Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015

Mục tiêu: Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu mô tả tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015.

Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015 trang 1

Trang 1

Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015 trang 2

Trang 2

Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015 trang 3

Trang 3

Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015 trang 4

Trang 4

Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015 trang 5

Trang 5

Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015 trang 6

Trang 6

Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015 trang 7

Trang 7

Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015 trang 8

Trang 8

Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015 trang 9

Trang 9

Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015 trang 10

Trang 10

pdf 10 trang Danh Thịnh 15/01/2024 700
Bạn đang xem tài liệu "Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015

Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015
58
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 02, Số 02-2018)
Journal of Health and Development Studies (Vol.02, No.02-2018)
Nguyễn Thị Nhung
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy dinh dưỡng (SDD) là tình trạng cơ thể 
thiếu Protein – năng lượng và các vi chất 
dinh dưỡng (1). Trẻ từ khi sơ sinh cho đến 
lúc 5 tuổi là giai đoạn vô cùng quan trọng với 
những biến đổi nhanh chóng về thể chất, hoàn 
thiện về cấu tạo và chức năng của các cơ quan 
bộ phận, là lứa tuổi có nhu cầu dinh dưỡng 
cao, là thời kỳ nhạy cảm với các loại bệnh tật, 
ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển thể chất, 
tinh thần và vận động của trẻ (1). SDD hay 
gặp ở trẻ dưới 5 tuổi, ảnh hưởng rõ rệt tới sự 
phát triển trí tuệ, tầm vóc, khả năng lao động 
đến tuổi trưởng thành. 
Trong những năm trở lại đây, SDD trẻ em có 
xu hướng giảm trên phạm vi toàn cầu. Tuy 
nhiên theo thống kê của Quỹ Nhi đồng Liên 
Hiệp Quốc, Tổ chức Y tế thế giới và Ngân 
hàng thế giới (2011) về SDD trẻ em dưới 5 
tuổi thấy châu Á vẫn là châu lục đứng đầu 
về tỷ lệ 19,3% nhẹ cân và tỷ lệ 10,1% gầy 
còm, đứng thứ 2 về tỷ lệ 26,8% thấp còi (2). 
Tại Việt Nam, theo số liệu báo cáo năm 2014 
của Viện Dinh Dưỡng, tỷ lệ SDD của trẻ dưới 
5 tuổi nước ta giảm nhiều cụ thể là: thể nhẹ 
cân 14,5%; thể thấp còi 24,9%; thể gầy còm 
mức độ vừa 6,8%; nặng 4,8% (3). Có sự cách 
biệt lớn về tỷ lệ SDD tại các vùng miền Việt 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu mô tả tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi 
và một số yếu tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015.
Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả, trên 244 cặp mẹ - con với con dưới 5 tuổi nhỏ nhất trong gia đình 
tại 4 xã đặc biệt khó khăn Tân Lang, Mường Cơi, Tà Xùa, Hang Chú của 2 huyện nghèo Phù Yên, Bắc 
Yên tỉnh Sơn La trong thời gian từ tháng 10/2015 đến tháng 06/2016.
