Tình trạng dinh dưỡng chu phẫu và kết quả sớm sau mổ các bệnh gan mật tụy
Dinh dưỡng rất cần thiết với người bệnh. Nhiều nghiên cứu cho thấy bệnh nhân nằm viện có vấn đề về dinh dưỡng (nghi ngờ suy dinh dưỡng hoặc suy dinh dưỡng nặng) chiếm tỷ lệ từ 20 – 50%. Suy dinh dưỡng làm gia tăng các biến chứng sau mổ do đó kéo dài thời gian nằm viện và tăng chi phí điều trị. Tại Việt Nam còn ít nghiên cứu ảnh hưởng của dinh dưỡng đến kết quả phẫu thuật.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Tình trạng dinh dưỡng chu phẫu và kết quả sớm sau mổ các bệnh gan mật tụy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình trạng dinh dưỡng chu phẫu và kết quả sớm sau mổ các bệnh gan mật tụy
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 328 TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CHU PHẪU VÀ KẾT QUẢ SỚM SAU MỔ CÁC BỆNH GAN MẬT TỤY Đặng Trần Khiêm*, Lưu Ngân Tâm**, Nguyễn Tấn Cường* TÓM TẮT Dinh dưỡng rất cần thiết với người bệnh. Nhiều nghiên cứu cho thấy bệnh nhân nằm viện có vấn đề về dinh dưỡng (nghi ngờ suy dinh dưỡng hoặc suy dinh dưỡng nặng) chiếm tỷ lệ từ 20 – 50%. Suy dinh dưỡng làm gia tăng các biến chứng sau mổ do đó kéo dài thời gian nằm viện và tăng chi phí điều trị. Tại Việt Nam còn ít nghiên cứu ảnh hưởng của dinh dưỡng đến kết quả phẫu thuật. Mục đích: (1)Đánh giá một số đặc điểm dinh dưỡng tiền phẫu và hậu phẫu. (2)Xác định mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng tiền phẫu (theo SGA) và kết quả sớm sau mổ của những bệnh nhân được thực hiện những phẫu thuật về gan mật tụy. Đối tượng và phương pháp: Bệnh nhân được mổ chương trình các bệnh về gan, lách, mật, tụy trong 5 tháng, từ 02/01/2011 đến 10/06/2011 tại khoa Ngoại Gan mật tụy (4B3), BV Chợ Rẫy. Thiết kế nghiên cứu: tiền cứu, phân tích hàng loạt ca (case series) Kết quả: 209 bệnh nhân được mổ chương trình các bệnh gan, lách, mật, tụy đủ tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu được đánh giá dinh dưỡng trước mổ bởi bác sĩ đã được huấn luyện đánh giá bằng phương pháp SGA (Subjective Global Assessment). Tỷ lệ suy dinh dưỡng theo phương pháp SGA (B và C) là 53,1%; Tỷ lệ thiếu cân/suy dinh dưỡng đánh giá theo BMI (< 18,5) là 35,9%. Tỷ lệ bệnh nhân có albumin huyết thanh < 3,5 g/dL là: 17,9%. Tỷ lệ bệnh nhân có prealbumin huyết thanh < 20 mg/dL là: 50,5%. Cân nặng khi ra viện thấp hơn trước khi mổ, 91,8% bệnh nhân có sụt cân. Prealbumin trung bình sau mổ: 13,03 ± 4,80 mg/dL sụt giảm rõ rệt so với prealbumin trước mổ 20,86 ± 7,98 mg/dL (p < 0,0001). CRP sau mổ trung bình: 126,01 ± 76,54 ng/mL. Biến chứng chiếm 23,4% tổng số bệnh nhân. Trong đó: xì rò (7,2%); nhiễm trùng vết mổ (15,3%) và biến chứng khác (4,8%). Thời gian nằm viện hậu phẫu trung bình 9,9 ± 5,7 ngày. Những bệnh nhân đại phẫu có suy dinh dưỡng (theo SGA) có nguy cơ xì rò cao gấp 2,9 lần nhóm có dinh dưỡng tốt. Bệnh nhân dinh dưỡng kém có nguy cơ nhiễm trùng vết mổ cao gấp 3,9 lần ở nhóm đại phẫu và 1,8 lần ở nhóm trung phẫu so với người có dinh dưỡng tốt. Kết luận: Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở bệnh nhân nằm viện tại khoa Gan mật tụy BV Chợ Rẫy còn cao (53,1%). Những bệnh nhân có suy dinh dưỡng thì nguy cơ biến chứng xì rò cao gấp 2,9 lần, nguy cơ nhiễm trùng vết mổ cao gấp từ 1,8 đến 3,9 lần so với bệnh nhân có dinh dưỡng tốt. Vì vậy, cần áp dụng phương pháp SGA đánh giá