Tình trạng dinh dưỡng chu phẫu và kết quả sớm sau mổ các bệnh gan mật tụy

Dinh dưỡng rất cần thiết với người bệnh. Nhiều nghiên cứu cho thấy bệnh nhân nằm viện có vấn đề về dinh dưỡng (nghi ngờ suy dinh dưỡng hoặc suy dinh dưỡng nặng) chiếm tỷ lệ từ 20 – 50%. Suy dinh dưỡng làm gia tăng các biến chứng sau mổ do đó kéo dài thời gian nằm viện và tăng chi phí điều trị. Tại Việt Nam còn ít nghiên cứu ảnh hưởng của dinh dưỡng đến kết quả phẫu thuật.

Tình trạng dinh dưỡng chu phẫu và kết quả sớm sau mổ các bệnh gan mật tụy trang 1

Trang 1

Tình trạng dinh dưỡng chu phẫu và kết quả sớm sau mổ các bệnh gan mật tụy trang 2

Trang 2

Tình trạng dinh dưỡng chu phẫu và kết quả sớm sau mổ các bệnh gan mật tụy trang 3

Trang 3

Tình trạng dinh dưỡng chu phẫu và kết quả sớm sau mổ các bệnh gan mật tụy trang 4

Trang 4

Tình trạng dinh dưỡng chu phẫu và kết quả sớm sau mổ các bệnh gan mật tụy trang 5

Trang 5

Tình trạng dinh dưỡng chu phẫu và kết quả sớm sau mổ các bệnh gan mật tụy trang 6

Trang 6

Tình trạng dinh dưỡng chu phẫu và kết quả sớm sau mổ các bệnh gan mật tụy trang 7

Trang 7

pdf 7 trang Danh Thịnh 15/01/2024 1340
Bạn đang xem tài liệu "Tình trạng dinh dưỡng chu phẫu và kết quả sớm sau mổ các bệnh gan mật tụy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình trạng dinh dưỡng chu phẫu và kết quả sớm sau mổ các bệnh gan mật tụy