Kết quả: Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân là 43,0%, thể thấp còi là 57,8%, thể gầy còm là 11,5%. Cân 
nặng sơ sinh của trẻ thấp (dưới 2500g), thời điểm cai sữa cho trẻ không đúng có liên quan đến tình trạng 
suy dinh dưỡng thể nhẹ cân của trẻ dưới 5 tuổi. Tình trạng bà mẹ không khám thai, không uống viên sắt 
trong quá trình mang thai và trẻ ăn bổ sung dưới 4 nhóm thực phẩm có liên quan giữa tình trạng suy dinh 
dưỡng thể thấp còi của trẻ dưới 5 tuổi. Thời điểm cai sữa cho trẻ không đúng có liên quan đến tình trạng 
suy dinh dưỡng thể gầy còm của trẻ dưới 5 tuổi.
Kết luận: Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi ở cả 3 thể đều cao. Bà mẹ không khám thai, không 
uống sắt, cân nặng sơ sinh thấp, thức ăn bổ sung không đủ dinh dưỡng, cai sữa sớm đều có liên quan đến 
tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ.
Từ khóa: suy dinh dưỡng, trẻ em dưới 5 tuổi, đặc biệt khó khăn.
Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố 
liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015
Nguyễn Thị Nhung
BÀI BÁO NGHIÊN CỨU GỐC
*Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thị Nhung
Email: ntn7@huph.edu.vn
Trường Đại học Y tế công cộng
Ngày nhận bài: 24/04/2018
Ngày phản biện: 12/05/2018
Ngày đăng bài: 25/06/2018
59
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 02, Số 02-2018)
Journal of Health and Development Studies (Vol.02, No.02-2018)
Nguyễn Thị Nhung
Nam, trong khi các khu vực thành thị đang 
đối phó với tỷ lệ thừa cân béo phì ngày càng 
gia tăng thì các miền vùng sâu vùng xa vẫn 
phải đương đầu với thách thức của đói nghèo 
và SDD (4).
Sơn La là 1 tỉnh miền núi phía Bắc, trong đó 
Phù Yên, Bắc Yên là 2 trong 5 huyện nghèo 
của tỉnh Sơn La theo Nghị quyết 30a của 
Chính Phủ, là 2 huyện còn nhiều khó khăn, 
kinh tế - xã hội phát triển kém hơn so với 
các địa phương khác. Tân Lang, Mường Cơi, 
Tà Xùa, Hang Chú là 4 xã đặc biệt khó khăn 
thuộc 2 huyện Phù Yên, Bắc Yên của tỉnh 
Sơn La theo Quyết định số 30 của Thủ tướng 
Chính phủ, nơi có tỷ lệ hộ nghèo trên 20%, 
trình độ dân trí thấp cũng như điều kiện kinh 
tế đặc biệt khó khăn. Chính vì vậy, nghiên 
cứu được thực hiện với mục tiêu mô tả tình 
trạng SDD ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu 
tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của 
tỉnh Sơn La năm 2015.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại: xã Tân Lang, 
xã Mường Cơi thuộc huyện Phù Yên và xã 
Tà Xùa, xã Hang Chú thuộc huyện Bắc Yên, 
tỉnh Sơn La.
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 10/2015 – 
06/2016.
Thời gian thu thập số liệu tháng 11/2015.
Đối tượng nghiên cứu
Trẻ em dưới 5 tuổi và bà mẹ của trẻ.
Tiêu chuẩn lựa chọn: trẻ nhỏ nhất trong gia 
đình dưới 5 tuổi và bà mẹ của những trẻ này 
có mặt trên địa bàn nghiên cứu trong thời gian 
thu thập số liệu.
Tiêu chuẩn loại trừ: trẻ mắc các dị tật bẩm 
sinh, khuyết tật do không đánh giá được tình 
trạng dinh dưỡng theo Z-Score; bà mẹ mắc 
các bệnh tâm thần, rối loạn trí nhớ không có 
