguyen Van Diep 1 , Renat Shakirov 2 1 Institute of Marine Geology and Geophysics, VAST, Vietnam 2 Far East Geological Institute, FEB RAS, Russia * E-mail: ducdong.geo@gmail.com Received: 29 December 2018; Accepted: 28 June 2019 ©2019 Vietnam Academy of Science and Technology (VAST) Abstract The Simclast model has been verified and applied effectively in simulating the delta development for some major deltas in the world. In this study, we applied the model Simclast for simulating the history of the Red river delta development in late Pleistocene-Holocene. Results of the model reveal that the mainland of study area had reduced rapidly during transgression period (10,000-8,000 BP). The morphology changed significantly in the paleo-Red and Day river systems, but slightly in the paleo Thai Binh river system. The paleo-river network had been active in upper part before 11,000 BP and then shifted seaward until 2,000 BP. The river-sea interaction causes erosion and accumulation; as a result the morphology changed remarkably. The paleo-Thai Binh river had been inactive until 5,500 BP and then it was active but the morphology had not varied remarkably. The recent coastline generated from Simclast is relatively in accordance with the present coastline. Keywords: Simclast model, delta development, Red river delta, late Pleistocen-Holocene Citation: Mai Duc Dong, Phung Van Phach, Nguyen Trung Thanh, Duong Quoc Hung, Pham Quoc Hiep, Nguyen Van Diep, Renat Shakirov, 2019. Application of numerical model Simclast for studying the development of Red river delta in late Pleistocene-Holocene. Vietnam Journal of Marine Science and Technology, 19(4), 463–478. 464 Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển, Tập 19, Số 4; 2019: 463–478 DOI: https://doi.org/10.15625/1859-3097/19/4/12706 Ứng dụng mô hình số Simclast nghiên cứu sự phát triển của châu thổ sông Hồng giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen Mai Đức Đông1, Phùng Văn Phách1, Nguyễn Trung Thành1, Dương Quốc Hưng1, Phạm Quốc Hiệp1, Nguyễn Văn Điệp1, Renat Shakirov2 1Viện Địa chất và Địa vật lý biển, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Việt Nam 2Viện Địa chất Viễn Đông, Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang Nga, Liên bang Nga * E-mail: ducdong.geo@gmail.com Nhận bài: 29-12-2018; Chấp nhận đăng: 28-6-2019 Tóm tắt Mô hình Simclast đã được kiểm chứng và áp dụng có hiệu quả trong mô phỏng quá trình hình thành và phát triển một số châu thổ lớn trên thế giới thông qua quá trình tương tác sông - biển chu kỳ dài và sau đó đã được thực hiện tại châu thổ sông Hồng. Kết quả mô hình đã chỉ ra rằng phần lục địa khu vực nghiên cứu thu hẹp nhanh sau giai đoạn biển tiến (10.000-8.000 năm BP), bề mặt địa hình chủ yếu thay đổi mạnh ở ngoài khơi hệ thống sông Hồng, sông Đáy và ít thay đổi ngoài khơi hệ thống sông Thái Bình. Hoạt động của các lòng sông cổ cũng có sự khác biệt, hệ thống sông Hồng cổ có thời gian hoạt động mạnh mẽ ở thượng nguồn đến khoảng 11.000 năm BP và kéo dài tới khoảng 2.000 năm BP làm cho quá trình bồi - xói liên tục gây thay đổi hình thái địa hình. Hệ thống sông Thái Bình cổ đánh dấu sự