Trao đổi về cách đọc và viết một số địa danh ở Tây Nguyên - tiếp cận từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa
Địa danh là tên riêng đối tượng địa lý. Nhờ địa danh chúng ta hiểu biết về sự
giao tiếp, bảo lưu ngôn ngữ; về quá trình lịch sử, văn hóa. của một địa bàn,
một dân tộc. Với một địa bàn đa sắc tộc, đa ngôn ngữ và một tiến trình lịch sử
đặc trưng đã hình thành nên ở Tây Nguyên những lớp địa danh nhiều sắc màu
văn hóa. Điều đó cũng đồng thời tạo ra không ít khó khăn cho các hoạt động
giao tiếp. Vì vậy, tìm hiểu địa danh trên địa bàn từ cách tiếp cận ngôn ngữ - văn
hóa là một yêu cầu tất yếu. Trên cơ sở khái quát về địa danh học, địa danh Tây
Nguyên và khảo cứu một số trường hợp địa danh ở Tây Nguyên còn có những
cách hiểu và cách thể hiện khác nhau, bài viết đưa ra những kiến nghị về việc
định danh, sửa đổi và sử dụng địa danh ở vùng đất này

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Trao đổi về cách đọc và viết một số địa danh ở Tây Nguyên - tiếp cận từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa
58
CHUYÊN MỤC
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
TRAO ĐỔI VỀ CÁCH ĐỌC VÀ VIẾT MỘT SỐ
ĐỊA DANH Ở TÂY NGUYÊN – TIẾP CẬN
TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ - VĂN HÓA
TRẦN VĂN DŨNG*
ĐẶNG MINH TÂM**
Địa danh là tên riêng đối tượng địa lý. Nhờ địa danh chúng ta hiểu biết về sự
giao tiếp, bảo lưu ngôn ngữ; về quá trình lịch sử, văn hóa... của một địa bàn,
một dân tộc. Với một địa bàn đa sắc tộc, đa ngôn ngữ và một tiến trình lịch sử
đặc trưng đã hình thành nên ở Tây Nguyên những lớp địa danh nhiều sắc màu
văn hóa. Điều đó cũng đồng thời tạo ra không ít khó khăn cho các hoạt động
giao tiếp. Vì vậy, tìm hiểu địa danh trên địa bàn từ cách tiếp cận ngôn ngữ - văn
hóa là một yêu cầu tất yếu. Trên cơ sở khái quát về địa danh học, địa danh Tây
Nguyên và khảo cứu một số trường hợp địa danh ở Tây Nguyên còn có những
cách hiểu và cách thể hiện khác nhau, bài viết đưa ra những kiến nghị về việc
định danh, sửa đổi và sử dụng địa danh ở vùng đất này.
Từ khóa: địa danh, Tây Nguyên, cách thể hiện khác nhau, nguồn gốc địa danh
Nhận bài ngày: 23/10/2020; đưa vào biên tập: 30/10/2021; phản biện: 15/11/2021;
duyệt đăng: 3/4/2021
1. DẪN NHẬP
Hệ thống địa danh là những chứng
nhân đáng tin cậy của quá trình hình
thành một cộng đồng, nơi cư trú của
một tộc người nào đó, hoặc dấu ấn
lịch sử trên địa bàn. Qua địa danh, ta
biết được cảnh quan thiên nhiên, đặc
điểm địa hình của địa bàn xưa cũ;
giúp ta tìm kiếm một con sông, con
suối, ngọn núi, đặc điểm sinh thái...
hiểu được điều kiện, môi trường sống
của người xưa. Địa danh còn cho biết
một số thông tin về văn hóa, chính trị-
xã hội, đặc điểm tâm lý, tín ngưỡng,
về chính sách, sự quản lý hành chính,
*
Trường Đại học Tây Nguyên.
**
Trường Trung học phổ thông Chu Văn An,
tỉnh Đắk Lắk.
