Trao đổi về cách đọc và viết một số địa danh ở Tây Nguyên - tiếp cận từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa
Địa danh là tên riêng đối tượng địa lý. Nhờ địa danh chúng ta hiểu biết về sự
giao tiếp, bảo lưu ngôn ngữ; về quá trình lịch sử, văn hóa. của một địa bàn,
một dân tộc. Với một địa bàn đa sắc tộc, đa ngôn ngữ và một tiến trình lịch sử
đặc trưng đã hình thành nên ở Tây Nguyên những lớp địa danh nhiều sắc màu
văn hóa. Điều đó cũng đồng thời tạo ra không ít khó khăn cho các hoạt động
giao tiếp. Vì vậy, tìm hiểu địa danh trên địa bàn từ cách tiếp cận ngôn ngữ - văn
hóa là một yêu cầu tất yếu. Trên cơ sở khái quát về địa danh học, địa danh Tây
Nguyên và khảo cứu một số trường hợp địa danh ở Tây Nguyên còn có những
cách hiểu và cách thể hiện khác nhau, bài viết đưa ra những kiến nghị về việc
định danh, sửa đổi và sử dụng địa danh ở vùng đất này
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Trao đổi về cách đọc và viết một số địa danh ở Tây Nguyên - tiếp cận từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa
58 CHUYÊN MỤC NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI TRAO ĐỔI VỀ CÁCH ĐỌC VÀ VIẾT MỘT SỐ ĐỊA DANH Ở TÂY NGUYÊN – TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ - VĂN HÓA TRẦN VĂN DŨNG* ĐẶNG MINH TÂM** Địa danh là tên riêng đối tượng địa lý. Nhờ địa danh chúng ta hiểu biết về sự giao tiếp, bảo lưu ngôn ngữ; về quá trình lịch sử, văn hóa... của một địa bàn, một dân tộc. Với một địa bàn đa sắc tộc, đa ngôn ngữ và một tiến trình lịch sử đặc trưng đã hình thành nên ở Tây Nguyên những lớp địa danh nhiều sắc màu văn hóa. Điều đó cũng đồng thời tạo ra không ít khó khăn cho các hoạt động giao tiếp. Vì vậy, tìm hiểu địa danh trên địa bàn từ cách tiếp cận ngôn ngữ - văn hóa là một yêu cầu tất yếu. Trên cơ sở khái quát về địa danh học, địa danh Tây Nguyên và khảo cứu một số trường hợp địa danh ở Tây Nguyên còn có những cách hiểu và cách thể hiện khác nhau, bài viết đưa ra những kiến nghị về việc định danh, sửa đổi và sử dụng địa danh ở vùng đất này. Từ khóa: địa danh, Tây Nguyên, cách thể hiện khác nhau, nguồn gốc địa danh Nhận bài ngày: 23/10/2020; đưa vào biên tập: 30/10/2021; phản biện: 15/11/2021; duyệt đăng: 3/4/2021 1. DẪN NHẬP Hệ thống địa danh là những chứng nhân đáng tin cậy của quá trình hình thành một cộng đồng, nơi cư trú của một tộc người nào đó, hoặc dấu ấn lịch sử trên địa bàn. Qua địa danh, ta biết được cảnh quan thiên nhiên, đặc điểm địa hình của địa bàn xưa cũ; giúp ta tìm kiếm một con sông, con suối, ngọn núi, đặc điểm sinh thái... hiểu được điều kiện, môi trường sống của người xưa. Địa danh còn cho biết một số thông tin về văn hóa, chính trị- xã hội, đặc điểm tâm lý, tín ngưỡng, về chính sách, sự quản lý hành chính, * Trường Đại học Tây Nguyên. ** Trường Trung học phổ thông Chu Văn An, tỉnh Đắk Lắk. TRẦN VĂN DŨNG - ĐẶNG MINH TÂM – TRAO ĐỔI VỀ CÁCH ĐỌC VÀ VIẾT 59 trong việc phân vùng lãnh thổ, điều chỉnh địa giới của chính