khả năng trả lời các câu hỏi phỏng vấn hoặc 
từ chối tham gia nghiên cứu.
Cỡ mẫu
Cỡ mẫu cho ước tính một tỷ lệ tương đối 
trong quần thể.
Công thức:
n = Z2(1 - /2)
p(1-p)
(ε p)2
Trong đó: 
n là cỡ mẫu nghiên cứu.
Z
1-α/2
 = 1,96 là giá trị tương ứng của hệ số giới 
hạn tin cậy tương ứng với α = 0,05, với độ tin 
cậy ước lượng 95%.
p = 0,22 là tỷ lệ SDD của trẻ dưới 5 tuổi tại 
Sơn La năm 2014 (theo số liệu báo cáo năm 
2014 của Viện Dinh dưỡng (3)).
ε = 0,25 là mức sai lệch tương đối giữa tham 
số mẫu và tham số quần thể.
Từ đó tính được cỡ mẫu tối thiểu n= 224. 
Trong nghiên cứu này đã có 244 cặp mẹ con 
được điều tra.
Chọn mẫu
Bước 1: Chọn xã: Chọn chủ đích 4 xã Tân 
Lang, Mường Cơi, Tà Xùa, Hang Chú. Trong 
mỗi xã, chọn mẫu theo tỷ lệ số trẻ dưới 5 tuổi 
tại mỗi xã: tại thời điểm nghiên cứu xã Tân 
Lang có 587 trẻ dưới 5 tuổi, Mường Cơi 685 
trẻ, Tà Xùa 258 trẻ, Hang Chú 310 trẻ. Như 
vậy, để đảm bảo số lượng mẫu nghiên cứu, số 
lượng trẻ được chọn tối thiểu tại mỗi xã là: xã 
Tân Lang 72 trẻ, Mường Cơi 84 trẻ, Tà Xùa 
32 trẻ, Hang Chú 38 trẻ.
6 ... à mẹ khám thai từ đủ 3 lần trở lên 
và 67,6% bà mẹ uống viên sắt trong quá trình 
mang thai. Trẻ có cân nặng sơ sinh từ 2500g 
trở lên chỉ chiếm 69,7%, bên cạnh đó có tới 
20,9% trẻ không được cân. Tỷ lệ trẻ không 
được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu rất 
cao, lên đến 92,1%. Thời điểm trung bình 
trẻ bắt đầu ăn bổ sung khá sớm khoảng giữa 
tháng thứ 4 và 78,8% bà mẹ cho trẻ ăn bổ 
sung sai thời điểm. 89,5% bà mẹ cai sữa cho 
trẻ sớm. 53,3% trẻ ăn bổ sung dưới 4 nhóm 
thực phẩm trong ngày.
Bảng 3. Mối liên quan giữa chăm sóc thai nghén và bà mẹ mới sinh đến tình trạng SDD 
của trẻ
Các yếu tố
Thể nhẹ cân Thể thấp còi Thể gầy còm
SDD Không SDD SDD
Không 
SDD SDD
Không 
SDD
n % n % n % n % n % n %
Khám 
thai
(n=244)
Không 20 40,8 29 59,2 35 71,4 14 28,6 5 10,2 44 89,8
Có 85 43,6 110 56,4 106 54,4 89 45,6 23 11,8 172 88,2
OR
95% CI
1,1
0,59 - 2,12
2,1
1,1 - 4,2
1,2
0,4 – 3,3
Uống 
viên sắt
(n=244)
Không 31 40,3 46 59,7 52 67,5 25 32,5 6 7,8 71 92,2
Có 74 44,8 91 55,2 88 53,3 77 46,7 22 13,3 143 86,7
OR
95% CI
0,83
0,48 - 1,44
1,82
1,03 - 3,23
0,6
0,2 - 1,4
Cân 
nặng sơ 
sinh của 
trẻ
(n=244)
< 2500g 14 70,0 6 30,0 15 75,0 5 25,0 3 15,0 17 85,0
≥ 2500g 74 41,2 100 58,8 89 52,4 81 47,6 22 12,9 148 87,1
OR
95% CI
3,3
1,2 - 9,3
2,7
0,9 - 7,9
1,2
0,3 - 4,4
Nguyễn Thị Nhung
64
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 02, Số 02-2018)
Journal of Health and Development Studies (Vol.02, No.02-2018)
Có mối liên quan giữa việc khám thai, uống 
viên sắt của bà mẹ với tình trạng trẻ SDD 
thể thấp còi. Bà mẹ không khám thai thì con 
có nguy cơ bị SDD thể thấp còi gấp 2,1 lần 
trẻ có bà mẹ được khám thai và sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê với 95% CI không chứa 
1 (1,05 – 4,18). Bà mẹ không uống viên sắt 
trong quá trình mang thai thì con có nguy 
cơ bị SDD thể thấp còi gấp 1,8 lần trẻ có bà 
mẹ được uống viên sắt và sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê với 95% CI không chứa 1 