thường quy trước mổ. Những bệnh nhân suy dinh dưỡng phải được điều chỉnh trước phẫu thuật. Từ khóa: SGA: subjective global assessment, BMI, SDD (suy dinh dưỡng), CRP ABSTRACT PERIOPERATIVE NUTRITIONAL STATUS AND EARLY OUTCOMES OF PATIENTS AT DEPARTMENT OF HEPATO BILIARY AND PANCREATIC SURGERY, CHO RAY HOSPITAL Dang Tran Khiem, Luu Ngan Tam, Nguyen Tan Cuong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 328 - 334 * Khoa Ngoại-gan-mật-tụy, BV Chợ Rẫy ** Khoa Dinh Dưỡng, BV Chợ Rẫy Tác giả liên lạc: Bs. Đặng Trần Khiêm; ĐT 0906575935 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 329 Nutrition is indispensable for patients. Many studies revealed that a large amount of inpatients have nutritional problems (suspected undernutrition or malnutrition: 20 – 50%). Malnutrition makes morbidity and mortality increasing, prolongs hospital stay and affects cost-effectiveness of the treatment. There were few reports about nutritional influences and surgery outcomes in Viet Nam so far. Aims: (1)To evaluate some perioperative characteristics of nutritional status. (2) To reveal relation between preoperative nutritional status and early outcomes of inpatients at HBP surgery department. Subject and Method: patients on admission from January 2011 to June 2011 at HBP surgery department, Cho Ray Hospital Results: 209 eligible patients are evaluated nutritional status by well-trained practician preoperatively. Incidence of chronic malnutrition by BMI and SGAare 35.9% and53.1% respectively. The proportion of low albuminemia and preoperative prealbuminemia are 17.9% and 50.5% respectively. 98.1% of patients have weight loss on discharge. There are clearly decrease of prealbuminemia and increase of CRP postoperatively. Mean hospital stay was 9.9 ± 5.7 days. Malnutrition patients (based on SGA) have a risk of leakage 3.5 times higher and a risk of surgical site infection 3.9 times higher (major abdominal surgery), 1.8 times higher (minor abdominal surgery) than that of good nutrition ones. Conclusion: Malnutrition incidence of inpatients at HBP surgery department is still high. Malnutrition makes leakage and surgical site infection risk higher. Thus, it is necessary to perform screenings of inpatient nutritional status. The adjustment of preoperative undernutrison is definitely obligatory. Keywords: hospital malnutrition/undernutrition, SGA, suy dinh dưỡng (SDD), HBP, CRP ĐẶT VẤN ĐỀ Dinh dưỡng rất cần thiết với người bệnh. Nhiều nghiên cứu cho thấy bệnh nhân nằm viện có vấn đề về dinh dưỡng (chiếm tỷ lệ từ 20 – 50%)(4,10,18,26,27). Suy dinh dưỡng (SDD) làm gia tăng các biến chứng sau mổ(24) như: nhiễm trùng vết mổ, bục xì miệng nối, chậm lành vết thương. Bên cạnh đó, suy dinh dưỡng còn liên quan đến các biến chứng khác như: viêm phổi, nhiễm trùng huyết(3,11,19,25). Do đó, SDD kéo dài thời gian nằm viện (21) và tăng chi phí điều trị(9). Tại Việt Nam, có nhiều nghiên cứu về dinh dưỡng. Tuy nhiên, đa phần các nghiên cứu tập trung vào lĩnh vực dinh dưỡng trong cộng đồng. Trước năm 2000 dinh dưỡng trên bệnh nhân nằm viện hầu như không được đề cập đến. Năm 2006, có một nghiên cứu đánh giá tình trạng dinh dưỡng ... tổng quát, thần kinh, phục hồi chức năng hay phải chăm sóc dài Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 332 ngày, chúng tôi chọn mẫu gồm nhiều loại bệnh ngoại gan mật