quyền nhà nước qua các thời kỳ; trong xu hướng đặt tên mới, thay tên cũ... Cũng nhờ địa danh, người ta có được sự hiểu biết về sự giao tiếp và sự bảo lưu ngôn ngữ. Có thể nói, đây là những “vật hóa thạch ngôn ngữ”; là những “di tích khảo cổ học không nằm trong lòng đất”. Vì vậy, khi địa danh đã trở thành “tín mã” của một đối tượng hoặc một địa bàn nhất định, nó có tính ổn định và truyền lại lâu dài. Cũng vì vậy, một số thông tin nhất định nào đó của một địa danh cùng những thông tin về thời đại được phản ánh trong ngôn ngữ đặt tên còn lưu lại, có giá trị cho nhiều ngành khoa học. Tiến trình lịch sử của các tộc người ở Tây Nguyên cùng những tác động từ bên ngoài đã hình thành nên những nét văn hóa mang đậm dấu ấn đa sắc tộc trên địa bàn, trong đó có văn hóa địa danh. Sự đa dạng về hệ thống địa danh đã góp phần mang lại cho Tây Nguyên nét đẹp độc đáo. Đó cũng đồng thời là những thách thức trong việc danh pháp hóa địa danh trên địa bàn. Hiểu đúng địa danh và định hướng một cách thức sử dụng hợp lý trong các hoạt động giao tiếp trên cơ sở cách tiếp cận ngôn ngữ học cũng như phù hợp với đặc điểm văn hóa của chủ thể định danh là một việc cần thiết. Trong giới hạn của bài viết, chúng tôi điểm qua vài nét với một số lượng hữu hạn các địa danh trên địa bàn, bước đầu đưa ra một số ý kiến về cách tiếp cận địa danh theo phương pháp chuyên biệt của ngôn ngữ học kết hợp với phương pháp tiếp cận đa ngành và liên ngành, nhằm phục vụ nhu cầu giao tiếp. 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐỊA DANH VÀ ĐỊA DANH Ở TÂY NGUYÊN 2.1. Sơ lược vấn đề địa danh và địa danh học Địa danh là một loại đơn vị định danh cùng bậc với các loại là tên riêng khác như nhân danh (tên riêng của người), tộc danh (tên riêng tộc người), hiệu danh (tên riêng các công sở, cửa hiệu), vật danh (tên riêng các sản phẩm văn hóa, khoa học, nghệ thuật, kiến trúc). Trong vốn từ của một ngôn ngữ, tên riêng làm thành một lớp tên gọi có cấu trúc đặc biệt, với một số lượng rất lớn; và là đối tượng nghiên cứu của danh xưng học thuộc từ vựng học. Bên cạnh những thành phần chủ yếu có tính chất ngôn ngữ học, tên riêng còn chứa đựng trong đó những thông tin mang tính lịch sử, văn hóa - xã hội đặc trưng cho từng cộng đồng dân tộc. Do vậy, tên riêng (trong đó có địa danh) trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau như sử học, dân tộc học, ngôn ngữ học, xã hội học, tâm lý học Địa danh được nghiên cứu trong một chuyên ngành riêng, đó là địa danh học (toponymy). Địa danh (toponym) là tên riêng đối tượng địa lý, được phân thành hai loại cơ bản, đó là các đối tượng địa lý tự nhiên và đối tượng địa lý do con người kiến tạo (còn gọi là địa lý nhân văn). Địa danh có chức TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (272) 2021 60 năng cơ bản là định danh và cá thể hóa đối tượng, làm công cụ giao tiếp và góp phần phản ánh hiện thực trên địa bàn. Khác với nhân danh, địa danh bao giờ cũng gắn liền với thành tố chung, và