TRẦN VĂN DŨNG - ĐẶNG MINH TÂM – TRAO ĐỔI VỀ CÁCH ĐỌC VÀ VIẾT
59
trong việc phân vùng lãnh thổ, điều
chỉnh địa giới của chính quyền nhà
nước qua các thời kỳ; trong xu hướng
đặt tên mới, thay tên cũ... Cũng nhờ
địa danh, người ta có được sự hiểu
biết về sự giao tiếp và sự bảo lưu
ngôn ngữ. Có thể nói, đây là những
“vật hóa thạch ngôn ngữ”; là những “di
tích khảo cổ học không nằm trong
lòng đất”. Vì vậy, khi địa danh đã trở
thành “tín mã” của một đối tượng hoặc
một địa bàn nhất định, nó có tính ổn
định và truyền lại lâu dài. Cũng vì vậy,
một số thông tin nhất định nào đó của
một địa danh cùng những thông tin về
thời đại được phản ánh trong ngôn
ngữ đặt tên còn lưu lại, có giá trị cho
nhiều ngành khoa học.
Tiến trình lịch sử của các tộc người ở
Tây Nguyên cùng những tác động từ
bên ngoài đã hình thành nên những
nét văn hóa mang đậm dấu ấn đa sắc
tộc trên địa bàn, trong đó có văn hóa
địa danh. Sự đa dạng về hệ thống địa
danh đã góp phần mang lại cho Tây
Nguyên nét đẹp độc đáo. Đó cũng
đồng thời là những thách thức trong
việc danh pháp hóa địa danh trên địa
bàn. Hiểu đúng địa danh và định
hướng một cách thức sử dụng hợp lý
trong các hoạt động giao tiếp trên cơ
sở cách tiếp cận ngôn ngữ học cũng
như phù hợp với đặc điểm văn hóa
của chủ thể định danh là một việc cần
thiết. Trong giới hạn của bài viết,
chúng tôi điểm qua vài nét với một số
lượng hữu hạn các địa danh trên địa
bàn, bước đầu đưa ra một số ý kiến
về cách tiếp cận địa danh theo
phương pháp chuyên biệt của ngôn
ngữ học kết hợp với phương pháp
tiếp cận đa ngành và liên ngành,
nhằm phục vụ nhu cầu giao tiếp.
2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐỊA DANH
VÀ ĐỊA DANH Ở TÂY NGUYÊN
2.1. Sơ lược vấn đề địa danh và địa
danh học
Địa danh là một loại đơn vị định danh
cùng bậc với các loại là tên riêng khác
như nhân danh (tên riêng của người),
tộc danh (tên riêng tộc người), hiệu
danh (tên riêng các công sở, cửa
hiệu), vật danh (tên riêng các sản
phẩm văn hóa, khoa học, nghệ thuật,
kiến trúc). Trong vốn từ của một
ngôn ngữ, tên riêng làm thành một lớp
tên gọi có cấu trúc đặc biệt, với một
số lượng rất lớn; và là đối tượng
nghiên cứu của danh xưng học thuộc
từ vựng học. Bên cạnh những thành
phần chủ yếu có tính chất ngôn ngữ
học, tên riêng còn chứa đựng trong đó
những thông tin mang tính lịch sử, văn
hóa - xã hội đặc trưng cho từng
cộng đồng dân tộc. Do vậy, tên riêng
(trong đó có địa danh) trở thành đối
tượng nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học xã hội khác nhau như sử
học, dân tộc học, ngôn ngữ học, xã
hội học, tâm lý học
Địa danh được nghiên cứu trong một
chuyên ngành riêng, đó là địa danh
học (toponymy). Địa danh (toponym)
là tên riêng đối tượng địa lý, được
phân thành hai loại cơ bản, đó là các
đối tượng địa lý tự nhiên và đối tượng
địa lý do con người kiến tạo (còn gọi
là địa lý nhân văn). Địa danh có chức
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (272) 2021
60
năng cơ bản là định danh và cá thể
hóa đối tượng, làm công cụ giao tiếp
và góp phần phản ánh hiện thực trên
địa bàn. Khác với nhân danh, địa
danh bao giờ cũng gắn liền với thành
tố chung, và cùng với thành tố chung
làm thành một phức thể địa danh. Nói
cách khác, địa danh luôn đi liền với
thành tố chỉ loại hình của địa danh đó.
