Truyện thơ Quốc ngữ Nam kỳ – Một loại hình văn chương bị lãng quên
Vào những thập niên đầu thế kỷ XX, truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ được xuất bản, tái bản với số
lượng lớn và bày bán phổ biến khắp các hiệu sách với giá bình dân. Thời đó, truyện thơ Quốc ngữ
được người dân Nam Kỳ lục tỉnh yêu chuộng. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử và nhu cầu thưởng
thức văn chương của người dân thay đổi nên từ giữa thế kỷ XX loại hình văn chương này dần mai
một và bị lãng quên. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi giới thiệu hoàn cảnh ra đời, thị trường và
tiếp nhận của người đọc đối với truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Truyện thơ Quốc ngữ Nam kỳ – Một loại hình văn chương bị lãng quên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Truyện thơ Quốc ngữ Nam kỳ – Một loại hình văn chương bị lãng quên
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 4 17 TRUYỆN THƠ QUỐC NGỮ NAM KỲ – MỘT LOẠI HÌNH VĂN CHƯƠNG BỊ LÃNG QUÊN Dương Mỹ Thắm Trường Đại học Văn Hiến thamdm@vhu.edu.vn Ngày nhận bài: 7/6/2019; Ngày duyệt đăng: 27/8/2019 Tóm tắt Vào những thập niên đầu thế kỷ XX, truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ được xuất bản, tái bản với số lượng lớn và bày bán phổ biến khắp các hiệu sách với giá bình dân. Thời đó, truyện thơ Quốc ngữ được người dân Nam Kỳ lục tỉnh yêu chuộng. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử và nhu cầu thưởng thức văn chương của người dân thay đổi nên từ giữa thế kỷ XX loại hình văn chương này dần mai một và bị lãng quên. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi giới thiệu hoàn cảnh ra đời, thị trường và tiếp nhận của người đọc đối với truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ. Từ khóa: Truyện thơ, Quốc ngữ, Nam Kỳ. Verse-narrative written in Vietnamese Romanized script in Southern Vietnam – A forgetful literary genre Abstract In the early decades of the 20th century, verse-narrative written in Vietnamese Romanized script in Southern Vietnam was published and republished massively and sold in most of the bookstores with the reasonable price. At this time, the verse-narative was appreciated by readers from the six southern provinces. Due to the historical conditions and changes in people’s demands for reading literary works, however, this form of literature has become unpopular and neglectful since the mid- twentieth century. Within the scope of this study, the advent of this literary genre, the market, and the readers’ reaction to verse-narrative written in Vietnamese Romanized script in the south of Vietnam are presented. Keywords: Verse-narrative, Vietnamese Romanized script, Southern Vietnam. 1. Hoàn cảnh ra đời của truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ Chính sách thay đổi hệ thống chữ viết ở Nam Kỳ Cuối thế kỷ XIX, Nam Kỳ là thuộc địa do người Pháp trực tiếp cai trị với một hệ thống luật pháp của mẫu quốc. Đứng đầu Nam Kỳ là Thống đốc và bên dưới là các chủ tỉnh người Pháp. Nhà cầm quyền Pháp áp dụng nhiều chính sách để tiến hành cai trị Nam Kỳ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thấy được tầm quan trọng của giáo dục, nhà cầm quyền Pháp đã sử dụng nó như một công cụ thống trị, phá bỏ rào cản về sự bất đồng ngôn ngữ bằng cách áp đặt nền giáo dục mới dạy chữ Pháp, chữ Quốc ngữ trong trường học thay thế chữ Nho. Theo Nguyễn Văn Trung (1974), chính quyền thực dân chính thức dùng chữ Quốc ngữ trong hành chính vào năm 1869, được đánh dấu bằng Nghị định 22/2/1869 của thống