cùng với thành tố chung làm thành một phức thể địa danh. Nói cách khác, địa danh luôn đi liền với thành tố chỉ loại hình của địa danh đó. Có thể hình dung cấu tạo của một phức thể địa danh theo mô hình sau: Thành tố A Thành tố B Danh từ chung (loại hình của địa danh) Tên riêng (địa danh - khu biệt đối tượng) Khi nghiên cứu địa danh trên một địa bàn nào đó, người ta thường quan tâm đến bối cảnh ra đời và hình thức ngôn ngữ của địa danh. Chính nguồn gốc tên gọi và nguồn gốc ngôn ngữ của địa danh sẽ cho phép người nghiên cứu xác định được thời điểm ra đời, lý do đặt tên, và phần nào là ý niệm mà chủ thể định danh gửi gắm vào địa danh đó. Đối với một địa bàn đa sắc tộc, đa ngôn ngữ như Tây Nguyên, việc xác định nguồn gốc của địa danh sẽ giúp cho việc xác định được nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Tên riêng nói chung, tên riêng các đối tượng địa lý nói riêng là tên gọi xác định. Chính vì thế, tên riêng không liên quan đến bất kỳ khái niệm nào. ... Địa danh Kon Tum Địa danh từng được viết: Công Tum, Kông Tum, Kontum, Kon Tum. Gần đây trên Cổng thông tin điện tử, các văn bản của địa phương và trên các phương tiện truyền thông đều viết Kon Tum. Dựa trên truyền thuyết của người Bahnar(3), cách lý giải của một số nhà nghiên cứu cũng như tiến trình lịch sử của vùng đất này với sự ra đời của Vương quốc Sedang(4) mà nòng cốt là Bahnar và Sedang, đã có lúc chúng tôi cũng thấy được tính hợp lý của cách lý giải về nguồn gốc tên gọi và cách thể hiện địa danh này (Kon Tum). Nhìn chung, các ý kiến đều cho rằng, Kon Tum có nghĩa là làng có nhiều hồ nước. Tuy vậy, về ngữ nguyên lại được lý giải theo hướng khác biệt. Truyền thuyết dân gian (Cổng thông tin điện tử tỉnh Kon Tum giới thiệu), cho rằng “theo tiếng Kinh, Kon Tum có nghĩa là Làng Hồ (kon là làng, tum là hồ, ao, bàu nước...)”. Một số ý kiến (trong đó có Wikipedia tiếng Việt và các nhà nghiên cứu văn hóa ở Kon Tum) thì cho rằng, danh xưng này có nguồn gốc từ tiếng Bahnar (kon là làng, tum là hồ). Thực ra trong tiếng Việt và tiếng Bahnar đều không có cụm từ kon tum với nghĩa như vậy. Người Bahnar có nhiều nhóm địa phương như Bahnar Koh, Bahnar Tơlo, Bahnar Kơđeh, Bahnar Krem, Bahnar Chăm, Bahnar Bơnâm, theo đó có nhiều phương ngữ, có thể chia làm ba phương ngữ chính như Bahnar Koh, Bahnar Tơlo, Bahnar Bơnâm. Nhưng trong tiếng Bahnar, kon chủ yếu được dùng như từ chỉ loại (con), chẳng hạn kon ngai hay kon bơngai là con người; kon pơle\i có nghĩa là người dân hoặc đồng bào; còn tum hay kon kơtum là con kỳ nhông. Tiếng Bahnar gọi làng là pơle\i. Người Jeh Triêng gọi làng là plei hay plei-tum. Qua tìm hiểu tâm lý tộc người và thực tế điền dã gần đây, trên cơ sở ngôn ngữ các tộc người tại chỗ trên địa bàn, cùng với đó là cách lý giải trong truyền thuyết của người Bahnar, chúng tôi tin là đã có đủ cơ sở để xác định, địa danh này được định danh bằng ngôn ngữ Bahnar, tuy nhiên không phải là Kon Tum mà là Kông Tum (kông là núi, tum hay kơtum