Tình trạng dinh dưỡng chu phẫu và kết quả sớm sau mổ các bệnh gan mật tụy
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 328
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CHU PHẪU VÀ KẾT QUẢ SỚM SAU MỔ 
CÁC BỆNH GAN MẬT TỤY 
Đặng Trần Khiêm*, Lưu Ngân Tâm**, Nguyễn Tấn Cường* 
TÓM TẮT 
Dinh dưỡng rất cần thiết với người bệnh. Nhiều nghiên cứu cho thấy bệnh nhân nằm viện có vấn đề về dinh 
dưỡng (nghi ngờ suy dinh dưỡng hoặc suy dinh dưỡng nặng) chiếm tỷ lệ từ 20 – 50%. Suy dinh dưỡng làm gia 
tăng các biến chứng sau mổ do đó kéo dài thời gian nằm viện và tăng chi phí điều trị. Tại Việt Nam còn ít nghiên 
cứu ảnh hưởng của dinh dưỡng đến kết quả phẫu thuật. 
Mục đích: (1)Đánh giá một số đặc điểm dinh dưỡng tiền phẫu và hậu phẫu. (2)Xác định mối liên quan giữa 
tình trạng dinh dưỡng tiền phẫu (theo SGA) và kết quả sớm sau mổ của những bệnh nhân được thực hiện những 
phẫu thuật về gan mật tụy. 
Đối tượng và phương pháp: Bệnh nhân được mổ chương trình các bệnh về gan, lách, mật, tụy trong 5 
tháng, từ 02/01/2011 đến 10/06/2011 tại khoa Ngoại Gan mật tụy (4B3), BV Chợ Rẫy. Thiết kế nghiên cứu: tiền 
cứu, phân tích hàng loạt ca (case series) 
Kết quả: 209 bệnh nhân được mổ chương trình các bệnh gan, lách, mật, tụy đủ tiêu chuẩn tham gia 
nghiên cứu được đánh giá dinh dưỡng trước mổ bởi bác sĩ đã được huấn luyện đánh giá bằng phương pháp 
SGA (Subjective Global Assessment). Tỷ lệ suy dinh dưỡng theo phương pháp SGA (B và C) là 53,1%; Tỷ 
lệ thiếu cân/suy dinh dưỡng đánh giá theo BMI (< 18,5) là 35,9%. Tỷ lệ bệnh nhân có albumin huyết thanh 
< 3,5 g/dL là: 17,9%. Tỷ lệ bệnh nhân có prealbumin huyết thanh < 20 mg/dL là: 50,5%. Cân nặng khi ra 
viện thấp hơn trước khi mổ, 91,8% bệnh nhân có sụt cân. Prealbumin trung bình sau mổ: 13,03 ± 4,80 
mg/dL sụt giảm rõ rệt so với prealbumin trước mổ 20,86 ± 7,98 mg/dL (p < 0,0001). CRP sau mổ trung 
bình: 126,01 ± 76,54 ng/mL. Biến chứng chiếm 23,4% tổng số bệnh nhân. Trong đó: xì rò (7,2%); nhiễm 
trùng vết mổ (15,3%) và biến chứng khác (4,8%). Thời gian nằm viện hậu phẫu trung bình 9,9 ± 5,7 ngày. 
Những bệnh nhân đại phẫu có suy dinh dưỡng (theo SGA) có nguy cơ xì rò cao gấp 2,9 lần nhóm có dinh 
dưỡng tốt. Bệnh nhân dinh dưỡng kém có nguy cơ nhiễm trùng vết mổ cao gấp 3,9 lần ở nhóm đại phẫu và 
1,8 lần ở nhóm trung phẫu so với người có dinh dưỡng tốt. 
Kết luận: Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở bệnh nhân nằm viện tại khoa Gan mật tụy BV Chợ Rẫy còn cao (53,1%). 
Những bệnh nhân có suy dinh dưỡng thì nguy cơ biến chứng xì rò cao gấp 2,9 lần, nguy cơ nhiễm trùng vết mổ 
cao gấp từ 1,8 đến 3,9 lần so với bệnh nhân có dinh dưỡng tốt. Vì vậy, cần áp dụng phương pháp SGA đánh giá 
thường quy trước mổ. Những bệnh nhân suy dinh dưỡng phải được điều chỉnh trước phẫu thuật. 
Từ khóa: SGA: subjective global assessment, BMI, SDD (suy dinh dưỡng), CRP 
ABSTRACT 
PERIOPERATIVE NUTRITIONAL STATUS AND EARLY OUTCOMES OF PATIENTS AT 
DEPARTMENT OF HEPATO BILIARY AND PANCREATIC SURGERY, CHO RAY HOSPITAL 
Dang Tran Khiem, Luu Ngan Tam, Nguyen Tan Cuong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 328 - 334 
* Khoa Ngoại-gan-mật-tụy, BV Chợ Rẫy ** Khoa Dinh Dưỡng, BV Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: Bs. Đặng Trần Khiêm; ĐT 0906575935 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 329