Có thể hình dung cấu tạo của một
phức thể địa danh theo mô hình sau:
Thành tố A Thành tố B
Danh từ chung
(loại hình của địa
danh)
Tên riêng
(địa danh - khu
biệt đối tượng)
Khi nghiên cứu địa danh trên một địa
bàn nào đó, người ta thường quan
tâm đến bối cảnh ra đời và hình thức
ngôn ngữ của địa danh. Chính nguồn
gốc tên gọi và nguồn gốc ngôn ngữ
của địa danh sẽ cho phép người
nghiên cứu xác định được thời điểm
ra đời, lý do đặt tên, và phần nào là ý
niệm mà chủ thể định danh gửi gắm
vào địa danh đó. Đối với một địa bàn
đa sắc tộc, đa ngôn ngữ như Tây
Nguyên, việc xác định nguồn gốc của
địa danh sẽ giúp cho việc xác định
được nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh
vực khác nhau. Tên riêng nói chung,
tên riêng các đối tượng địa lý nói riêng
là tên gọi xác định. Chính vì thế, tên
riêng không liên quan đến bất kỳ khái
niệm nào. ...
Địa danh Kon Tum
Địa danh từng được viết: Công Tum,
Kông Tum, Kontum, Kon Tum. Gần
đây trên Cổng thông tin điện tử, các
văn bản của địa phương và trên các
phương tiện truyền thông đều viết Kon
Tum. Dựa trên truyền thuyết của
người Bahnar(3), cách lý giải của một
số nhà nghiên cứu cũng như tiến trình
lịch sử của vùng đất này với sự ra đời
của Vương quốc Sedang(4) mà nòng
cốt là Bahnar và Sedang, đã có lúc
chúng tôi cũng thấy được tính hợp lý
của cách lý giải về nguồn gốc tên gọi
và cách thể hiện địa danh này (Kon
Tum). Nhìn chung, các ý kiến đều cho
rằng, Kon Tum có nghĩa là làng có
nhiều hồ nước. Tuy vậy, về ngữ
nguyên lại được lý giải theo hướng
khác biệt. Truyền thuyết dân gian
(Cổng thông tin điện tử tỉnh Kon Tum
giới thiệu), cho rằng “theo tiếng Kinh,
Kon Tum có nghĩa là Làng Hồ (kon là
làng, tum là hồ, ao, bàu nước...)”. Một
số ý kiến (trong đó có Wikipedia tiếng
Việt và các nhà nghiên cứu văn hóa ở
Kon Tum) thì cho rằng, danh xưng
này có nguồn gốc từ tiếng Bahnar
(kon là làng, tum là hồ). Thực ra trong
tiếng Việt và tiếng Bahnar đều không
có cụm từ kon tum với nghĩa như vậy.
Người Bahnar có nhiều nhóm địa
phương như Bahnar Koh, Bahnar
Tơlo, Bahnar Kơđeh, Bahnar Krem,
Bahnar Chăm, Bahnar Bơnâm, theo
đó có nhiều phương ngữ, có thể chia
làm ba phương ngữ chính như
Bahnar Koh, Bahnar Tơlo, Bahnar
Bơnâm. Nhưng trong tiếng Bahnar,
kon chủ yếu được dùng như từ chỉ
loại (con), chẳng hạn kon ngai hay
kon bơngai là con người; kon pơle\i có
nghĩa là người dân hoặc đồng bào;
còn tum hay kon kơtum là con kỳ
nhông. Tiếng Bahnar gọi làng là pơle\i.
Người Jeh Triêng gọi làng là plei hay
plei-tum. Qua tìm hiểu tâm lý tộc
người và thực tế điền dã gần đây, trên
cơ sở ngôn ngữ các tộc người tại chỗ
trên địa bàn, cùng với đó là cách lý
giải trong truyền thuyết của người
Bahnar, chúng tôi tin là đã có đủ cơ
sở để xác định, địa danh này được
định danh bằng ngôn ngữ Bahnar, tuy
nhiên không phải là Kon Tum mà là
Kông Tum (kông là núi, tum hay
kơtum là con kỳ nhông), nghĩa là lấy
ngọn núi có nhiều con kỳ nhông để
đặt tên cho địa bàn cư trú. Trong tiếng
Bahnar, kông cũng có nghĩa là công
trong tiếng Việt. Điều này lý giải vì sao
trước đây người ta gọi là Kông Tum
hay Công Tum. Thiết nghĩ, cách tiếp
cận này cũng phù hợp với đặc điểm
cư trú và tâm lý định danh của các tộc
TRẦN VĂN DŨNG - ĐẶNG MINH TÂM – TRAO ĐỔI VỀ CÁCH ĐỌC VÀ VIẾT
67
người thiểu số trên địa bàn – đó là lấy
đặc điểm của các đối tượng địa lý tự
nhiên để định danh cho đối tượng địa
lý nơi cư trú, chẳng hạn, địa danh của
người Êđê: }ư Kuê` (núi nhiều
vượn), }ư Ju\t (núi nhiều trúc), }ư
Drang (núi nhiều chim phượng hoàng).