tụy có cả nặng và nhẹ. Khi phân nhóm dinh dưỡng theo nồng độ albumin, chúng tôi nhận thấy số bệnh nhân có albumin máu < 3,5 g/dL chiếm 14,5% (trong đó albumin máu < 3 g/dL là 6,3%) khác biệt không nhiều so với kết quả của Nguyễn Thùy An (18,2%)(3)và Putwatana (18,9%)(22). Tỷ lệ này thấp hơn kết quả trong nghiên cứu của Al Hudiathy và cs (1996): nhóm bệnh nhân không phẫu thuật tiêu hóa albumin máu < 3,5 g/dL chiếm 31% còn nhóm phẫu thuật tiêu hóa là 36%(5). Kết quả này cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có albumin máu thấp khá ít, đa số bệnh nhân (hơn 80%) có albumin trong giới hạn bình thường. Tuy nhiên nếu chỉ căn cứ vào chỉ số albumin này mà cho rằng tỷ lệ bệnh nhân suy dinh dưỡng thấp là không chính xác. Vì thời gian bán hủy của albumin khoảng 21 ngày, thời gian để tổng hợp cũng khá dài trong khi trong mẫu nghiên cứu có những trường hợp bệnh nhân bệnh cấp tính (sỏi ống mật chủ, viêm túi mật cấp, áp xe lách), tổng trạng trước đó lại tốt cho nên ảnh hưởng của bệnh lên tình trạng sinh tổng hợp albumin chưa thay đổi nhiều. Tuy nhiên, nếu dựa vào phương pháp đánh giá bằng SGA hoặc prealbumin là protein có thời gian bán hủy ngắn hơn chúng tôi vẫn đánh giá được tình trạng suy dinh dưỡng hiện tại. Điều đó cho thấy albumin không phải là một xét nghiệm nhạy để phát hiện tình trạng suy dinh dưỡng trên lâm sàng, nó phù hợp để đánh giá tình trạng dinh dưỡng tổng thể hơn(8). Khi phân nhóm dinh dưỡng theo prealbumin máu, số bệnh nhân có prealbumin máu < 20 mg/dL chiếm 50% hơi thấp hơn kết quả của các tác giả khác: Nguyễn Thùy An là 55,7%, Devoto G và cs (2006) tỷ lệ prealbumin < 17 mg/dL là 59%(3,13) Đặt hai kết quả albumin và prealbumin cạnh nhau có thể thấy prealbumin nhạy hơn hẳn trong đánh giá tình trạng dinh dưỡng. Prealbumin có thời gian bán hủy ngắn (2 ngày) lại không bị ảnh hưởng bởi lượng nước trong cơ thể nên nó phản ánh chính xác tình trạng dinh dưỡng hiện tại của bệnh nhân(8,23). Xét nghiệm này không những thích hợp để đánh giá bước đầu mà còn là công cụ để theo dõi tình trạng dinh dưỡng trên bệnh nhân nằm viện. SGA và biến chứng SGA và xì rò Trong 15 trường hợp bị xì – rò sau mổ, có 12 bệnh nhân có tình trạng dinh dưỡng kém trong khi chỉ có 3 người dinh dưỡng tốt. Sự khác biệt giữa 2 nhóm này có ý nghĩa thống kê (p = 0,0303). Loại trừ yếu tố gây nhiễu là loại phẫu thuật nặng hay nhẹ, chúng tôi tính được số đo kết hợp RR = 2,9 ở nhóm đại phẫu. Riêng nhóm trung phẫu do không có trường hợp xì rò nào nên không tính được RR về mặt thống kê. Như vậy, trên bệnh nhân đại phẫu những người có dinh dưỡng kém có nguy cơ bị xì rò cao gấp 2,9 lần so với người có dinh dưỡng tốt. Kết quả này rất có ý nghĩa vì các điều kiện để một miệng nối tiêu hóa lành tốt ngoài yếu tố kỹ thuật khâu nối, điều kiện môi trường trong ổ bụng thì tình trạng dinh dưỡng phải đầy đủ để bổ sung nguyên liệu làm lành vết thương. SGA và nhiễm trùng vết mổ Trong 32 trường hợp nhiễm trùng vết mổ, nhóm dinh dưỡng kém có 23 bệnh nhân, dinh dưỡng tốt có 9 bệnh nhân. Khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,0208). Phân tích phân tầng theo loại phẫu thuật, ở nhóm trung phẫu những bệnh nhân dinh dưỡng kém có nguy cơ nhiễm trùng vết mổ cao gấp 1,8 lần nhóm có dinh dưỡng tốt. Ở nhóm đại phẫu, nguy cơ nhiễm trùng vết mổ của nhóm dinh dưỡng kém gấp 3,9 lần. Tính chung cả hai nhóm phẫu thuật, bệnh