Nutrition is indispensable for patients. Many studies revealed that a large amount of inpatients have 
nutritional problems (suspected undernutrition or malnutrition: 20 – 50%). Malnutrition makes morbidity and 
mortality increasing, prolongs hospital stay and affects cost-effectiveness of the treatment. There were few reports 
about nutritional influences and surgery outcomes in Viet Nam so far. 
Aims: (1)To evaluate some perioperative characteristics of nutritional status. (2) To reveal relation between 
preoperative nutritional status and early outcomes of inpatients at HBP surgery department. 
Subject and Method: patients on admission from January 2011 to June 2011 at HBP surgery department, 
Cho Ray Hospital 
Results: 209 eligible patients are evaluated nutritional status by well-trained practician preoperatively. 
Incidence of chronic malnutrition by BMI and SGAare 35.9% and53.1% respectively. The proportion of low 
albuminemia and preoperative prealbuminemia are 17.9% and 50.5% respectively. 98.1% of patients have weight 
loss on discharge. There are clearly decrease of prealbuminemia and increase of CRP postoperatively. Mean 
hospital stay was 9.9 ± 5.7 days. Malnutrition patients (based on SGA) have a risk of leakage 3.5 times higher and 
a risk of surgical site infection 3.9 times higher (major abdominal surgery), 1.8 times higher (minor abdominal 
surgery) than that of good nutrition ones. 
Conclusion: Malnutrition incidence of inpatients at HBP surgery department is still high. Malnutrition 
makes leakage and surgical site infection risk higher. Thus, it is necessary to perform screenings of inpatient 
nutritional status. The adjustment of preoperative undernutrison is definitely obligatory. 
Keywords: hospital malnutrition/undernutrition, SGA, suy dinh dưỡng (SDD), HBP, CRP 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Dinh dưỡng rất cần thiết với người bệnh. 
Nhiều nghiên cứu cho thấy bệnh nhân nằm viện 
có vấn đề về dinh dưỡng (chiếm tỷ lệ từ 20 – 
50%)(4,10,18,26,27). Suy dinh dưỡng (SDD) làm gia 
tăng các biến chứng sau mổ(24) như: nhiễm trùng 
vết mổ, bục xì miệng nối, chậm lành vết 
thương. Bên cạnh đó, suy dinh dưỡng còn liên 
quan đến các biến chứng khác như: viêm phổi, 
nhiễm trùng huyết(3,11,19,25). Do đó, SDD kéo dài 
thời gian nằm viện (21) và tăng chi phí điều trị(9). 
Tại Việt Nam, có nhiều nghiên cứu về dinh 
dưỡng. Tuy nhiên, đa phần các nghiên cứu tập 
trung vào lĩnh vực dinh dưỡng trong cộng 
đồng. Trước năm 2000 dinh dưỡng trên bệnh 
nhân nằm viện hầu như không được đề cập 
đến. Năm 2006, có một nghiên cứu đánh giá 
tình trạng dinh dưỡng  ...  tổng quát, thần 
kinh, phục hồi chức năng hay phải chăm sóc dài 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 332
ngày, chúng tôi chọn mẫu gồm nhiều loại bệnh 
ngoại gan mật tụy có cả nặng và nhẹ. 
Khi phân nhóm dinh dưỡng theo nồng độ 
albumin, chúng tôi nhận thấy số bệnh nhân có 
albumin máu < 3,5 g/dL chiếm 14,5% (trong đó 
albumin máu < 3 g/dL là 6,3%) khác biệt không 
nhiều so với kết quả của Nguyễn Thùy An 
(18,2%)(3)và Putwatana (18,9%)(22). Tỷ lệ này thấp 
hơn kết quả trong nghiên cứu của Al Hudiathy 
và cs (1996): nhóm bệnh nhân không phẫu thuật 
tiêu hóa albumin máu < 3,5 g/dL chiếm 31% còn 