đốc Nam Kỳ, quy định bắt buộc dùng chữ viết của tiếng An Nam bằng mẫu tự Âu châu (chữ Quốc ngữ) trong giấy tờ chính thức. Nhưng mười năm sau, với nghị định 6/4/1878, người Pháp mới thực sự thi hành việc cưỡng bách dùng chữ Quốc ngữ trong hành chính. “Việc cưỡng bách dùng chữ Quốc ngữ trong hành chánh và học chánh được nhà cầm quyền Pháp (các Đề đốc) coi như một chính sách quan trọng hàng đầu” (Nguyễn Văn Trung, 1974: 26). Bên cạnh những nghị định VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 4 18 mang tính bắt buộc, nhà cầm quyền Pháp còn khuyến khích bằng tiền thưởng cho những giáo viên dạy chữ Quốc ngữ và trao giải thưởng cho người Pháp học chữ Quốc ngữ nhằm thúc đẩy nhanh việc truyền bá chữ Quốc ngữ, phục vụ chính sách đồng hóa ở Nam Kỳ nói riêng ở Việt Nam nói chung. Nhà cầm quyền Pháp chấp nhận chữ Quốc ngữ làm ngôn ngữ chung và quyết tâm xóa bỏ chữ Nho vì cho đó là một vật cản lớn đối với sự phát triển nền văn minh Âu châu. Thống đốc Nam Kỳ ban hành Nghị định 14.6.1880: “Mỗi làng, thị xã của Tổng không có trường Pháp sẽ thiết lập một trường dạy Quốc ngữ”. Đồng thời, nhà cầm quyền Pháp áp dụng chính sách “thưởng 200 quan mỗi năm” (Nguyễn Văn Trung, 1974: 40) cho giáo viên dạy chữ Quốc ngữ có dạy thêm tiếng Pháp, phát miễn phí Gia Định báo – Tờ báo quốc ngữ đầu tiên ở Nam Kỳ – và bản dịch bộ Hình luật bằng chữ Quốc ngữ cho Lý trưởng các làng ở Nam Kỳ. Đầu thế kỷ XX, nền giáo dục mới ở Nam Kỳ đã đào tạo được một đội ngũ trí thức Tây học - một tầng lớp mới trong xã hội Nam Kỳ. Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký, Nguyễn Trọng Quản, Trần Chánh Chiếu, Đặng Lễ Nghi, Trần Phong Sắc là những trí thức ở Nam Kỳ chịu ảnh hưởng của nền văn hoá Pháp vừa thông thạo chữ Quốc ngữ vừa có một nền tảng giáo dục truyền thống rất vững chắc. Họ bắt đầu những công việc như phiên âm, dịch thuật, viết báo, sáng tác văn học bằng chữ Quốc ngữ. Đối tượng độc giả ở Nam Kỳ lúc bấy giờ chủ yếu là tầng lớp công chúng thị dân và viên chức nhỏ có thị hiếu thẩm mỹ bình dân. Họ quan tâm nhiều đến sự kiện, cốt truyện, tình tiết ly kỳ và ít chú ý về ngôn ngữ và nghệ thuật văn chương. Vì thế, nội dung truyện thơ Nôm bình dân rất phù hợp với thị hiếu của họ. Nhưng các ấn phẩm in Nôm ngày càng không phù hợp với chính sách ngôn ngữ - giáo dục của thực dân Pháp. Sự thoái trào của ấn phẩm Nôm đã tạo ra một khoảng trống, đòi hỏi phải có một loại ấn phẩm khác với thứ văn tự ngày càng trở nên thông dụng hơn để thay thế. Vì vậy, công việc cần làm và có thể làm ngay được là đem các truyện thơ Nôm và truyện văn xuôi chữ Hán sẵn có phiên âm, phiên dịch ra chữ Quốc ngữ. Đây là thời kỳ giao thời chuyển dần từ văn học Nôm sang văn học Quốc ngữ, những tác phẩm như truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ ra đời và chiếm số lượng lớn trên thị trường chữ nghĩa. Vì vậy, việc phiên âm Nôm ra Quốc ngữ, soạn lại “bổn cũ”, đặt “thơ mới”, “thơ hậu” cũng được các trí thức Nam Kỳ quan tâm hơn. Có khi họ chủ động biên soạn rồi gửi nhà in thực hiện các công đoạn còn lại để xuất bản tác phẩm và trên trang bìa chỉ ghi tên tác giả, như Chiêu Quân cống Hồ của Huỳnh Tịnh Của (1906), Chàng Nhái của Lê Duy Thiện (1929), hay Hạng Võ biệt Ngu Cơ của Hoàng Minh Tự (1930). Phổ biến nhất là họ biên soạn rồi bán bản quyền cho người khác, chủ bổn có thể là cá nhân hoặc hiệu s ... ư tưởng luận đề và kẻ chống lại luận đề sẽ bị lên án. Đặc điểm chung của những truyện thơ cổ tích được người dân Nam Kỳ yêu thích đó là những câu chuyện kết thúc có hậu; có đề tài, nội dung tư tưởng gần gũi với cuộc