nhân suy dinh dưỡng có nguy cơ nhiễm trùng vết mổ cao gấp 2,3 lần bệnh nhân bình thường. Rõ ràng là bệnh nhân dinh dưỡng kém khả năng miễn dịch và đề kháng với mầm bệnh giảm đi nên nguy cơ nhiễm trùng (cả toàn thân và tại vết mổ) cao hơn. Chính nhiễm trùng vết mổ cũng góp phần làm chậm lành vết thương của bệnh nhân. SGA và các biến chứng khác Trong 10 trường hợp có biến chứng khác, nhóm dinh dưỡng kém và dinh dưỡng tốt mỗi Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 333 bên có 5 trường hợp. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,8399). Số đo kết hợp RR= 0,9 thể hiện điều này. Các biến chứng hay gặp là: viêm phổi, viêm tụy cấp, báng bụng, loét da Trong các nghiên cứu của nước ngoài, các tác giả không công bố riêng tác động của SGA và từng loại biến chứng như chúng tôi. Sungurtekin và cs sử dụng biến chung là biến chứng sau mổ để tìm mối liên quan với tình trạng dinh dưỡng. Các biến chứng đó bao gồm: nhiễm trùng vết mổ, áp xe trong ổ bụng, viêm phổi, xẹp phổi, nhiễm trùng huyết(25). Các biến chứng tương tự cũng được Putwatana sử dụng. Còn Shirodkar thì sử dụng biến “các kết quả bất lợi” (adverse events) dùng chung cho biến dự hậu(22,24). Kết quả cho thấy nhóm suy dinh dưỡng (dù theo phương pháp nào) cũng có nguy cơ xảy ra biến chứng cao gấp 3 – 5 lần so với nhóm có tình trạng dinh dưỡng tốt. Kết quả của chúng tôi chỉ thấy mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng với xì rò và nhiễm trùng vết mổ, trong khi với các biến chứng khác sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. SGA và thời gian nằm viện Ở nhóm trung phẫu sự khác biệt về thời gian nằm viện giữa 3 nhóm SGA (A: 8, B: 9, C: 10 ngày) không có ý nghĩa thống kê (p =0,089). Nhưng ở nhóm đại phẫu, sự khác biệt này (SGA A: 10, B: 14, C: 15) có ý nghĩa thống kê (p < 0,0001). Về mặt ý nghĩa, kết quả của chúng tôi phù hợp với kết quả của những tác giả đi trước cả trong và ngoài nước. Các tác giả này đều kết luận suy dinh dưỡng trước mổ là một trong những yếu tố kéo dài thời gian nằm viện. Riêng trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả này còn cho thấy ở những phẫu thuật tương đối nhẹ nhàng, mức độ ảnh hưởng của dinh dưỡng lên thời gian nằm viện không nhiều trong khi với những trường hợp mổ lớn, tình trạng dinh dưỡng có liên quan chặt chẽ tới việc bệnh nhân nằm viện lâu hay mau. Prealbumin và CRP sau mổ Kết quả cho thấy nồng độ prealbumin trung bình sau mổ là 13,03 mg/dL. So với kết quả thử trước mổ là 20,86 mg/dL, sự khác biệt giữa hai chỉ số có ý nghĩa thống kê (p<0,0001). Prealbumin sau mổ giảm rõ rệt so với trước mổ. Prealbumin có thời gian bán hủy ngắn và sụt giảm ngay khi có thiếu hụt cung cấp protein – năng lượng. Nồng độ CRP sau mổ trung bình là 126,01 ng/mL. Nếu so với ngưỡng trên của giá trị bình thường (10 ng/mL) rõ ràng có sự gia tăng khá lớn. Theo Avram MM và cs (2005) trên bệnh nhân thẩm phân phúc mạc, CRP máu > 15 ng/mL có tỷ lệ sống còn xấu hơn hẳn so với nhóm CRP < 15 ng/mL, CRP cao có liên quan đến nhiễm trùng và viêm(6). Theo Menon và cs (2003), CRP máu > 60 ng/mL có liên quan đến nồng độ albumin máu thấp(17). Theo Gariballa và cs (2006), CRP máu cao (> 10 ng/mL) liên quan có ý nghĩa với nồng độ albumin, transferin, ascorbic acid và hemoglobin máu thấp, nó cũng liên quan đến tình trạng cung cấp thiếu năng lượng(15). Có thể thấy CRP máu