hoạt động bình ổn cho đến 5.500 năm BP và hoạt động mạnh mẽ hơn kể từ đây đến giai đoạn hiện đại nhưng ít gây xáo trộn về địa hình. Đường bờ hiện đại từ mô hình sô tương đối phù hợp với đường bờ hiện nay. Từ khóa: Mô hình số Simclast, phát triển châu thổ, châu thổ sông Hồng, Pleistocen muộn – Holocen. MỞ ĐẦU Châu thổ được định nghĩa là một thể địa chất nổi lên tách biệt với xung quanh bởi đường bờ được hình thành nơi sông đổ ra đại dương, biển kín, hồ, hoặc đầm phá và được tích tụ dưới sự chi phối bởi các quá trình động lực khu vực và có thể tái phân bố bởi các quá trình của bồn [1]. Các châu thổ hiện đại trên thế giới hình thành như là kết quả của sự suy giảm tốc độ mực nước biển dâng vào khoảng 8.500- 6.500 năm cách ngày nay [2]. Châu thổ sông Hồng (CTSH) nằm ở phía tây vịnh Bắc Bộ, là một trong hai châu thổ lớn của đất nước bắt đầu hình thành cách ngày nay khoảng 8.500-8.000 năm BP [3, 4]. Các nghiên cứu về tiến hóa trầm tích đã chỉ ra rằng, lịch sử hình thành và phát triển châu thổ trong Holocen (11.700 năm BP) phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố như dao động mực nước biển, lưu lượng trầm tích của các hệ thống sông, tốc độ tích tụ trầm tích, địa hình đáy, chế độ động lực và hoạt động tân kiến tạo trong khu vực [4–7]. Các kết quả nghiên cứu về dao động mực nước biển trong giai đoạn Holocen - hiện đại, lịch sử hình thành và tiến hóa CTSH có thể chia ra 3 giai đoạn chính: Giai đoạn từ cực đại băng hà cuối cùng đến 11.000 năm BP, mực nước biển ở độ sâu tương ứng khoảng (–)45–50 m, hoạt động của sông chi phối khu vực đồng bằng châu thổ, từ 11.000 năm BP đến 8.500 năm BP mực nước biển dâng cao hơn lên đến –7 m đã biến khu vực nghiên cứu trờ thành môi trường estuary và từ Application of numerical model Simclast for studying 465 8.500 năm BP đến nay đánh dấu sự hình thành và phát triển châu thổ sông Hồng hiện đại. Tác động phức tạp của các quá trình sông - biển chu kỳ dài dưới ảnh hưởng của sự thay đổi mực nước biển đã được xây dựng lại chi tiết trên cơ sở mô hình lý thuyết thông qua Simclast [8], sau đó được áp dụng trên châu thổ sông Mekong [9], khu vực thềm Nha Trang (Nha Trang shelf) [10] đã cho thấy kết quả có thể ứng dụng được để quan sát nghiên cứu quá trình tiến hóa của châu thổ. Trong đó, các yếu tố đầu vào của mô hình (các yếu tố thủy thạch động học), đặc biệt là dao động ... tác sông biển tại các cửa sông cổ. Hình thái bề mặt địa hình ít thay đổi đến khoảng 11.000 năm BP ở giai đoạn này địa hình lục địa chủ yếu chịu hoạt động của nhóm sông Hồng cổ. Hình thái bề mặt địa hình sau đó thay đổi phức tạp. Diện tích đất liền khu vực đồng bằng châu thổ bị thu hẹp nhanh sau giai đoạn biển tiến, khu vực biển nông gần hệ thống sông cổ thay đổi mạnh (vùng 3). Sự thay dổi này diễn ra do quá trình xói lở - bồi tụ tích cực cở cửa sông cổ gây ra. Quá trình này làm các dấu tích của lòng sông cổ sông Hồng không được biểu hiện rõ vtrên các mặt cắt địa chấn phân giải cao (hình 1b). Sự hoạt động của nhóm sông Đáy cổ cũng đã gây ra sự thay đổi bề mặt địa hình nhưng chỉ có thể nhận thấy sự hoạt động của các sông địa phương hiện nay và phát hiện được trên một số mặt cắt địa chấn (ví dụ hình 4). Địa hình khu vực bị ảnh hưởng bởi sông Thái Bình cổ ít có sự thay đổi, trái ngược hẳn với khu vực còn lại. Sự hoạt động bình ổn của nhóm sông này có thể làm cho các trầm tích ít có xáo trộn và cũng có thể quan sát trên các mặt cắt địa chấn phân giải cao khu vực, đây là điều kiện rất tốt để xác định dấu tích của lòng sông cổ trên các mặt cắt địa chấn với các cấu tạo xiên chéo rõ ràng (hình 1a và hình 8) bởi quá trình lắng đọng trầm tích ổn định trong lòng sông trong suốt thời kỳ biển tiến. Hình 8. Ảnh hưởng của dòng chảy ổn định trong lòng sông cổ trên mặt cắt RR2-18. Mặt cắt gốc (trên) tham khảo từ Ross (2011) [27], mặt cắt minh giải (dưới) tham khảo từ Đông và nnk., [22] Hoạt động của con người có ảnh hưởng lớn tới các quá trình tự nhiên, đặc biệt tại cửa các con sông lớn, nơi phù sa liên tục được bồi đắp. Quá trình bồi tụ/xói lở diễn ra mạnh tại cửa sông Hồng và sông Đáy sẽ làm đường bờ thay đổi đáng kể. Đường bờ dự kiến từ kết quả mô hình (hình 6) tại thời điểm 10.000 năm BP khá tương đồng với kết quả nghiên cứu trên quy mô khu vực của Yao et al., (2009) [43], trong giai đoạn 10.000-6.000 năm BP chưa có sự tương đồng với kết quả xác định đường bờ cổ chi tiết hơn so với Tanabe và nnk., (2006) [19]. Vị trí đường bờ kể từ 6.000 năm BP đến hiện đại tương đồng với các nghiên cứu trước đây. Nguyên nhân có thể kể đến mức độ chi tiết của tài liệu, mục tiêu nghiên cứu... Nhưng đường bờ hiện đại khi so sánh với đường bờ hiện tại từ dữ liệu từ Google Earth lại khá tương đồng, ngoại trừ vị trí cửa Ba Lạt và cửa Đáy (hình 9). Như vậy, có thể nói rằng nếu bỏ qua các tác động của con người thì đường bờ biển tại thời điểm hiện đại xuất ra từ mô hình số Simclast tương đối trùng khí với đường bờ cửa sông châu thổ thực tế hiện nay khi so sánh với đường bờ, địa hình, hoạt động của lòng sông cổ Thái Bình và sông Hồng. Application of numerical model Simclast for studying 475 Hình 9. Kết quả so sánh đường bờ hiện đại theo dữ liệu vệ tinh Google Earth và kết quả mô hình KẾT LUẬN Trên cơ sở nghiên cứu sự phát triển của đồng bằng châu thổ sông Hồng giai đoạn Pleistocen muộn-Holocene bằng mô hình số Simclast cho phép rút ra một số kết luận như sau: Địa hình khu vực nghiên cứu ít có sự thay đổi vào đầu Holocen, lục địa bị thu hẹp nhanh sau giai đoạn biển tiến, hình thái bề mặt địa hình thay đổi mạnh ngoài khơi khu vực sông Hồng, sông Đáy và ít thay đổi khu vực ngoài khơi sông Thái Bình. Cùng với quá trình này, xu thế hoạt động của các sông cổ cũng có sự khác biệt: Nhóm sông Hồng cổ có thời gian hoạt động mạng mẽ ở thượng nguồn giai đoạn đầu (đến 11.000 năm BP) và kéo dài tới khoảng 2.000 năm BP làm cho quá trình bồi - xói liên tục gây thay đổi địa hình. Nhóm sông Thái Bình cổ đánh dấu sự hoạt động bình ổn ở giai đoạn trước 5.500 năm BP và sau đó hoạt động mạnh mẽ hơn cho đến hiện đại nhưng ít gây xáo trộn về hình thái địa hình. Dao động mực nước biển là một trong các yếu tố chi phối mạnh mẽ tới sự hình thành và phát triển châu thổ. Sự dịch chuyển đường bờ trong giai đoạn 6000 năm qua cho thấy sự tương quan nhất định với xu thế xâm lấn của đồng bằng châu thổ. Đường bờ xuất ra từ mô hình vào thời điểm hiện tại cho thấy sự tương đồng với đường bờ hiện tại. Một số sự khác biệt có thể đến từ hoạt động nhân sinh. Lời cảm ơn: Bài báo được thực hiện trong khuôn khổ Nhiệm vụ Hợp tác quốc tế Nghị định thư Việt Nam - Trung Quốc mã số NĐT.01.CHN/15. Bài báo xin cảm ơn đề tài Điều tra cơ bản mã số VAST.