(1,03 – 3,23).
 Có mối liên quan giữa cân nặng sơ sinh của 
trẻ với tình trạng trẻ SDD thể nhẹ cân. Trẻ 
có cân nặng sơ sinh dưới 2500g nguy cơ bị 
SDD thể nhẹ cân gấp 3,3 lần trẻ có cân nặng 
sơ sinh từ 2500g trở lên và sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê với 95% CI không chứa 1 
(1,20 – 9,27). 
Trẻ ăn bổ sung dưới 4 nhóm thực phẩm có 
nguy cơ bị SDD thể thấp còi gấp 1,7 lần trẻ 
được ăn bổ sung từ 4 nhóm thực phẩm trở lên 
và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với 95% 
CI không chứa 1 (1,1 – 2,9).
Nguy cơ bị SDD gầy còm ở trẻ cai sữa không 
đúng thời điểm chỉ bằng 0,2 lần so với nguy 
cơ bị SDD gầy còm ở trẻ có thời điểm cai sữa 
đúng và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với 
95% CI không chứa 1 (1,3 – 20,4). 
Không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
giữa tình trạng SDD với các yếu tố của việc 
nuôi con bằng sữa mẹ (vắt bỏ sữa non, bú 
mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, thời điểm 
ăn bổ sung).
BÀN LUẬN
Nghiên cứu đã cho thấy tình trạng SDD của 
trẻ em dưới 5 tuổi còn khá phổ biến ở Sơn La. 
Tỷ lệ SDD thể nhẹ cân, thấp còi và gầy còm 
rất cao lần lượt là 43,0%; 57,8% và 11,5%. 
So với số liệu điều tra toàn quốc năm 2014 
tỷ lệ SDD ở cả 3 thể trong nghiên cứu này 
cao hơn hẳn so với mức SDD trung bình của 
tỉnh Sơn La (21,7%; 34,4% và 10,3%), của 
Bảng 4. Mối liên quan giữa việc nuôi con bằng sữa mẹ và cho trẻ ăn bổ sung đến tình 
trạng SDD của trẻ
Các yếu tố
Thể nhẹ cân Thể thấp còi Thể gầy còm
SDD Không SDD SDD
Không 
SDD SDD
Không 
SDD
n % n % n % n % n % n %
Thực 
phẩm ăn 
bổ sung
(n=231)
Không 
đủ 59 48 64 52 79 64,2 44 35,8 14 11,4 109 88,6
Đủ 39 36,1 69 63,9 55 50,9 53 49,1 13 12,0 95 88,0
OR
95% CI
1,6
0,9 - 2,7
1,7
1,1 - 2,9
0,9
0,4 - 2,1
Thời điểm 
cai sữa
(n=133)
Không 
đúng 47 38,5 75 61,5 65 53,3 57 46,7 12 9,8 110 90,2
Đúng 6 54,5 5 45,5 7 63,6 4 36,4 4 36,4 7 63,6
OR
95% CI
0,5
0,5 - 6,7
0,7
0,4 - 5,5
0,2
1,3 - 20,4
Nguyễn Thị Nhung
65
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 02, Số 02-2018)
Journal of Health and Development Studies (Vol.02, No.02-2018)
khu vực Trung du miền núi phía Bắc (19,8%; 
30,7% và 8,2%) và cả nước (14,5%; 24,9% 
và 6,8%) (3). Điều này cho thấy tình trạng 
SDD ở trẻ em dưới 5 tuổi tại các vùng sâu, 
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn là một vấn 
đề sức khỏe rất cần được quan tâm. Kết quả 
này cũng cao hơn so với nghiên cứu của Trịnh 
Thị Tình tại xã Phúc Thịnh, huyện Chiêm 
Hóa, tỉnh Tuyên Quang năm 2012 (11,6%; 
22,8% và 7,2%) (6). Huyện Chiêm Hóa tỉnh 
Tuyên Quang cũng là huyện miền núi, tuy 
nhiên xã Phúc Thịnh không nằm trong danh 
sách những xã đặc biệt khó khăn theo quyết 
định số 204 của Thủ tướng Chính phủ. Điều 
này cho thấy cùng là khu vực miền núi, có 
những điều kiện khó khăn nhất định tuy nhiên 
ở những vùng khó khăn hơn thì tỷ lệ SDD cao 
hơn do hành vi chăm sóc thai nghén trong quá 
trình mang thai, việc nuôi con bằng sữa mẹ và 
cho trẻ ăn bổ sung.
4 xã nghiên cứu là những xã đặc biệt khó 