nhóm phẫu thuật tiêu hóa là 36%(5). Kết quả này 
cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có albumin máu thấp 
khá ít, đa số bệnh nhân (hơn 80%) có albumin 
trong giới hạn bình thường. Tuy nhiên nếu chỉ 
căn cứ vào chỉ số albumin này mà cho rằng tỷ lệ 
bệnh nhân suy dinh dưỡng thấp là không chính 
xác. Vì thời gian bán hủy của albumin khoảng 21 
ngày, thời gian để tổng hợp cũng khá dài trong 
khi trong mẫu nghiên cứu có những trường hợp 
bệnh nhân bệnh cấp tính (sỏi ống mật chủ, viêm 
túi mật cấp, áp xe lách), tổng trạng trước đó lại 
tốt cho nên ảnh hưởng của bệnh lên tình trạng 
sinh tổng hợp albumin chưa thay đổi nhiều. Tuy 
nhiên, nếu dựa vào phương pháp đánh giá bằng 
SGA hoặc prealbumin là protein có thời gian bán 
hủy ngắn hơn chúng tôi vẫn đánh giá được tình 
trạng suy dinh dưỡng hiện tại. Điều đó cho thấy 
albumin không phải là một xét nghiệm nhạy để 
phát hiện tình trạng suy dinh dưỡng trên lâm 
sàng, nó phù hợp để đánh giá tình trạng dinh 
dưỡng tổng thể hơn(8). 
Khi phân nhóm dinh dưỡng theo 
prealbumin máu, số bệnh nhân có prealbumin 
máu < 20 mg/dL chiếm 50% hơi thấp hơn kết quả 
của các tác giả khác: Nguyễn Thùy An là 55,7%, 
Devoto G và cs (2006) tỷ lệ prealbumin < 17 
mg/dL là 59%(3,13) Đặt hai kết quả albumin và 
prealbumin cạnh nhau có thể thấy prealbumin 
nhạy hơn hẳn trong đánh giá tình trạng dinh 
dưỡng. Prealbumin có thời gian bán hủy ngắn (2 
ngày) lại không bị ảnh hưởng bởi lượng nước 
trong cơ thể nên nó phản ánh chính xác tình 
trạng dinh dưỡng hiện tại của bệnh nhân(8,23). Xét 
nghiệm này không những thích hợp để đánh giá 
bước đầu mà còn là công cụ để theo dõi tình 
trạng dinh dưỡng trên bệnh nhân nằm viện. 
SGA và biến chứng 
SGA và xì rò 
Trong 15 trường hợp bị xì – rò sau mổ, có 12 
bệnh nhân có tình trạng dinh dưỡng kém trong 
khi chỉ có 3 người dinh dưỡng tốt. Sự khác biệt 
giữa 2 nhóm này có ý nghĩa thống kê (p = 
0,0303). Loại trừ yếu tố gây nhiễu là loại phẫu 
thuật nặng hay nhẹ, chúng tôi tính được số đo 
kết hợp RR = 2,9 ở nhóm đại phẫu. Riêng nhóm 
trung phẫu do không có trường hợp xì rò nào 
nên không tính được RR về mặt thống kê. Như 
vậy, trên bệnh nhân đại phẫu những người có 
dinh dưỡng kém có nguy cơ bị xì rò cao gấp 2,9 
lần so với người có dinh dưỡng tốt. Kết quả này 
rất có ý nghĩa vì các điều kiện để một miệng nối 
tiêu hóa lành tốt ngoài yếu tố kỹ thuật khâu nối, 
điều kiện môi trường trong ổ bụng thì tình 
trạng dinh dưỡng phải đầy đủ để bổ sung 
nguyên liệu làm lành vết thương. 
SGA và nhiễm trùng vết mổ 
Trong 32 trường hợp nhiễm trùng vết mổ, 
nhóm dinh dưỡng kém có 23 bệnh nhân, dinh 
dưỡng tốt có 9 bệnh nhân. Khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p = 0,0208). Phân tích phân tầng theo 
loại phẫu thuật, ở nhóm trung phẫu những bệnh 
nhân dinh dưỡng kém có nguy cơ nhiễm trùng 
vết mổ cao gấp 1,8 lần nhóm có dinh dưỡng tốt. 
Ở nhóm đại phẫu, nguy cơ nhiễm trùng vết mổ 
của nhóm dinh dưỡng kém gấp 3,9 lần. Tính 
chung cả hai nhóm phẫu thuật, bệnh nhân suy 
dinh dưỡng có nguy cơ nhiễm trùng vết mổ cao 
gấp 2,3 lần bệnh nhân bình thường. Rõ ràng là 
bệnh nhân dinh dưỡng kém khả năng miễn dịch 
và đề kháng với mầm bệnh giảm đi nên nguy cơ 
nhiễm trùng (cả toàn thân và tại vết mổ) cao hơn. 
Chính nhiễm trùng vết mổ cũng góp phần làm 