ĐTCB.02/16– 17, Nhiệm vụ Hợp tác Quốc tế QTRU02.01/18–19 đã bổ sung các số liệu để công trình được hoàn thiện. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Elliott, T., 1986. Deltas. In: Reading, H. G. (Ed.), Sedimentary Environments and Facies. Blackwell Scientific Publications, Oxford, pp. 113–154. [2] Stanley, D. J., and Warne, A. G., 1994. Worldwide initiation of Holocene marine deltas by deceleration of sea-level rise. Science, 265(5169), 228–231. [3] Hori, K., Tanabe, S., Saito, Y., Haruyama, S., Nguyen, V., and Kitamura, A., 2004. Delta initiation and Holocene sea-level change: example from the Song Hong Mai Duc Dong et al. 476 (Red river) delta, Vietnam. Sedimentary Geology, 164(3–4), 237–249. [4] Tanabe, S., Hori, K., Saito, Y., Haruyama, S., Sato, Y., and Hiraide, S., 2003. Sedimentary facies and radiocarbon dates of the Nam Dinh-1 core from the Song Hong (Red River) delta, Vietnam. Journal of Asian Earth Sciences, 21(5), 503–513. [5] Funabiki, A., Haruyama, S., Van Quy, N., Van Hai, P., and Thai, D. H., 2007. Holocene delta plain development in the Song Hong (Red river) delta, Vietnam. Journal of Asian Earth Sciences, 30(3–4), 518–529. [6] Hanebuth, T. J., Saito, Y., Tanabe, S., Vu, Q. L., and Ngo, Q. T., 2006. Sea levels during late marine isotope stage 3 (or older?) reported from the Red river delta (northern Vietnam) and adjacent regions. Quaternary International, 145, 119–134. [7] Tanabe, S., Hori, K., Saito, Y., Haruyama, S., and Kitamura, A., 2003. Song Hong (Red river) delta evolution related to millennium-scale Holocene sea-level changes. Quaternary Science Reviews, 22(21–22), 2345–2361. [8] Dalman, R. A. F., 2009. Multi-scale simulation of fluvio-deltaic and shallow marine stratigraphy. Thesis in Delft University of Technology, Netherland. 156 p. [9] Kabuth, A. K., 2009. Geomorphological Modelling of Late Pleistocene to Holocene Evolution of the Southeast Vietnamese Shelf and the Mekong Delta (Doctoral dissertation). Coastal Research Laboratory Research and Technology Centre Christian Albrechts University Kiel, Germany. 74 p. [10] Bui, V. D., 2011. The Late Quaternary Evolution of the Southern Vietnamese Continental Shelf. Doctoral dissertation, Christian-Albrechts Universität Kiel. 136 p. [11] Tapponnier, P., Peltzer, G., and Armijo, R. On the mechanics of the collision between Asia and India. Collision Tectonics, 115–157. [12] Apponnier, P., Peltzer, G. L. D. A. Y., Le Dain, A. Y., Armijo, R., and Cobbold, P., 1982. Propagating extrusion tectonics in Asia: New insights from simple experiments with plasticine. Geology, 10(12), 611–616. [13] Rangin, C., Klein, M., Roques, D., and Le Pichón, X., 1995. The Red river fault system in the Tonkin Gulf, Vietnam. Tectonophysics, 243(3–4), 209–222. [14] Milliman, J. D., 1995. River discharge to the sea: a global river index (GLORI). LOICZ reports and studies, 2. [15] Ngo Quang Toan, Dang Van Doi, Dang Mai, Dau Hien, 1999. Map of the weathering crust and Quaternary sediments in Vietnam, scale 1:1.000.000. North Vietnam geologycal mapping division, 346 p. (in Vietnamese). [16] Haruyama, S., D. D. Lam and N. D. Dy., 2001. On the Pleistocene/Holocene boundary and Holocene stratigraphy in the Bac Bo plain. Journal of Geology Series B, No. 17/18-1, 1–9. [17] Minh, T and Dan, N. V., 1991. Groundwater resources in Hanoi area. Geological Survey of Vietnam. (in Vietnamese). [18] Saito, Y., Tanabe, S., Vu, Q. L., Hanebuth, T. J. J., Kitamura, A., and Ngo, Q. T., 2004. Stratigraphy and Holocene evolution of the Song Hong (Red river) delta, Vietnam. Stratigraphy of Quaternary System in Deltas of Vietnam. Department of Geology and Minerals of Vietnam, Hanoi, Vietnam, pp. 6–24. [19] Tanabe, S., Saito, Y., Vu, Q. L., Hanebuth, T. J., Ngo, Q. L., and Kitamura, A., 2006. Holocene evolution of the Song Hong (Red river) delta system, northern Vietnam. Sedimentary Geology, 187(1–2), 29–61. [20] Doan, D. L., 2001. Some facts of sea-level fluctuation during the Late Pleistocene- Holocene in HaLong bay and Ninh Binh area. Vietnam Journal of Earth Sciences, 23(2), 86–91. [21] Lieu. N. T. H., 2006. Holocene evolution of the Central Red river delta, Northern Vietnam. PhD Thesis. Germany, 130 p. [22] Mai Duc Dong, Nguyen Trung Thanh, Nguyen Van Diep, Le Duc Anh, Pham Application of numerical model Simclast for studying 477 Quoc Hiep, Vu Thi Thu Anh., 2016. Some reveal boundaries sequence stratigraphy in the Red river delta area based in high- resolution seismic data. Proceedings of the 14 th Academy of Science and Technology Youth conference ISBN987- 604-913-494-4. pp 107–117 (in Vietnamese). [23] Nguyen Trung Thanh, Paul Jing Liu, Mai Duc Dong, Dang Hoai Nhon, Do Huy Cuong, Bui Viet Dung, Phung Van Phach, Tran Duc Thanh, Duong Quoc Hung, Ngo Thanh Nga, 2018. Late Pleistocene- Holocene sequence stratigraphy of the subaqueous Red River delta and the adjacent shelf. Vietnam Journal of Earth Sciences, 40(3), 271–287. [24] Tran, N., and Ngo, Q. T., 2000. Development history of deposits in the Quaternary of Vietnam. The weathering crust and Quaternary sediments in Vietnam. Department of Geology and Minerals of Vietnam, Hanoi, pp. 177–192. [25] Mathers, S., Davies, J., and Mcdonald, A. Zalasiewicz, Ja, And Marsh, S., 1996. The Red river delta of Vietnam. British Geological Survey Technical Report. 41 p. [26] Mathers, S., and Zalasiewicz, J., 1999. Holocene sedimentary architecture of the Red river delta, Vietnam. Journal of Coastal Research, 314–325. [27] Ross, K., 2011. Fate of Red river Sediment in the Gulf of Tonkin, Vietnam. Master Thesis. North Carolina State University. [28] Tran Duc Thanh and Dinh Van Huy, 2000. Coastal development of the modern Red River Delta. Bulletin of the Geological Survey of Japan, 51, 276. [29] Li, Z., Saito, Y., Matsumoto, E., Wang, Y., Tanabe, S., and Vu, Q. L., 2006. Climate change and human impact on the Song Hong (Red river) delta, Vietnam, during the Holocene. Quaternary International, 144(1), 4–28. [30] Doan Dinh Lam, 2003. Development history of sediment in Red river delta. Ph.D thesis of Geology, Vietnam National University, Hanoi. 