khăn của tỉnh Sơn La: thu nhập chính của 
hộ gia đình phần lớn là nông/lâm nghiệp 
(92,2%); bà mẹ là người dân tộc thiểu số 
(83,2); tỷ lệ hộ nghèo (23%). Về chăm sóc 
dinh dưỡng cho trẻ: 92,1% trẻ không bú 
sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu; 91,7% 
trẻ cai sữa sớm; 78,5% trẻ ăn bổ sung sớm; 
53,3% trẻ ăn bổ sung dưới 4 nhóm thực 
phẩm. Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối 
liên quan chặt chẽ giữa cân nặng sơ sinh 
của trẻ với tình trạng SDD thể nhẹ cân. Trẻ 
có cân nặng sơ sinh dưới 2500g nguy cơ bị 
SDD thể nhẹ cân gấp 3,3 lần trẻ có cân nặng 
sơ sinh từ 2500g trở lên. Một nghiên cứu 
tại Bangladesh cho thấy rằng tỷ lệ SDD thể 
nhẹ cân cao hơn rõ rệt ở trẻ có cân nặng sơ 
sinh thấp (52%) so với trẻ có cân nặng bình 
thường (33%) (7). Kết quả này tương tự 
với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thanh 
Quyết tại Hà Giang, tỷ lệ SDD ở trẻ sinh ra 
nhẹ cân cao gấp 2 lần so với trẻ sinh ra có 
cân nặng bình thường (8). 
Có mối liên quan giữa việc khám thai, uống 
viên sắt của bà mẹ với tình trạng trẻ SDD thể 
thấp còi. Bà mẹ không khám thai thì con nguy 
cơ bị SDD thể thấp còi gấp 2,1 lần trẻ có có bà 
mẹ được khám thai, bà mẹ không uống viên sắt 
trong quá trình mang thai thì con có nguy cơ 
bị SDD thể thấp còi gấp 1,82 lần trẻ có bà mẹ 
được uống viên sắt. Trong quá trình mang thai 
bà mẹ cần 3mg sắt để phòng chống bệnh thiếu 
máu do thiếu sắt, nhu cầu của sắt tăng gấp đôi 
để cơ thể mẹ sử dụng đồng thời để thai nhi 
phát triển và dự trữ. Một nghiên cứu tại Tây 
Phi đã chỉ ra rằng thiếu máu thiếu sắt ở trẻ có 
liên quan đến SDD thể thấp còi (OR 3,6) (9). 
Tuy nhiên kết quả này khác với kết quả của 
tác giả Nguyễn Thị Luận nghiên cứu tại Hà 
Nam không thấy mối liên quan giữa SDD thể 
thấp còi với việc khám thai và uống viên sắt 
của bà mẹ trong quá trình mang thai (10). Sự 
khác biệt này có thể do dịch vụ y tế tại các địa 
phương là khác nhau, có thể do các bà mẹ uống 
viên sắt nhưng chưa uống đúng. Việc thiếu sắt 
trong quá trình mang thai có thể dẫn đến hiện 
tượng đẻ non, suy dinh dưỡng bào thai.
Nghiên cứu này cho thấy có mối liên quan chặt 
chẽ giữa thành phần thực phẩm trẻ ăn bổ sung 
với tình trạng trẻ SDD thể thấp còi. Trẻ không 
được ăn bổ sung đầy đủ 4 nhóm thực phẩm có 
nguy cơ bị SDD thể thấp còi gấp 1,7 lần trẻ được 
ăn bổ sung từ 4 nhóm thực phẩm trở lên. Kết quả 
này phù hợp với nghiên cứu tại Hà Giang của 
tác giả Nguyễn Thanh Quyết, trẻ không được ăn 
bổ sung đầy đủ 4 nhóm thực phẩm có nguy cơ 
bị SDD thể thấp còi gấp 1,6 lần trẻ được ăn bổ 
sung từ 4 nhóm thực phẩm trở lên (8). Điều này 
cho thấy việc cung cấp đầy đủ thức ăn bổ sung 
cho trẻ là rất quan trọng, không những đủ về 
mặt năng lượng mà còn đầy đủ về dinh dưỡng 
và đa dạng các nhóm thực phẩm.
Trong điều tra này có 133 trẻ đã cai sữa, trong 
đó chỉ có 8,3% bà mẹ có thời điểm cai sữa 
đúng cho trẻ là 24 tháng. Kết quả này thấp 
Nguyễn Thị Nhung
66
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 02, Số 02-2018)