là con kỳ nhông), nghĩa là lấy ngọn núi có nhiều con kỳ nhông để đặt tên cho địa bàn cư trú. Trong tiếng Bahnar, kông cũng có nghĩa là công trong tiếng Việt. Điều này lý giải vì sao trước đây người ta gọi là Kông Tum hay Công Tum. Thiết nghĩ, cách tiếp cận này cũng phù hợp với đặc điểm cư trú và tâm lý định danh của các tộc TRẦN VĂN DŨNG - ĐẶNG MINH TÂM – TRAO ĐỔI VỀ CÁCH ĐỌC VÀ VIẾT 67 người thiểu số trên địa bàn – đó là lấy đặc điểm của các đối tượng địa lý tự nhiên để định danh cho đối tượng địa lý nơi cư trú, chẳng hạn, địa danh của người Êđê: }ư Kuê` (núi nhiều vượn), }ư Ju\t (núi nhiều trúc), }ư Drang (núi nhiều chim phượng hoàng). Kontum là cách viết của người Pháp thể hiện âm đọc là Kông Tum. Địa danh Buôn Đôn Địa danh này đang có nhiều cách gọi, cách viết khác nhau: {uôn Đôn, Bản Đôn, Yôk Đôn ({uôn Đôn - tiếng Êđê; Bản Đôn - tiếng Lào; Yôk Đôn - tiếng Mnông). Các trường hợp này chỉ khác nhau về thành tố chung ([uôn - đơn vị cư trú của người Êđê; bản - đơn vị cư trú của người Lào; yôk - đối tượng địa lý tự nhiên của người Mnông (đồi hoặc núi thấp), còn thành tố “B” - Đon trong phức thể địa danh này là tiếng Lào (đảo). Vì nằm ở giữa khu vực thác Bảy Nhánh nên bản này giống như một ốc đảo (don, đọc là đon - tiếng Lào tức là đảo; người Pháp phát âm don thành đôn). Trước kia, trên toàn khu vực thuộc địa bàn huyện Buôn Đôn hiện nay, chỉ có Bản Đôn là có nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng mà những người làm nghề này lại chủ yếu là người Mnông. Xưa kia ở đây không ai gọi là {uôn Đôn. Thực tế gần khu vực này có một [uôn của người Êđê gọi là {uôn Trĭ, sau này nhập chung với Bản Đôn gọi là [uôn ({uôn Trĭ A và {uôn Trĭ B). Ở Đắk Lắk, người dân thường không quen với việc gọi đơn vị cư trú làng là bản mà gọi là [uôn. Bởi vậy, người dân ở đây thường gọi là {uôn Đôn (theo cách gọi của người Êđê; người Mnông gọi là bon hoặc bu). Địa danh Yôk Đôn lại từ một nguyên do khác. Yếu tố yôk có âm đọc gần giống với dốc của tiếng Việt (tiếng Mnông có nghĩa là núi nhưng thường dùng để gọi núi thấp (đồi); núi cao gọi là nâm), còn yếu tố don (đọc là đôn) có nghĩa là đảo – theo tiếng Lào). Như vậy, Yôk Đôn là sự kết hợp một yếu tố của tiếng Mnông và tiếng Lào trong cách gọi tổ hợp các ngọn núi (đồi) ở khu vực này; là vùng đất có địa hình cao nhất, nổi lên như một ốc đảo giữa một vùng rừng núi có độ cao trung bình khoảng 400m. Đây là địa bàn hội tụ các tộc người như Êđê, Mnông, Lào (thậm chí hiện có gia đình mang huyết thống của cả ba tộc người) nên địa danh ở vùng này khá phong phú và phức tạp. Dòng sông lớn nhất chảy qua đây được định danh bằng tiếng Lào (Sêrêpôk). Ngoài ra, nhiều địa danh ở Tây Nguyên cũng đang có những cách gọi và cách viết khác nhau, như: - Các địa danh Nâm Nung, Nâm Dăr (hoặc Nâm Dah), Nâm Ka (tiếng Mnông) được người Việt đọc và viết thành Nam Nung, Nam Đà, Nam Ka; địa danh Hlang (cỏ tranh - tiếng Êđê) được người Việt đọc và viết thành Hà Lan. Một số địa danh hiện