193 p, (in Vietnamese). [31] Doan Dinh Lam, 2008. Delta lobes of the Red River Delta. Journal of Geology, series A, No. 308, 59–67. (inVietnamese). [32] Milliman, J. D., and Syvitski, J. P., 1992. Geomorphic/tectonic control of sediment discharge to the ocean: the importance of small mountainous rivers. The journal of Geology, 100(5), 525–544. [33] Nhuan, M. T., Van Ngoi, C., Nghi, T., Tien, D. M., van Weering, T. C., and van den Bergh, G. D., 2007. Sediment distribution and transport at the nearshore zone of the Red River delta, Northern Vietnam. Journal of Asian Earth Sciences, 29(4), 558–565. [34] Einsele. G., 2000. Sedimentary Basins: Evolution, Facies, and Sediment Budget. SpringerVerlag, Berlin, Heidelberg, New York, London, Paris, Tokyo, Hong Kong, Barcelona, Budapest, 792 p [35] Dang, T. H., Coynel, A., Orange, D., Blanc, G., Etcheber, H., and Le, L. A., 2010. Long-term monitoring (1960–2008) of the river-sediment transport in the Red river Watershed (Vietnam): Temporal variability and dam-reservoir impact. Science of the Total Environment, 408(20), 4654–4664. [36] Vinh, V. D., Ouillon, S., Thanh, T. D., and Chu, L. V., 2014. Impact of the Hoa Binh dam (Vietnam) on water and sediment budgets in the Red River basin and delta. Hydrology and Earth System Sciences, 18(10), 3987–4005. [37] Tran Duc Thanh, 1995. Lower limit and stratigraphy of Holocene sediments in the Tonkin Gulf shelf. Vietnam Journal of Science and Technology, 33(2), 22–30. [38] Le, T. P. Q., Garnier, J., Gilles, B., Sylvain, T., and Van Minh, C., 2007. The changing flow regime and sediment load of the Red river, Vietnam. Journal of Hydrology, 334(1–2), 199–214. [39] Luu, T. N. M., Garnier, J., Billen, G., Orange, D., Némery, J., Le, T. P. Q., Tran, H. T., and Le, L. A., 2010. Hydrological regime and water budget of the Red River Delta (Northern Vietnam). Journal of Asian Earth Sciences, 37(3), 219–228. Mai Duc Dong et al. 478 [40] Vinh, V. D., and Thanh, T. D., 2014. Characteristics of current variation in the coastal area of red river delta-results of resaerch using the 3D numerical model. Vietnam Journal of Marine Science and Technology, 14(2), 139–148. [41] Coleman, J. M., and Wright, L. D., 1975. Modern river deltas: variability of processes and sand bodies. In: Broussard, M.L. (Ed.), Deltas: Models for Exploration. Houston Geological Society, Houston, pp. 99–149. [42] Ministry of Agriculture and Rural Development, 2009. Research application on the use of MIKE21 model to assess, predict and prevent river bank erosion (north, central and south Vietnam). Technical report of the project 2006–2008 of the Ministry of Agriculture and Rural Development, Hanoi, Vietnam. (in Vietnamese). [43] Yao, Y., Harff, J., Meyer, M., and Zhan, W., 2009. Reconstruction of paleocoastlines for the northwestern South China Sea since the Last Glacial Maximum. Science in China Series D: Earth Sciences, 52(8), 1127–1136.
File đính kèm:
- ung_dung_mo_hinh_so_simclast_nghien_cuu_su_phat_trien_cua_ch.pdf