Journal of Health and Development Studies (Vol.02, No.02-2018)
hơn với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thanh 
Quyết năm 2011 tại Hà Giang với 29,7% bà 
mẹ có thời điểm cai sữa đúng cho trẻ (8). 
Trong nghiên cứu này cho thấy có mối liên 
quan giữa thời điểm cai sữa cho trẻ với tình 
trạng trẻ SDD gầy còm. Nguy cơ bị SDD gầy 
còm ở trẻ có thời điểm cai sữa không đúng chỉ 
bằng 0,2 lần nguy cơ bị SDD gầy còm ở trẻ có 
thời điểm cai sữa đúng. 89,5% bà mẹ cai sữa 
sớm cho trẻ sẽ dẫn đến trẻ thiếu đi nguồn dinh 
dưỡng quý giá từ sữa mẹ mà khó thực phẩm 
nào có thể bù lại được.
Ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu: Nghiên 
cứu đã mô tả được tình trạng SDD và một số 
yếu tố liên quan đến SDD của trẻ em dưới 5 
tuổi tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn 
La, điều này cho thấy ở những vùng sâu vùng 
xa thì tỷ lệ SDD vẫn là 1 gánh nặng đối với 
Việt Nam. Do hạn chế về nguồn lực và thời 
gian nên nghiên cứu này chưa bao trùm được 
tỷ lệ SDD gầy còm ở trẻ em dưới 5 tuổi. Bên 
cạnh đó sai số có thể gặp đó là sai số nhớ 
lại trong quá trình thu thập thông tin qua 
phỏng vấn, sai số do sự khác biệt ngôn ngữ 
khi phỏng vấn bà mẹ người dân tộc thiểu số, 
sai số hệ thống trong quá trình cân, đo chỉ số 
nhân trắc của trẻ.Tác giả đã khống chế sai số 
bằng cách phỏng vấn 1 cặp mẹ con với con 
nhỏ nhất trong gia đình (dưới 5 tuổi), điều tra 
viên là các cán bộ y tế tại địa phương đã được 
tập huấn và phỏng vấn thử để kiểm tra tính 
phù hợp của bộ câu hỏi. Đối với số liệu nhân 
trắc: điều tra viên tham gia cân đo đã được 
tập huấn chuẩn, có kỹ năng tốt và tham gia 
suốt quá trình nghiên cứu. Các dụng cụ cân 
đo được chuẩn hóa trước khi thực hiện được 
sử dụng trong cả quá trình nghiên cứu.
KẾT LUẬN
Tỷ lệ SDD thể nhẹ cân là 43,0%, thể thấp còi 
là 57,8%, thể gầy còm là 11,5%.
Cân nặng sơ sinh của trẻ thấp (dưới 2500g), 
thời điểm cai sữa cho trẻ không đúng có liên 
quan đến tình trạng SDD thể nhẹ cân của trẻ 
dưới 5 tuổi.
Tình trạng bà mẹ không khám thai, không 
uống viên sắt trong quá trình mang thai và trẻ 
ăn bổ sung dưới 4 nhóm thực phẩm có liên 
quan giữa tình trạng SDD thể thấp còi của trẻ 
dưới 5 tuổi.
Thời điểm cai sữa cho trẻ không đúng có liên 
quan đến tình trạng SDD thể gầy còm của trẻ 
dưới 5 tuổi
Lời cảm ơn: Tác giả xin gửi lời cảm ơn tới 
Viện Dinh dưỡng Quốc gia, Viện Đào tạo Y 
học dự phòng và Y tế công cộng, Trung tâm 
Y tế dự phòng tỉnh Sơn La đã tạo điều kiện 
thuận lợi, giúp đỡ tôi hoàn thành nghiên 
cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Y Hà Nội - Bộ môn Nhi 
(2013). Bài giảng Nhi khoa 1, NXB Y học, Hà 
Nội, 215; 228-230; 234-236.
2. UNICEF, WHO and WB (2012). Level and 
trends in child malnutrition 1990-2011, New 
York, USA, 1-12 (17)
3. Viện Dinh Dưỡng (2015). Số liệu thống 
kê Suy dinh dưỡng trẻ em năm 2014, truy 
cập ngày 10/11/2105, tại trang web http://
viendinhduong.vn/viewpdf.aspx?n=/TT%20tin 
%20Dd_2014/SDD_2014.pdf4. 
4. Dương Công Minh (2010). Hiệu quả của mô 