sống của người bình dân. Nhân vật VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 4 22 chính thường là những người nghèo khổ thuộc về phe chính nghĩa, thường biểu hiện những đức tính tốt đẹp và dù ít hay nhiều đều mang đặc tính Nam Kỳ. Truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ là một sản phẩm thương mại, quyền tác giả được chuyển nhượng nhiều lần qua nhiều người, mà chủ yếu là các chủ hiệu sách hoặc nhà in. Việc sang nhượng quyền tác giả được các chủ bổn ghi rõ trên bìa sách, như trang bìa thơ Sáu Trọng của chủ bổn Phạm Văn Thình (1931) ghi rõ: “Cuốn này ông Đinh Thái Sơn đã bán đứt cho ông Lê Phước Thành. Ông Lê Phước Thành nhường lại cho tôi” (Sáu Trọng thơ, 1931). Chủ bổn có quyền đặt in tác phẩm ở nhiều nhà in khác nhau và thứ tự số lần xuất bản của ấn phẩm được tính riêng theo từng nhà in, ví dụ như cùng tác phẩm Chàng Nhái Kiển Tiên của Đặng Lễ Nghi, chủ bổn Lê Phước Thành có nội dung và hình thức giống nhau, một bản được in tại nhà in Đức Lưu Phương, lần thứ 4 được ký nộp lưu chiểu ngày 31/01/1929, bản khác in tại nhà in Xưa Nay cũng lần thứ 4 ký nộp lưu chiểu ngày 09/10/1929. Hai ấn phẩm kể trên là một tác phẩm nhưng là hai sản phẩm thương mại khác nhau, nếu không có thông tin đầy đủ độc giả thậm chí các nhà nghiên cứu sẽ dễ nhầm hai ấn phẩm này là một. Một số trường hợp năm xuất bản, số lần xuất bản, tái bản có sự khác nhau trong một ấn phẩm. Ví dụ, trong ấn phẩm Chiêu Quân cống Hồ (thêm hát nam hát khách) có ghi trên trang bìa in lần thứ nhất năm 1913, nhưng thông tin nộp lưu chiểu thì ghi ngày 9/12/1928, không có số lần in. Điều này có nghĩa, nhà in và bán sách Nguyễn Văn Viết dùng ấn phẩm lần đầu để tái bản nhưng lại sơ suất không sửa thông tin trên trang bìa. Đây không phải là trường hợp duy nhất trong danh mục truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ, tương tự như vậy còn có ấn phẩm Bạch Viên Tôn Các (Đặng Lễ Nghi), và một số ấn phẩm in lại nhưng không sửa chữa thông tin khiến hai ấn phẩm có cùng số lần in nhưng lại khác thời gian. Trường hợp đặc biệt hơn là ấn phẩm Lục Vân Tiên (có hát nam hát khách) của Đặng Lễ Nghi do nhà in L’Union Ng.V.Cua phát hành, trang bìa chính thì ghi in lần thứ tư, trang bìa lót thì ghi in lần thứ 6, tháng 9/1919. Theo chúng tôi, đây cũng là trường hợp tái bản, nhà in dùng lại bìa cũ của ấn phẩm trước đó nhưng không chỉnh sửa thông tin phù hợp thực tế. Truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ được xuất bản, tái bản thịnh hành nhất vào khoảng 1927 đến 1939 và chủ yếu được phát hành bởi các nhà in tại Sài Gòn. Theo khảo sát của tác giả, số lượng ấn phẩm truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ được in từ 1933 đến 1938, kết quả: năm 1933, có 51 tác phẩm được xuất bản; số lượng tác phẩm được xuất bản giảm dần còn 37 ấn phẩm (1934); 13 ấn phẩm (1935). Phần lớn các truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ được xuất bản trong 3 năm 1933 đến 1935 là những tác phẩm xuất bản lần thứ nhất. Kết quả khảo sát này có ý nghĩa, trong vòng ba năm (1933-1935), có khoảng 101 tác phẩm được xuất bản và tái bản. Nếu chia trung bình cho ba năm và mỗi lần in là 2000 cuốn thì ước tính trung bình có hơn 67.000 cuốn thơ được bán ra thị trường. Đến năm 1936, số lượng tác phẩm được in tăng lên 44 và giảm dần còn 20 tác phẩm (1937), 10 tác phẩm (1938). Hầu hết truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ được in từ năm 1936 đến 1938 là những ấn phẩm tái bản lần 2 hoặc lần 3. Điều này cho thấy, theo chu kỳ 3 năm truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ được quan tâm xuất bản, tái bản một lần. Phần lớn truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ được tái bản đến lần thứ 3, nhiều tác phẩm tái bản đến lần thứ 4, 5 và một số ít tái bản lần 6, 7. Những tác phẩm tái bản nhiều, trung bình cách 2 năm tái bản 1 lần, những cuốn được ưa chuộng thì mỗi năm “chủ bổn” đều tái bản, thậm chí có tác phẩm mỗi năm tái bản 2 lần như Thoại Khanh Châu Tuấn (lần 6 – năm 1930, lần 7 – ngày 20/12/1930). Các bổn thơ “hậu” thường tái bản đến lần thứ 2, chỉ vài tác phẩm tái bản lần 3. Kết quả khảo sát trên cho thấy thời kỳ thịnh hành nhất là vào thập niên 20 và 30 của thế kỷ XX, truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ được bày bán hầu hết các hiệu sách, số lượng mỗi lần in thường từ 1.000 đến 3.000 bản. Những quyển được ưa chuộng có thể được in với số lượng lớn, nhiều quyển thơ tái bản đến lần thứ 6, thứ 7, TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 4 23 thậm chí có những quyển tái bản lần thứ 14. Truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ là loại sách ít trang, có giá bình dân nên được người dân Nam Kỳ yêu thích và lựa chọn mua để thưởng thức. Đến thập niên 40 của thế kỷ XX, do nhu cầu thưởng thức văn nghệ, văn chương của độc giả Nam Kỳ thay đổi, phong trào nói thơ không còn phổ biến như trước nên truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ dần mai một và bị lãng quên cho đến ngày nay. 3. Nguồn lưu trữ truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ Truyện thơ Quốc ngữ đã được các nhà in ở Nam Kỳ xuất bản với số lượng khá lớn. Song, do yếu tố thời gian và những biến cố lịch sử nên chúng còn được lưu giữ không nhiều tại các Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh và Thư viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ. Hiện nay, Thư viện Quốc gia Việt Nam đang là nơi lưu giữ truyện thơ Quốc ngữ nhiều nhất và chủ yếu dưới hình thức vi phim. Trên thực tế, truyện thơ Quốc ngữ mà Thư viện đang lưu giữ là những cuốn được các nhà in nộp lưu chiểu, phần lớn được Chính quyền thực dân Pháp chuyển về lưu trữ tại Pháp và sau này chụp vi phim tặng lại cho Thư viện quốc gia Việt Nam. Trong cuốn Thư viện Quốc gia Việt Nam 90 năm xây dựng và phát triển 1917 – 2007, có ghi: “Trước khi rút chạy khỏi miền Bắc, thực dân Pháp đã chuyển ra khỏi Thư viện Quốc gia (Thư viện Quốc gia Việt Nam) từ 800 – 1000 hòm sách với hàng chục nghìn bản” (Phạm Thế Khang, 2007: 194-195) và tác giả cũng ghi nhận thêm: “Năm 1996, Thư viện Quốc gia Pháp gửi tặng Thư viện Quốc gia Việt Nam vi phích của 10.000 tên sách xuất bản ở Việt Nam trước tháng 10 năm 1954 hiện đang được bảo quản ở Thư viện Quốc gia Pháp” (Phạm Thế Khang, 2007: 195). Khi tiếp cận tác phẩm, chúng tôi thấy cuối mỗi bản vi phim truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ đều có thông tin về đơn vị, năm và nơi sản xuất phim: “Bibliothèque Nationale” (Thư viện Quốc gia), “Château de Sablé 1987” (Lâu đài Sablé, năm 1987). Theo tìm hiểu của chúng tôi, trung tâm kỹ thuật bảo tồn và phục chế tài liệu in của Thư viện Quốc gia Pháp được đặt tại lâu đài Sablé, những tác phẩm vi phim này được sản xuất tại đó vào năm 1987. Từ những căn cứ trên, chúng tôi cho rằng những cuốn thơ vi phim được lưu giữ ở Thư viện Quốc gia Việt Nam thuộc trong số những tài liệu được Pháp trao tặng. Ngoài ra, chúng tôi tìm thấy những bản in truyện thơ Quốc ngữ, đây là những ấn phẩm nộp lưu chiểu được Thư viện Quốc gia lưu giữ đến nay. Các ấn phẩm này đều có chữ ký của chủ nhà in và thường ghi (bằng bút mực) đầy đủ các