chậm lành vết thương của bệnh nhân. 
SGA và các biến chứng khác 
Trong 10 trường hợp có biến chứng khác, 
nhóm dinh dưỡng kém và dinh dưỡng tốt mỗi 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 333
bên có 5 trường hợp. Sự khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê (p = 0,8399). Số đo kết hợp RR= 
0,9 thể hiện điều này. Các biến chứng hay gặp là: 
viêm phổi, viêm tụy cấp, báng bụng, loét da 
Trong các nghiên cứu của nước ngoài, các tác 
giả không công bố riêng tác động của SGA và 
từng loại biến chứng như chúng tôi. Sungurtekin 
và cs sử dụng biến chung là biến chứng sau mổ 
để tìm mối liên quan với tình trạng dinh dưỡng. 
Các biến chứng đó bao gồm: nhiễm trùng vết 
mổ, áp xe trong ổ bụng, viêm phổi, xẹp phổi, 
nhiễm trùng huyết(25). Các biến chứng tương 
tự cũng được Putwatana sử dụng. Còn 
Shirodkar thì sử dụng biến “các kết quả bất lợi” 
(adverse events) dùng chung cho biến dự 
hậu(22,24). Kết quả cho thấy nhóm suy dinh dưỡng 
(dù theo phương pháp nào) cũng có nguy cơ xảy 
ra biến chứng cao gấp 3 – 5 lần so với nhóm có 
tình trạng dinh dưỡng tốt. Kết quả của chúng tôi 
chỉ thấy mối liên quan giữa tình trạng dinh 
dưỡng với xì rò và nhiễm trùng vết mổ, trong 
khi với các biến chứng khác sự khác biệt không 
có ý nghĩa thống kê. 
SGA và thời gian nằm viện 
Ở nhóm trung phẫu sự khác biệt về thời gian 
nằm viện giữa 3 nhóm SGA (A: 8, B: 9, C: 10 
ngày) không có ý nghĩa thống kê (p =0,089). 
Nhưng ở nhóm đại phẫu, sự khác biệt này (SGA 
A: 10, B: 14, C: 15) có ý nghĩa thống kê (p < 
0,0001). Về mặt ý nghĩa, kết quả của chúng tôi 
phù hợp với kết quả của những tác giả đi trước 
cả trong và ngoài nước. Các tác giả này đều kết 
luận suy dinh dưỡng trước mổ là một trong 
những yếu tố kéo dài thời gian nằm viện. Riêng 
trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả này còn 
cho thấy ở những phẫu thuật tương đối nhẹ 
nhàng, mức độ ảnh hưởng của dinh dưỡng lên 
thời gian nằm viện không nhiều trong khi với 
những trường hợp mổ lớn, tình trạng dinh 
dưỡng có liên quan chặt chẽ tới việc bệnh nhân 
nằm viện lâu hay mau. 
Prealbumin và CRP sau mổ 
Kết quả cho thấy nồng độ prealbumin trung 
bình sau mổ là 13,03 mg/dL. So với kết quả thử 
trước mổ là 20,86 mg/dL, sự khác biệt giữa hai 
chỉ số có ý nghĩa thống kê (p<0,0001). 
Prealbumin sau mổ giảm rõ rệt so với trước mổ. 
Prealbumin có thời gian bán hủy ngắn và sụt 
giảm ngay khi có thiếu hụt cung cấp protein – 
năng lượng. 
Nồng độ CRP sau mổ trung bình là 126,01 
ng/mL. Nếu so với ngưỡng trên của giá trị bình 
thường (10 ng/mL) rõ ràng có sự gia tăng khá 
lớn. Theo Avram MM và cs (2005) trên bệnh 
nhân thẩm phân phúc mạc, CRP máu > 15 
ng/mL có tỷ lệ sống còn xấu hơn hẳn so với 
nhóm CRP < 15 ng/mL, CRP cao có liên quan 
đến nhiễm trùng và viêm(6). Theo Menon và cs 
(2003), CRP máu > 60 ng/mL có liên quan đến 
nồng độ albumin máu thấp(17). Theo Gariballa và 
cs (2006), CRP máu cao (> 10 ng/mL) liên quan có 
ý nghĩa với nồng độ albumin, transferin, ascorbic 
acid và hemoglobin máu thấp, nó cũng liên quan 
đến tình trạng cung cấp thiếu năng lượng(15). Có 
thể thấy CRP máu tăng vừa biểu hiện cho quá 
trình viêm đang xảy ra vừa thể hiện tình trạng sa 
sút về dinh dưỡng. So sánh giá trị CRP trung 
bình giữa hai nhóm trung phẫu và đại phẫu, sự 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,657). 