đang được sử dụng trong các văn bản chính thức ở địa phương như Đắk Hà, Đắk Tô (ở Kon Tum), Đắk Nông, Đắk Min đã được ghi lại theo lối phiên âm, nhưng chưa phù hợp với bất kỳ ngôn ngữ TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (272) 2021 68 nào vì các cư dân ở Tây Nguyên đều sử dụng ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Môn- Khmer, chỉ có tộc người Êđê, Jrai (vùng Bắc và Đông Bắc), người Chăm, Churu, Raglai (Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên) nói ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Mã Lai-Đa Đảo). Vì vậy, các địa danh này phải được viết là Dak Ha, Dak Tô, Dak Nông, Dak Mil (theo cách thể hiện của các tộc người bản địa sử dụng ngữ hệ Môn-Khmer). - Một số địa danh bằng ngôn ngữ bản địa đã được người Việt Hán hóa. Những trường hợp này chủ yếu diễn ra thời chính quyền Ngô Đình Diệm. Ví dụ Dak Mil, Dak R’Lâp (tiếng Mnông) được chuyển thành Đức Lập (gốc Hán); vùng Lăk (tiếng Mnông) được gọi là Lạc Thiện. Tương tự, Krông Pă] (tiếng Êđê) được đổi thành Phước An; Êa H‘Leo (tiếng Êđê) đổi thành Thuần Mẫn; B’Lao (tiếng Kơho) đổi thành Bảo Lộc... - Một số địa danh bằng ngôn ngữ bản địa đã bị đọc và viết chệch đi do một số người làm công tác hành chính chưa tìm hiểu đầy đủ (mặc dù muốn giữ nguyên dạng địa danh). Chẳng hạn, Krông H’Nang (địa danh lấy tên người con gái trong truyện cổ Êđê) được viết và đọc thành Krông Năng; Krông Knô (dòng sông cha, sông đực - cùng với Krông Ana (sông cái, sông mẹ) là hai con sông lớn có vai trò điều tiết nguồn nước trong khu vực) được viết và đọc thành Krông Nô... 4. VÀI ĐỀ XUẤT VỀ VIỆC ĐỊNH DANH, SỬA ĐỔI VÀ SỬ DỤNG ĐỊA DANH Ở TÂY NGUYÊN Từ những phân tích trên, thiết nghĩ cần có sự thống nhất trong cách đặt tên, cách viết, cách gọi địa danh cho phù hợp. Việc đặt tên mới, thay thế tên cũ ít nhiều phản ánh sự kế thừa và bảo lưu. Vì vậy, quá trình đặt tên, sửa đổi tên cho các đối tượng địa lý cần phải đảm bảo những yêu cầu có tính nguyên tắc, đó là: tính dân tộc, tính giáo dục, tính đại chúng, tính thẩm mỹ, cần cân nhắc và tranh thủ sự tư vấn của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu về địa danh. Khi định danh hoặc chuyển đổi loại hình một địa danh nào đó trên cơ sở một địa danh đã có, không nên phá vỡ địa danh ban đầu mà phải sử dụng nguyên dạng, đồng thời trên cơ sở phương thức chuyển hóa mà đặt tên mới cho đối tượng. Chẳng hạn, khi thành lập các đơn vị hành chính như huyện Krông Nô, Krông Năng thì lấy nguyên tên gọi của con sông, vốn là đối tượng địa lý tự nhiên đã có từ trước, đó là dòng Krông Knô, dòng Krông H’Nang, tương tự như huyện Krông Ana đã đặt theo tên dòng Krông Ana. Một số địa danh khác như Nam Đà, Nam Nung, Nam Ka... cũng tương tự như trường hợp trên (nên để nguyên tên các ngọn núi ở trên địa bàn khi đặt tên cho đơn vị hành chính: Nâm Nung, Nâm Dăr, Nâm Ka)... Các địa danh đặt bằng ngôn ngữ bản địa, đặc biệt là đặt theo tên gọi các danh nhân lịch sử của địa phương, cần có đầy