thông tin như số lần tái bản, ngày xuất bản, số lượng bản in cho lần xuất bản đó . Hiện nay, ở Việt Nam đơn vị lưu trữ nhiều tác phẩm truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ nhất là Thư viện Quốc gia Việt Nam. Theo khảo sát của chúng tôi, hiện có hơn 450 ấn phẩm truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ được lưu giữ tại đây, trong đó có khoảng hơn 284 ấn phẩm vi phim và hơn 174 ấn phẩm gốc (bản in giấy) truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ. Trong số ấn phẩm vi phim có khoảng 107 ấn phẩm trùng với ấn phẩm gốc. Về các ấn phẩm gốc, hiện tại truyện thơ Quốc ngữ vẫn còn nhiều cuốn giữ được nguyên vẹn, đầy đủ trang, không bị hư hại nhiều; chủ yếu bị mối mọt ăn, hoặc bị rách do quá trình phục vụ độc giả nhưng cũng đã được thư viện tu bổ, phục chế. Những ấn phẩm trăm năm tuổi này hư hại chủ yếu do yếu tố thời gian và điều kiện bảo quản, rất ít sự tác động của con người vì chúng vẫn chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm và không nhiều độc giả biết đến. Tuy việc thu thập tư liệu mất rất nhiều thời gian và công sức, nhưng chúng tôi vẫn cố gắng sưu tầm hầu hết các ấn phẩm gốc được lưu trữ tại các thư viện, số còn lại trên thư mục có nhưng khi chúng tôi mượn thì có trường hợp mất, có trường hợp lưu nhầm thành một tác phẩm khác. Trong quá trình sưu tầm truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ, chúng tôi phát hiện nhiều tác phẩm có tên trong danh mục sách đã phát hành được in ở cuối hoặc đầu ấn phẩm nhưng tra cứu tại các thư viện không có. Tưởng rằng đã mất nhưng thực tế là do thư mục lưu trữ của thư viện sai tên, sai tác giả, sai chính tả hoặc thiếu thông tin, như thơ Năm Tỵ thì ghi thành “Năm Tủ”, hoặc thơ VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 4 24 Thằng Lía thì ghi “Thằng Bá”, Chàng Nhái Kiển Tiên thì ghi “Kiễn Tiên” hoặc “Kiểu Tiên”, Con Tấm con Cám thì thành “con Tấn con Cám”, Mục Liên Thanh Đề thì ghi “Mục Liên Thánh Đề”, Đãi yến Đoàn Hồng Ngọc thì ghi “Dải yến Đoàn Hồng Ngọc”, Trần Minh khố chuối thì ghi “Trần Minh khổ chuối” và còn rất nhiều trường hợp khác. Những tác phẩm có cả ấn phẩm gốc và vi phim, chúng tôi ưu tiên chọn sưu tầm ấn phẩm gốc được in trên giấy, những trường hợp đặc biệt, ấn phẩm giấy bị hư hại, không còn nguyên hoặc mất mát trong quá trình lưu trữ thì chúng tôi mới sưu tầm ấn phẩm vi phim. Sau nhiều đợt thu thập tư liệu, chúng tôi đã sưu tầm được 220 ấn phẩm trong phạm vi nghiên cứu. Nếu dựa vào tên tác phẩm thì chúng tôi có 107 truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ. Đặc trưng của loại hình văn chương này là loại tác phẩm có tác giả, một tích truyện có thể do nhiều người biên soạn, chỉnh sửa thành các tác phẩm khác nhau về ngôn ngữ thơ; hoặc một tên tác phẩm có thể do nhiều tác giả “sáng tác” thành các tích truyện có nội dung khác nhau, thường gặp ở các “bổn thơ hậu”. Cho nên, chúng tôi căn cứ vào hai yếu tố là tên tác phẩm và tên tác giả để thống kê số lượng tác phẩm thì được hơn 163 truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ. 