KẾT LUẬN 
Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở bệnh nhân nằm viện 
tại khoa Gan mật tụy BV Chợ Rẫy còn cao 
(53,1%). Những bệnh nhân có suy dinh dưỡng 
thì nguy cơ biến chứng xì rò cao gấp 2,9 lần, 
nguy cơ nhiễm trùng vết mổ cao gấp từ 1,8 đến 
3,9 lần so với bệnh nhân có dinh dưỡng tốt. Vì 
vậy, cần áp dụng phương pháp SGA đánh giá 
thường quy trước mổ. Những bệnh nhân suy 
dinh dưỡng phải được điều chỉnh trước phẫu 
thuật. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lê Thị Hợp, Lê Danh Tuyên, Trần Thành Đô, Nguyễn Hồng 
Trường, Nguyễn Chí Tâm, Nguyễn Xuân Ninh, et al. (2011). 
Tình hình dinh dưỡng Việt Nam năm 2009 - 2010. Viện dinh 
dưỡng quốc gia - Unicef, Hà Nội. 
2. Lưu Ngân Tâm, Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (2009), "Tình trạng 
dinh dưỡng bệnh nhân lúc nhập viện tại bệnh viện Chợ Rẫy ". 
Tạp chí Y học, Đại học Y Dược TP.HCM, 13: 305-312. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 334
3. Nguyễn Thùy An. (2010). Tình trạng dinh dưỡng và biến chứng 
nhiễm trùng sau phẫu thuật trong bệnh lý gan mật tụy. Luận văn 
tốt nghiệp thạc sỹ điều dưỡng. Đại học Y dược thành phố Hồ 
Chí Minh, TP Hồ Chí Minh. 
4. Phạm Thu Hương, Nghiêm Nguyệt Thu, Trần Châu Nguyên, 
Nguyễn Bích Ngọc, Thái Thị Thu Cúc, Nguyễn Thị Phương 
Thảo, et al. (2006). Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân nhập viện 
khoa Tiêu hóa và Nội tiết tại Bệnh viện Bạch Mai. 
5. Al-Hudiathy AM, Lewis NM (1996), "Serum albumin and age 
are predictors of length of hospital stay in surgical patients ". 
Nutrition Research, 16(11-12): 1891 - 1990. 
6. Avram MM, Fein PA, Paluch MM, Schloth T, Chattopadhyay J 
(2005), "Association Between C-Reactive Protein and Clinical 
Outcomes in Peritoneal Dialysis Patients". Advances in Peritoneal 
Dialysis, 21: 154 - 158. 
7. Bauer J, Capra S, Ferguson M (2002), "Use of the scored Patient-
Generated Subjective Global Assessment (PG-SGA) as a 
nutrition assessment tool in patients with cancer". European 
Journal of Clinical nutrition, 56: 779-785. 
8. Beck FK, Rosenthal TC (2002), "Prealbumin: A Marker for 
Nutritional Evaluation". American Family Physician, 65: 1575-
1578. 
9. Braunschweig C, Gomez S, Sheean PM (2000), "Impact of 
Declines in Nutritional Status on Outcomes in Adult Patients 
Hospitalized for More Than 7 days ". Journal of the American 
Dietetic Association, 100(11): 1316-1322. 
10. DeLegge MH. (2008). Nutritional assessment. In Nutrition and 
Gastrointestinal Diseases (Vol. 1, pp. 334). Humana Press Inc., 
Totowa, New Jersey. 
11. Detsky AS, Baker JP, O'Rourke K, Johnston N, Whitwell J, 
Mendelson RA, et al. (1987), "Predicting nutrition-associated 
complications for patients undergoing gastrointestinal 
surgery". Journal of Parenteral Enteral Nutrition 11(5): 440-446. 
12. Detsky AS, McLaughlin JR, Baker JP, Johnston N, Whittaker S, 
Mendelson RA, et al. (1987), "What is Subjective Global 
Assessment of Nutritional Status?". Journal of Parenteral and 
Enteral Nutrition, 11(1): 8-13. 
13. Devoto G, Gallo F, Marchello C, Racchi O, Garbarini R, Bonassi 
S, et al. (2006), "Prealbumin serum concentrations as a useful 
tool in the assessment of malnutrition in hospitalized patients". 
Clin Chem, 52(12): 2177-2179. 