tăng vừa biểu hiện cho quá trình viêm đang xảy ra vừa thể hiện tình trạng sa sút về dinh dưỡng. So sánh giá trị CRP trung bình giữa hai nhóm trung phẫu và đại phẫu, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,657). KẾT LUẬN Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở bệnh nhân nằm viện tại khoa Gan mật tụy BV Chợ Rẫy còn cao (53,1%). Những bệnh nhân có suy dinh dưỡng thì nguy cơ biến chứng xì rò cao gấp 2,9 lần, nguy cơ nhiễm trùng vết mổ cao gấp từ 1,8 đến 3,9 lần so với bệnh nhân có dinh dưỡng tốt. Vì vậy, cần áp dụng phương pháp SGA đánh giá thường quy trước mổ. Những bệnh nhân suy dinh dưỡng phải được điều chỉnh trước phẫu thuật. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Thị Hợp, Lê Danh Tuyên, Trần Thành Đô, Nguyễn Hồng Trường, Nguyễn Chí Tâm, Nguyễn Xuân Ninh, et al. (2011). Tình hình dinh dưỡng Việt Nam năm 2009 - 2010. Viện dinh dưỡng quốc gia - Unicef, Hà Nội. 2. Lưu Ngân Tâm, Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (2009), "Tình trạng dinh dưỡng bệnh nhân lúc nhập viện tại bệnh viện Chợ Rẫy ". Tạp chí Y học, Đại học Y Dược TP.HCM, 13: 305-312. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 334 3. Nguyễn Thùy An. (2010). Tình trạng dinh dưỡng và biến chứng nhiễm trùng sau phẫu thuật trong bệnh lý gan mật tụy. Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ điều dưỡng. Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh. 4. Phạm Thu Hương, Nghiêm Nguyệt Thu, Trần Châu Nguyên, Nguyễn Bích Ngọc, Thái Thị Thu Cúc, Nguyễn Thị Phương Thảo, et al. (2006). Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân nhập viện khoa Tiêu hóa và Nội tiết tại Bệnh viện Bạch Mai. 5. Al-Hudiathy AM, Lewis NM (1996), "Serum albumin and age are predictors of length of hospital stay in surgical patients ". Nutrition Research, 16(11-12): 1891 - 1990. 6. Avram MM, Fein PA, Paluch MM, Schloth T, Chattopadhyay J (2005), "Association Between C-Reactive Protein and Clinical Outcomes in Peritoneal Dialysis Patients". Advances in Peritoneal Dialysis, 21: 154 - 158. 7. Bauer J, Capra S, Ferguson M (2002), "Use of the scored Patient- Generated Subjective Global Assessment (PG-SGA) as a nutrition assessment tool in patients with cancer". European Journal of Clinical nutrition, 56: 779-785. 8. Beck FK, Rosenthal TC (2002), "Prealbumin: A Marker for Nutritional Evaluation". American Family Physician, 65: 1575- 1578. 9. Braunschweig C, Gomez S, Sheean PM (2000), "Impact of Declines in Nutritional Status on Outcomes in Adult Patients Hospitalized for More Than 7 days ". Journal of the American Dietetic Association, 100(11): 1316-1322. 10. DeLegge MH. (2008). Nutritional assessment. In Nutrition and Gastrointestinal Diseases (Vol. 1, pp. 334). Humana Press Inc., Totowa, New Jersey. 11. Detsky AS, Baker JP, O'Rourke K, Johnston N, Whitwell J, Mendelson RA, et al. (1987), "Predicting nutrition-associated complications for patients undergoing gastrointestinal surgery". Journal of Parenteral Enteral Nutrition 11(5): 440-446. 12. Detsky AS, McLaughlin JR, Baker JP, Johnston N, Whittaker S, Mendelson RA, et al. (1987), "What is Subjective Global Assessment of Nutritional Status?". Journal of Parenteral and Enteral Nutrition, 11(1): 8-13. 13. Devoto G, Gallo F, Marchello C, Racchi O, Garbarini R, Bonassi S, et al. (2006), "Prealbumin serum concentrations as a useful tool in the assessment of malnutrition in hospitalized patients". Clin Chem, 52(12): 2177-2179. 