58 ấn phẩm còn lại là những truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ có cùng tên tác phẩm, cùng tác giả nhưng khác người xuất bản (chủ bổn) hoặc khác nhà in. Hiện nay, chúng tôi chưa sưu tầm đầy đủ tất cả các lần in khác nhau giống tên tác giả, người xuất bản và nhà in. Các ấn phẩm tái bản này được lưu trữ dưới dạng vi phim và chúng tôi đã có ít nhất một ấn phẩm có cùng tên, cùng tác giả nên chúng được xếp thứ tự ưu tiên cuối cùng. Trong tương lai chắc chắn chúng tôi sẽ tiếp tục bổ sung vào danh mục nghiên cứu các ấn phẩm này. Ngoài ra, còn nhiều truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ khác được xuất bản sau năm 1945 hoặc không có căn cứ để xác định khoảng thời gian xuất bản, chúng tôi không đưa vào danh mục nghiên cứu. Tất nhiên, số tác phẩm đã tìm được chưa phản ánh đầy đủ tình hình xuất bản truyện thơ Quốc ngữ lúc bấy giờ, nhưng về cơ bản đã bao quát gần hết số tác phẩm mà các nhà in cũng như độc giả khi ấy quan tâm. Chỉ còn một số ít truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ đã được giới thiệu trên các trang bìa sau của các truyện thơ, trên báo nhưng hiện nay chúng tôi chưa tìm được, ví như Thơ Bảy Tài, Bùi Kiệm kiện Phú Loan, Đơn Nguyệt Nga kêu oan cho Bùi Kiệm, Trảm Trịnh Ân, Tây Thi ngộ Phù Ta, Ngũ Tử Tư, Mổ tim Tỷ Cang. 4. Kết luận Sự thay đổi hệ thống chữ viết và công nghệ in hiện đại là những yếu tố tác động đến sự ra đời và phát triển rầm rộ phong trào in ấn và xuất bản truyện thơ Quốc ngữ. Truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ là sản phẩm của giai đoạn văn học giao thời đầu thế kỷ XX với hình thức ấn phẩm hiện đại, như: hình vẽ minh họa, thông tin về tác giả, tác quyền, địa chỉ nhà in, số lần in, giá bán, thời gian xuất bản, quảng cáo và danh mục sách đã xuất bản. Những yếu tố cận văn bản này tạo nên hình thức ấn phẩm truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ mới và phong phú hơn so với các ấn phẩm chữ Nôm trước đó. Về chữ viết, nội dung truyện thơ được viết bằng chữ Quốc ngữ, tuy nhiên, người ta dùng hai loại văn tự để ghi tên tác phẩm (chữ Nho và chữ Quốc ngữ). Đây là biểu hiện của sự tiếp nối giữa cái cũ và mới, nhằm giúp những trí thức Nho học chưa biết hoặc chưa thông thạo chữ Quốc ngữ có thể tiếp cận truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ qua tên tác phẩm. Truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ là những văn bản xưa cần được trân trọng, là những tác phẩm văn học có giá trị cần được bảo tồn. Chúng tôi mong muốn, càng ngày sẽ có càng nhiều người quan tâm đến loại hình văn chương này, tiếp tục sưu tầm những tác phẩm chúng tôi chưa tìm được, và dành thời gian để nghiên cứu từng tác phẩm cụ thể. Tài liệu tham khảo Lê Duy Thiện (1929). Chàng Nhái. Xuất bản lần 1. Sài Gòn, Tín Đức thư xã. Mạch Quốc Thoại (1925). Cảm ứng, âm chất, giác thế, công quá cách, tỉn thế ngộ chơn. Sài Gòn, Nhà in Xưa Nay. McHale, S. F. (2004). Print and Power: Confucianism, Communism and Buddhismin the Marking of Modern Vietnam. Honolulu, TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 4 25 University of Hawai'i Press. Nguyễn Hữu Hiệp và Lê Minh Quốc (1998). Thơ Thầy Thông Chánh, Sáu Trọng, Hai Miêng: Lưu hành tại Nam Kỳ đầu thế kỷ XX. Tp. HCM, Nxb Trẻ. Nguyễn Kim Đính (1929). Trần Đại Lang. Xuất bản lần 1. Gia Định, Nhà in Đông Pháp. Nguyễn Trọng Thạt (1936). Quan Công đơn đao phó hội đặt theo tích truyện Tam Quốc. Xuất bản lần 2. Sài Gòn, Nhà in Xưa Nay. Nguyễn Văn Hầu (2004). Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ (Tập 2). Tp. HCM, Nxb Trẻ. Nguyễn Văn Hầu (2012). Văn học miền Nam lục tỉnh (Tập 1). Tp. HCM, Nxb Trẻ. Nguyễn Văn Trung (1974). Chữ, văn Quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc. Sài Gòn, Nam Sơn. Nguyễn Văn Trung (2015). Hồ sơ về Lục châu học - Tìm hiểu con người ở vùng đất mới. Tp. HCM, Nxb Trẻ. Phạm Thế Khang (chủ biên) (2007). Thư viện Quốc gia Việt Nam 90 năm xây dựng và phát triển. Hà Nội, Thư viện Quốc gia Việt Nam.
File đính kèm:
- truyen_tho_quoc_ngu_nam_ky_mot_loai_hinh_van_chuong_bi_lang.pdf