14. Do Thi Kim Lien, Bui Thi Nhung, Nguyen Cong Khan, Le Thi 
Hop, Nguyen Thi Quynh Nga, Nguyen Tri Hung, et al. (2009), 
"Impact of milk consumption on performance and health of 
primary school children in rural Vietnam ". Asian Pacific Journal 
of Clinical Nutrition 18(3): 326-334. 
15. Gariballa S, Forster S (2006), "Effects of acute-phase response on 
nutritional status and clinical outcome of hospitalized patients". 
Nutrition, 22(7-8): 750 - 757. 
16. Guigoz Y (2006), "The Mini Nutritional Assessment (MNA®) 
Review of the literature - What does it tell us?". The Journal of 
Nutrition, 10: 466-487. 
17. Menon V, Wang X, Greene T, Beck GJ, Kusek JW, Marcovina 
SM, et al. (2003), "Relationship Between C-Reactive Protein, 
Albumin, and Cardiovascular Disease in PatientsWith Chronic 
Kidney Disease". American Journal of Kidney Diseases, 42(1): 44 - 
52. 
18. Nightingale JMD, Walsh N, Bullock ME, Wicks AC (1996), 
"Three simple methods of detecting malnutrition on medical 
wards". JOURNAL OF THE ROYAL SOCIETY OF MEDICINE, 
89: 144-148. 
19. Ocampo RB, Carmase CM, Kadatuan Y, Torillo MR (2008), 
"Predicting Post-operative Complications Based on Surgical 
Nutritional Risk Level using the SNRAF in Colon Cancer 
Patients: A Chinese General Hospital & Medical Center 
Experience". Philippine Journal of Surgical Specialties, 63(4): 147-
153. 
20. Pham Van Nang, Cox-Reijven PLM, Greve JW, Soeters PB 
(2006), "Application of subjective global assessment as a 
screening tool for malnutrition in surgical patients in Vietnam". 
Clinical Nutrition (2006), 25: 102-108. 
21. Pirlich M, Schutz T, Norman K, Gastell S, Lubke H J, Bischoff S 
C, et al. (2006), "The German hospital malnutrition study". 
Clinical Nutrition, 25: 563-572. 
22. Putwatana P, Reodecha P, Sirapo-ngam Y, Lertsithichai P, 
Sumboonnanonda K (2004), "Nutrition screening tools and the 
prediction of postoperative infectious and wound 
complications: comparison of methods in presence of risk 
adjustment". Nutrition, 21: 691 - 697. 
23. Shenkin A (2006), "Serum Prealbumin: Is It a Marker of 
Nutritional Status or of Risk of Malnutrition?". Clinical 
Chemistry, 52: 2177 - 2179. 
24. Shirodkar M, Mohandas KM (2005), "Subjective global 
assessment: a simple and reliable screening tool for 
malnutrition among Indians". Indian Journal of Gastroenterology 
24: 246-250. 
25. Sungurtekin H, Sungurtekin U, Balci C, Zencir M, Erdem E 
(2004), "The Influence of Nutritional Status on Complications 
after Major Intraabdominal Surgery ". Journal of the American 
College of Nutrition, 23(3): 227-232. 
26. Waitzberg DL, Caiaffa WT, Correia MI (2001), "The Brazilian 
national survey (IBRANUTRI): a study of 4000 patients. ". 
Nutrition, 17: 573. 
27. Wyszynski DF, Perman M, Crivelli A (2003), "Prevalence of 
hospital malnutrition in Argentina: Preliminary result of 
population-based study.". Nutrition 19(2): 115-119. 
28. Agence Nationale d’Accréditation et d’Évaluation en Santé 
(ANAES). Service des recommandations professionnelles. 
(2003). Les outils anthropométriques. In Évaluation diagnostique 
de la dénutrition protéino- énergétique des adultes hospitalisés (pp. 
42-47). ANAES, Saint-Denis La Plaine, Paris. 

File đính kèm:

  • pdftinh_trang_dinh_duong_chu_phau_va_ket_qua_som_sau_mo_cac_ben.pdf