Kontum là cách viết của người Pháp
thể hiện âm đọc là Kông Tum.
Địa danh Buôn Đôn
Địa danh này đang có nhiều cách gọi,
cách viết khác nhau: {uôn Đôn, Bản
Đôn, Yôk Đôn ({uôn Đôn - tiếng Êđê;
Bản Đôn - tiếng Lào; Yôk Đôn - tiếng
Mnông). Các trường hợp này chỉ khác
nhau về thành tố chung ([uôn - đơn vị
cư trú của người Êđê; bản - đơn vị cư
trú của người Lào; yôk - đối tượng địa
lý tự nhiên của người Mnông (đồi
hoặc núi thấp), còn thành tố “B” - Đon
trong phức thể địa danh này là tiếng
Lào (đảo). Vì nằm ở giữa khu vực
thác Bảy Nhánh nên bản này giống
như một ốc đảo (don, đọc là đon -
tiếng Lào tức là đảo; người Pháp phát
âm don thành đôn). Trước kia, trên
toàn khu vực thuộc địa bàn huyện
Buôn Đôn hiện nay, chỉ có Bản Đôn là
có nghề săn bắt và thuần dưỡng voi
rừng mà những người làm nghề này
lại chủ yếu là người Mnông. Xưa kia ở
đây không ai gọi là {uôn Đôn. Thực tế
gần khu vực này có một [uôn của
người Êđê gọi là {uôn Trĭ, sau này
nhập chung với Bản Đôn gọi là [uôn
({uôn Trĭ A và {uôn Trĭ B). Ở Đắk Lắk,
người dân thường không quen với
việc gọi đơn vị cư trú làng là bản mà
gọi là [uôn. Bởi vậy, người dân ở đây
thường gọi là {uôn Đôn (theo cách gọi
của người Êđê; người Mnông gọi là
bon hoặc bu).
Địa danh Yôk Đôn lại từ một nguyên
do khác. Yếu tố yôk có âm đọc gần
giống với dốc của tiếng Việt (tiếng
Mnông có nghĩa là núi nhưng thường
dùng để gọi núi thấp (đồi); núi cao gọi
là nâm), còn yếu tố don (đọc là đôn)
có nghĩa là đảo – theo tiếng Lào). Như
vậy, Yôk Đôn là sự kết hợp một yếu tố
của tiếng Mnông và tiếng Lào trong
cách gọi tổ hợp các ngọn núi (đồi) ở
khu vực này; là vùng đất có địa hình
cao nhất, nổi lên như một ốc đảo giữa
một vùng rừng núi có độ cao trung
bình khoảng 400m. Đây là địa bàn hội
tụ các tộc người như Êđê, Mnông,
Lào (thậm chí hiện có gia đình mang
huyết thống của cả ba tộc người) nên
địa danh ở vùng này khá phong phú
và phức tạp. Dòng sông lớn nhất chảy
qua đây được định danh bằng tiếng
Lào (Sêrêpôk).