đủ các danh tố của tên riêng (tên đệm, tên họ, tên chính - tên TRẦN VĂN DŨNG - ĐẶNG MINH TÂM – TRAO ĐỔI VỀ CÁCH ĐỌC VÀ VIẾT 69 cá nhân) như các địa danh mang tên các danh nhân người Việt (người Kinh). Ví dụ: đường Y Ngông Niê Kdăm, đường Y Wang Mlô Duôn Du, đường Y Bih Aliô... mà không nên viết là đường Y Ngông, đường Y Wang, đường Y Bih... (thiếu tên họ). Khi sử dụng địa danh nào đó, cần căn cứ vào đối tượng giao tiếp; hình thức giao tiếp; hoàn cảnh giao tiếp, từ đó xác định sử dụng ngôn ngữ địa danh trong giao tiếp. - Trong giao tiếp có tính phổ thông (đối tượng là đại bộ phận dân chúng và học sinh phổ thông), nên sử dụng ngôn ngữ phổ thông bằng cách phiên trực tiếp qua tiếng Việt. Ví dụ: Đắc Lắc, Buôn Ma Thuột, Plây Cu, Công Tum, Đắc Min... bởi nhiều người vùng khác không hiểu các ký tự của ngôn ngữ các tộc người Tây Nguyên. Đặc biệt, trong trường phổ thông, học sinh khó nhận diện các ký tự và cách viết khác lạ trong chính tả tiếng Việt. - Trong các văn bản hành chính, văn bản pháp quy, văn bản khoa học, cần viết theo cách thể hiện của ngôn ngữ bản địa được sử dụng khi định danh, bởi ngôn ngữ các tộc người thiểu số Tây Nguyên đều sử dụng ký tự Latinh. Trường hợp chủ thể định danh sử dụng ngôn ngữ khác để mô phỏng ngữ âm của ngôn ngữ bản địa là chủ thể của địa danh đó (chủ thể của địa danh chưa có chữ viết), hoặc dùng lối chuyển tự (khi chủ thể của địa danh có chữ viết), đều được thể hiện bằng ngữ âm và tự dạng ngôn ngữ của chủ thể địa danh đó. Có như vậy mới bảo đảm được sự chân thực của địa danh (trong mối quan hệ giữa âm và ký tự). Ví dụ: + Viết Dak Lăk, Buôn Ma Thuôt, Plei Ku, Kông Tum, Dak Mil, Nâm Dăr, Nâm Nung, Nâm Ka (khi được soạn thảo bằng tiếng Việt hoặc bằng ngôn ngữ bản địa). Do hầu hết ngôn ngữ các tộc người bản địa ở Tây Nguyên là ngôn ngữ đơn lập nên các hình vị trong từ cần được viết tách rời nhau (không viết liền nhau như một số trường hợp lâu nay). + Viết Darlac, Kontum, Pleiku, Banmethuot, Darmil... (khi được viết bằng ngôn ngữ biến hình hoặc đối tác tiếp nhận văn bản sử dụng ngôn ngữ biến hình). 5. THAY LỜI KẾT Trên đây là những ý kiến trao đổi từ góc nhìn ngôn ngữ - văn hóa, trên cơ sở một số địa danh cụ thể trên địa bàn đang có những ý kiến và cách thể hiện khác nhau. Vẫn biết rằng khi địa danh đã trở thành “tín mã” thì trong hoạt động giao tiếp người ta ít quan tâm đến “văn hóa” của tên gọi. Hơn thế nữa, khi địa danh nào đó đã trở thành ký hiệu của một danh xưng, được ghi nhận trong các văn bản có tính pháp lý của nhà nước, được thể hiện trên con dấu của địa phương thì trong khuôn khổ các lĩnh vực hoạt động giao tiếp đều phải tuân thủ, không tùy ý thay đổi. Song song với tìm kiếm giải pháp cho vấn đề danh pháp hóa địa danh, việc tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động giao tiếp trong xu hướng phổ thông hóa cùng TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (272) 2021 70 với việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa cổ truyền của cư dân trên địa bàn thông qua địa danh là hai vấn đề không thể tách rời. CHÚ THÍCH (1) Để tiện theo dõi, trong bài viết chúng tôi tạm dùng chữ Đắk Lắk và các địa danh khác theo quy định hiện hành. (2) Danh xưng là tên gọi các loại tên riêng, là đối tượng nghiên cứu của danh xưng học (như hiệu danh, ví dụ (Báo) Đặk Lắk; vật danh, ví dụ: (bơ) Đặk Lắk; Địa danh, ví dụ (tỉnh) Đặk Lắk. Khi cần sử dụng với tư cách là một tên gọi, chúng tôi dùng thuật ngữ danh xưng. Khi sử dụng riêng cho địa danh học, chúng tôi dùng thuật ngữ địa danh. (3) Theo truyền thuyết của người Bahnar, Kon Tum ban đầu chỉ là một làng của người Bahnar. “Thuở ấy, vùng này có làng người địa phương ở gần bên dòng sông Đăkbla với tên gọi Kon Trang - OR. Lúc ấy, làng Kon Trang - OR rất thịnh vượng với dân số khá đông. Bấy giờ, giữa các làng luôn gây chiến với nhau để chiếm đoạt của cải và bắt người về làm nô lệ. Hai con trai của Ja Xi - một trong số những người đứng đầu làng Kon Trang - OR tên là Jơ Rông và Uông không thích cảnh chiến tranh đã làm nhà ở riêng gần chỗ có hồ nước, cạnh dòng Đăkbla. Vùng đất này rất thuận lợi cho phương thức sống định cư, nên dần dần có nhiều người đến ở, mỗi ngày một phát triển thêm đông, lập thành làng mới có tên gọi là Kon Tum. Từ đó, Kon Tum trở thành tên gọi chính thức cho một làng mới lập của người Bahnar, cạnh dòng Đăkbla, nơi có nhiều hồ nước trũng”. (4) Sau khi nắm được toàn quyền ở Đại Nam, người Pháp bắt đầu mở rộng quyền kiểm soát và tiến tới khai thác vùng Tây Nguyên. Năm 1888, một người Pháp là Mayréna xin chính quyền Pháp đi thám hiểm khu vực Tây Nguyên để thỏa thuận với các dân tộc thiểu số ở đây và được Toàn quyền Đông Dương - Ernest Constans chấp thuận. Bằng các tiểu xảo, Mayréna đã thu phục được một số bộ tộc thiểu số (cụ thể là hai dân tộc Bahnar và Sedang) và thành lập ra Vương quốc Sedang, Mayréna làm vua, lấy hiệu là Vua Marie đệ nhất, vua Sedang (dẫn theo tài liệu Lịch sử hành chính Kon Tum). TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Cổng thông tin điện tử tỉnh Kon Tum 2. Đoàn Văn Phúc. 1996. Ngữ âm tiếng Êđê. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 3. Lê Hữu Phong. 2008. Từ vựng đối chiếu Việt - Bahnar, Bahnar - Việt. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Dân tộc. 4. Monfleur, Albert. 1931. Monographie de la province du Darlac, Hanoi. Bản đánh máy lưu trữ tại Ban Lịch sử Văn phòng tỉnh ủy Đăk Lăk. 5. Siu Pơi (chủ biên) 1998. Từ điển Jrai - Việt. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 6. Sở Giáo dục - Đào tạo Dak Lak - Viện Ngôn ngữ học Việt Nam. 1993. Từ điển Việt - Êđê. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 7. Tạ Văn Thông (chủ biên). 2015. Từ điển Êđê - Việt. Hà Nội: Nxb. Giáo dục Việt Nam. 8. Trần Văn Dũng. 2004. “Địa danh ở Buôn Ma Thuột”, trong Buôn Ma Thuột xưa và nay. TPHCM: Nxb. Tổng hợp TPHCM, tr. 77-97.
File đính kèm:
- trao_doi_ve_cach_doc_va_viet_mot_so_dia_danh_o_tay_nguyen_ti.pdf