14. Do Thi Kim Lien, Bui Thi Nhung, Nguyen Cong Khan, Le Thi Hop, Nguyen Thi Quynh Nga, Nguyen Tri Hung, et al. (2009), "Impact of milk consumption on performance and health of primary school children in rural Vietnam ". Asian Pacific Journal of Clinical Nutrition 18(3): 326-334. 15. Gariballa S, Forster S (2006), "Effects of acute-phase response on nutritional status and clinical outcome of hospitalized patients". Nutrition, 22(7-8): 750 - 757. 16. Guigoz Y (2006), "The Mini Nutritional Assessment (MNA®) Review of the literature - What does it tell us?". The Journal of Nutrition, 10: 466-487. 17. Menon V, Wang X, Greene T, Beck GJ, Kusek JW, Marcovina SM, et al. (2003), "Relationship Between C-Reactive Protein, Albumin, and Cardiovascular Disease in PatientsWith Chronic Kidney Disease". American Journal of Kidney Diseases, 42(1): 44 - 52. 18. Nightingale JMD, Walsh N, Bullock ME, Wicks AC (1996), "Three simple methods of detecting malnutrition on medical wards". JOURNAL OF THE ROYAL SOCIETY OF MEDICINE, 89: 144-148. 19. Ocampo RB, Carmase CM, Kadatuan Y, Torillo MR (2008), "Predicting Post-operative Complications Based on Surgical Nutritional Risk Level using the SNRAF in Colon Cancer Patients: A Chinese General Hospital & Medical Center Experience". Philippine Journal of Surgical Specialties, 63(4): 147- 153. 20. Pham Van Nang, Cox-Reijven PLM, Greve JW, Soeters PB (2006), "Application of subjective global assessment as a screening tool for malnutrition in surgical patients in Vietnam". Clinical Nutrition (2006), 25: 102-108. 21. Pirlich M, Schutz T, Norman K, Gastell S, Lubke H J, Bischoff S C, et al. (2006), "The German hospital malnutrition study". Clinical Nutrition, 25: 563-572. 22. Putwatana P, Reodecha P, Sirapo-ngam Y, Lertsithichai P, Sumboonnanonda K (2004), "Nutrition screening tools and the prediction of postoperative infectious and wound complications: comparison of methods in presence of risk adjustment". Nutrition, 21: 691 - 697. 23. Shenkin A (2006), "Serum Prealbumin: Is It a Marker of Nutritional Status or of Risk of Malnutrition?". Clinical Chemistry, 52: 2177 - 2179. 24. Shirodkar M, Mohandas KM (2005), "Subjective global assessment: a simple and reliable screening tool for malnutrition among Indians". Indian Journal of Gastroenterology 24: 246-250. 25. Sungurtekin H, Sungurtekin U, Balci C, Zencir M, Erdem E (2004), "The Influence of Nutritional Status on Complications after Major Intraabdominal Surgery ". Journal of the American College of Nutrition, 23(3): 227-232. 26. Waitzberg DL, Caiaffa WT, Correia MI (2001), "The Brazilian national survey (IBRANUTRI): a study of 4000 patients. ". Nutrition, 17: 573. 27. Wyszynski DF, Perman M, Crivelli A (2003), "Prevalence of hospital malnutrition in Argentina: Preliminary result of population-based study.". Nutrition 19(2): 115-119. 28. Agence Nationale d’Accréditation et d’Évaluation en Santé (ANAES). Service des recommandations professionnelles. (2003). Les outils anthropométriques. In Évaluation diagnostique de la dénutrition protéino- énergétique des adultes hospitalisés (pp. 42-47). ANAES, Saint-Denis La Plaine, Paris.
File đính kèm:
- tinh_trang_dinh_duong_chu_phau_va_ket_qua_som_sau_mo_cac_ben.pdf