Ngoài ra, nhiều địa danh ở Tây
Nguyên cũng đang có những cách gọi
và cách viết khác nhau, như:
- Các địa danh Nâm Nung, Nâm Dăr
(hoặc Nâm Dah), Nâm Ka (tiếng
Mnông) được người Việt đọc và viết
thành Nam Nung, Nam Đà, Nam Ka;
địa danh Hlang (cỏ tranh - tiếng Êđê)
được người Việt đọc và viết thành Hà
Lan. Một số địa danh hiện đang được
sử dụng trong các văn bản chính thức
ở địa phương như Đắk Hà, Đắk Tô (ở
Kon Tum), Đắk Nông, Đắk Min đã
được ghi lại theo lối phiên âm, nhưng
chưa phù hợp với bất kỳ ngôn ngữ
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (272) 2021
68
nào vì các cư dân ở Tây Nguyên đều
sử dụng ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Môn-
Khmer, chỉ có tộc người Êđê, Jrai
(vùng Bắc và Đông Bắc), người Chăm,
Churu, Raglai (Nam Trung Bộ và Nam
Tây Nguyên) nói ngôn ngữ thuộc ngữ
hệ Mã Lai-Đa Đảo). Vì vậy, các địa
danh này phải được viết là Dak Ha,
Dak Tô, Dak Nông, Dak Mil (theo cách
thể hiện của các tộc người bản địa sử
dụng ngữ hệ Môn-Khmer).
- Một số địa danh bằng ngôn ngữ bản
địa đã được người Việt Hán hóa.
Những trường hợp này chủ yếu diễn
ra thời chính quyền Ngô Đình Diệm.
Ví dụ Dak Mil, Dak R’Lâp (tiếng
Mnông) được chuyển thành Đức Lập
(gốc Hán); vùng Lăk (tiếng Mnông)
được gọi là Lạc Thiện. Tương tự,
Krông Pă] (tiếng Êđê) được đổi thành
Phước An; Êa H‘Leo (tiếng Êđê) đổi
thành Thuần Mẫn; B’Lao (tiếng Kơho)
đổi thành Bảo Lộc...
- Một số địa danh bằng ngôn ngữ bản
địa đã bị đọc và viết chệch đi do một
số người làm công tác hành chính
chưa tìm hiểu đầy đủ (mặc dù muốn
giữ nguyên dạng địa danh). Chẳng
hạn, Krông H’Nang (địa danh lấy tên
người con gái trong truyện cổ Êđê)
được viết và đọc thành Krông Năng;
Krông Knô (dòng sông cha, sông đực
- cùng với Krông Ana (sông cái, sông
mẹ) là hai con sông lớn có vai trò điều
tiết nguồn nước trong khu vực) được
viết và đọc thành Krông Nô...
4. VÀI ĐỀ XUẤT VỀ VIỆC ĐỊNH
DANH, SỬA ĐỔI VÀ SỬ DỤNG ĐỊA
DANH Ở TÂY NGUYÊN
Từ những phân tích trên, thiết nghĩ
cần có sự thống nhất trong cách đặt
tên, cách viết, cách gọi địa danh cho
phù hợp. Việc đặt tên mới, thay thế
tên cũ ít nhiều phản ánh sự kế thừa
và bảo lưu. Vì vậy, quá trình đặt tên,
sửa đổi tên cho các đối tượng địa lý
cần phải đảm bảo những yêu cầu có
tính nguyên tắc, đó là: tính dân tộc,
tính giáo dục, tính đại chúng, tính
thẩm mỹ, cần cân nhắc và tranh thủ
sự tư vấn của các nhà khoa học, các
nhà nghiên cứu về địa danh.
Khi định danh hoặc chuyển đổi loại
hình một địa danh nào đó trên cơ sở
một địa danh đã có, không nên phá
vỡ địa danh ban đầu mà phải sử
dụng nguyên dạng, đồng thời trên cơ
sở phương thức chuyển hóa mà đặt
tên mới cho đối tượng. Chẳng hạn,
khi thành lập các đơn vị hành chính
như huyện Krông Nô, Krông Năng thì
lấy nguyên tên gọi của con sông, vốn
là đối tượng địa lý tự nhiên đã có từ
trước, đó là dòng Krông Knô, dòng
Krông H’Nang, tương tự như huyện
Krông Ana đã đặt theo tên dòng
Krông Ana. Một số địa danh khác
như Nam Đà, Nam Nung, Nam Ka...
cũng tương tự như trường hợp trên
(nên để nguyên tên các ngọn núi ở
trên địa bàn khi đặt tên cho đơn vị
hành chính: Nâm Nung, Nâm Dăr,
Nâm Ka)...