hình thử nghiệm can thiệp phòng chống suy 
dinh dưỡng cho trẻ dưới 5 tuổi tại một xã thuộc 
thành phố Hồ Chí Minh (từ tháng 9/2008 đến 
tháng 10/2009), Tạp chí Dinh dưỡng và Thực 
phẩm 6(3+4), 117-1245.
5. WHO (2006). WHO Child Growth Standard, 
World Health Organization, Geneva.
6. Trịnh Thị Tình (2013). Tình trạng dinh dưỡng 
và một số yếu tố ảnh hưởng của trẻ dưới 5 tuổi 
tại Phúc Thịnh, Chiêm Hóa, Tuyên Quang năm 
2012, Luận văn Cử nhân Y tế Công cộng, Đại 
học Y Hà Nội.
7. Nguyễn Thanh Quyết (2011). Thực trạng SDD 
Nguyễn Thị Nhung
67
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 02, Số 02-2018)
Journal of Health and Development Studies (Vol.02, No.02-2018)
và một số yếu tố liên quan ở trẻ em dưới 5 tuổi 
tại xã Tiên Yên, huyện Quang Bình, tỉnh Hà 
Giang năm 2011, Tiểu luận tốt nghiệp Bác sỹ 
chuyên khoa cấp I, Trường Đại học Y Hà Nội.
8. Rahman MS, Howlader T, Masud MS (2016). 
Association of Low-Birth Weight with 
Malnutrition in Children under Five Years in 
Bangladesh: Do Mother’s Education, Socio-
Economic Status, and Birth Interval Matter? 
PLoS One. 2016 Jun 29;11(6)
9. Thorne CJ, Roberts LM, Edwards DR (2013). 
Anaemia and malnutrition in children aged 
0–59 months on the Bijagós Archipelago, 
Guinea-Bissau, West Africa: a cross-sectional, 
population-based study. Paediatr Int Child 
Health. 2013 Aug; 33(3): 151–160
10. Nguyễn Thị Luận (2014). Tình trạng dinh dưỡng 
và một số yếu tố ảnh hưởng của trẻ em dưới 5 tuổi 
tại Đội Sơn, Duy Tiên, Hà Nam năm 2013, Khóa 
luận Bác sỹ Y khoa, Trường Đại học Y Hà Nội.
Nutritional status of children under 5 years of age and factors 
associated in 4 extremely difficult at Son La province, 2015
Nguyen Thi Nhung
Hanoi University of Public Health
Objectives: The study was conducted with the aim of describing malnutrition in children 
under 5 and some related factors in Son La province in 2015, on 244 mothers-children with 
the smallest 5-year-old children in families in 4 extremely difficult communes Tan Lang, 
Muong Coi, Ta Xua, Hang Chu of 2 poor districts of Phu Yen, Bac Yen, Son La province from 
10/2015 to 06/2016. Methods: The study design was cross-sectional. Main findings: The rate of 
underweight was 43,0%, stunting was 57,8%, wasting was 11,5%. Low birth weight (< 2500g), 
early weaning children were associated with underweight of under 5 years old. Mothers who 
did not receive antenatal care, did not take iron supplements during pregnancy and supplements 
under 4 food groups were associated with stunting of children under 5 years old. Early weaning 
was related to the wasting children under 5 years old. Conclusion: Malnutrition rate of children 
under 5 years old in Son La was high. Mothers who did not receive prenatal care, did not take 
iron, and children who had low birth weight, ate malnourished foods, and early weaning were 
all associated with malnutrition.
Keywords: malnutrition, children under 5 years old.
Nguyễn Thị Nhung

File đính kèm:

  • pdftinh_trang_suy_dinh_duong_o_tre_em_duoi_5_tuoi_va_mot_so_yeu.pdf