Các địa danh đặt bằng ngôn ngữ bản
địa, đặc biệt là đặt theo tên gọi các
danh nhân lịch sử của địa phương,
cần có đầy đủ các danh tố của tên
riêng (tên đệm, tên họ, tên chính - tên
TRẦN VĂN DŨNG - ĐẶNG MINH TÂM – TRAO ĐỔI VỀ CÁCH ĐỌC VÀ VIẾT
69
cá nhân) như các địa danh mang tên
các danh nhân người Việt (người
Kinh). Ví dụ: đường Y Ngông Niê
Kdăm, đường Y Wang Mlô Duôn Du,
đường Y Bih Aliô... mà không nên viết
là đường Y Ngông, đường Y Wang,
đường Y Bih... (thiếu tên họ).
Khi sử dụng địa danh nào đó, cần căn
cứ vào đối tượng giao tiếp; hình thức
giao tiếp; hoàn cảnh giao tiếp, từ đó
xác định sử dụng ngôn ngữ địa danh
trong giao tiếp.
- Trong giao tiếp có tính phổ thông
(đối tượng là đại bộ phận dân chúng
và học sinh phổ thông), nên sử dụng
ngôn ngữ phổ thông bằng cách phiên
trực tiếp qua tiếng Việt. Ví dụ: Đắc
Lắc, Buôn Ma Thuột, Plây Cu, Công
Tum, Đắc Min... bởi nhiều người vùng
khác không hiểu các ký tự của ngôn
ngữ các tộc người Tây Nguyên. Đặc
biệt, trong trường phổ thông, học sinh
khó nhận diện các ký tự và cách viết
khác lạ trong chính tả tiếng Việt.
- Trong các văn bản hành chính, văn
bản pháp quy, văn bản khoa học, cần
viết theo cách thể hiện của ngôn ngữ
bản địa được sử dụng khi định danh,
bởi ngôn ngữ các tộc người thiểu số
Tây Nguyên đều sử dụng ký tự Latinh.
Trường hợp chủ thể định danh sử
dụng ngôn ngữ khác để mô phỏng
ngữ âm của ngôn ngữ bản địa là chủ
thể của địa danh đó (chủ thể của địa
danh chưa có chữ viết), hoặc dùng lối
chuyển tự (khi chủ thể của địa danh
có chữ viết), đều được thể hiện bằng
ngữ âm và tự dạng ngôn ngữ của chủ
thể địa danh đó. Có như vậy mới bảo
đảm được sự chân thực của địa danh
(trong mối quan hệ giữa âm và ký tự).
Ví dụ:
+ Viết Dak Lăk, Buôn Ma Thuôt, Plei
Ku, Kông Tum, Dak Mil, Nâm Dăr,
Nâm Nung, Nâm Ka (khi được soạn
thảo bằng tiếng Việt hoặc bằng ngôn
ngữ bản địa). Do hầu hết ngôn ngữ
các tộc người bản địa ở Tây Nguyên
là ngôn ngữ đơn lập nên các hình vị
trong từ cần được viết tách rời nhau
(không viết liền nhau như một số
trường hợp lâu nay).
+ Viết Darlac, Kontum, Pleiku,
Banmethuot, Darmil... (khi được viết
bằng ngôn ngữ biến hình hoặc đối tác
tiếp nhận văn bản sử dụng ngôn ngữ
biến hình).
5. THAY LỜI KẾT
Trên đây là những ý kiến trao đổi từ
góc nhìn ngôn ngữ - văn hóa, trên cơ
sở một số địa danh cụ thể trên địa bàn
đang có những ý kiến và cách thể
hiện khác nhau. Vẫn biết rằng khi địa
danh đã trở thành “tín mã” thì trong
hoạt động giao tiếp người ta ít quan
tâm đến “văn hóa” của tên gọi. Hơn
thế nữa, khi địa danh nào đó đã trở
thành ký hiệu của một danh xưng,
được ghi nhận trong các văn bản có
tính pháp lý của nhà nước, được thể
hiện trên con dấu của địa phương thì
trong khuôn khổ các lĩnh vực hoạt
động giao tiếp đều phải tuân thủ,
không tùy ý thay đổi. Song song với
tìm kiếm giải pháp cho vấn đề danh
pháp hóa địa danh, việc tạo điều kiện
thuận lợi cho các hoạt động giao tiếp
trong xu hướng phổ thông hóa cùng
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (272) 2021
70
với việc bảo tồn và phát huy những giá
trị văn hóa cổ truyền của cư dân trên
địa bàn thông qua địa danh là hai vấn
đề không thể tách rời.
CHÚ THÍCH
(1)
Để tiện theo dõi, trong bài viết chúng tôi tạm dùng chữ Đắk Lắk và các địa danh khác theo
quy định hiện hành.
(2)
Danh xưng là tên gọi các loại tên riêng, là đối tượng nghiên cứu của danh xưng học (như
hiệu danh, ví dụ (Báo) Đặk Lắk; vật danh, ví dụ: (bơ) Đặk Lắk; Địa danh, ví dụ (tỉnh) Đặk Lắk.
Khi cần sử dụng với tư cách là một tên gọi, chúng tôi dùng thuật ngữ danh xưng. Khi sử
dụng riêng cho địa danh học, chúng tôi dùng thuật ngữ địa danh.
(3)
Theo truyền thuyết của người Bahnar, Kon Tum ban đầu chỉ là một làng của người
Bahnar. “Thuở ấy, vùng này có làng người địa phương ở gần bên dòng sông Đăkbla với tên
gọi Kon Trang - OR. Lúc ấy, làng Kon Trang - OR rất thịnh vượng với dân số khá đông. Bấy
giờ, giữa các làng luôn gây chiến với nhau để chiếm đoạt của cải và bắt người về làm nô lệ.
Hai con trai của Ja Xi - một trong số những người đứng đầu làng Kon Trang - OR tên là Jơ
Rông và Uông không thích cảnh chiến tranh đã làm nhà ở riêng gần chỗ có hồ nước, cạnh
dòng Đăkbla. Vùng đất này rất thuận lợi cho phương thức sống định cư, nên dần dần có
nhiều người đến ở, mỗi ngày một phát triển thêm đông, lập thành làng mới có tên gọi là Kon
Tum. Từ đó, Kon Tum trở thành tên gọi chính thức cho một làng mới lập của người Bahnar,
cạnh dòng Đăkbla, nơi có nhiều hồ nước trũng”.
(4)
Sau khi nắm được toàn quyền ở Đại Nam, người Pháp bắt đầu mở rộng quyền kiểm soát
và tiến tới khai thác vùng Tây Nguyên. Năm 1888, một người Pháp là Mayréna xin chính
quyền Pháp đi thám hiểm khu vực Tây Nguyên để thỏa thuận với các dân tộc thiểu số ở đây
và được Toàn quyền Đông Dương - Ernest Constans chấp thuận. Bằng các tiểu xảo,
Mayréna đã thu phục được một số bộ tộc thiểu số (cụ thể là hai dân tộc Bahnar và Sedang)
và thành lập ra Vương quốc Sedang, Mayréna làm vua, lấy hiệu là Vua Marie đệ nhất, vua
Sedang (dẫn theo tài liệu Lịch sử hành chính Kon Tum).
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Cổng thông tin điện tử tỉnh Kon Tum
2. Đoàn Văn Phúc. 1996. Ngữ âm tiếng Êđê. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
3. Lê Hữu Phong. 2008. Từ vựng đối chiếu Việt - Bahnar, Bahnar - Việt. Hà Nội: Nxb.
Văn hóa Dân tộc.
4. Monfleur, Albert. 1931. Monographie de la province du Darlac, Hanoi. Bản đánh máy
lưu trữ tại Ban Lịch sử Văn phòng tỉnh ủy Đăk Lăk.
5. Siu Pơi (chủ biên) 1998. Từ điển Jrai - Việt. Hà Nội: Nxb. Giáo dục.
6. Sở Giáo dục - Đào tạo Dak Lak - Viện Ngôn ngữ học Việt Nam. 1993. Từ điển Việt -
Êđê. Hà Nội: Nxb. Giáo dục.
7. Tạ Văn Thông (chủ biên). 2015. Từ điển Êđê - Việt. Hà Nội: Nxb. Giáo dục Việt Nam.
8. Trần Văn Dũng. 2004. “Địa danh ở Buôn Ma Thuột”, trong Buôn Ma Thuột xưa và nay.
TPHCM: Nxb. Tổng hợp TPHCM, tr. 77-97.
File đính kèm:
trao_doi_ve_cach_doc_va_viet_mot_so_dia_danh_o_tay_nguyen_ti.pdf

