Tiến hóa trầm tích Pleistocen muộn-holocen đới bờ đồng bằng Nam Bộ và sự ghép nối đồng bằng triều bán đảo Cà Mau với đồng bằng châu thổ sông Mê Kông trong Holocen giữa-muộn
Đồng bằng Nam Bộ, thuộc phía nam Việt Nam là một trong những đồng bằng lớn nhất ở
Châu Á. Trong phạm vi khu vực đới bờ nghiên cứu đã cho thấy có sự tồn tại của hai đồng bằng được
hình thành theo cơ chế thủy động lực khác nhau, đó là: đồng bằng châu thổ sông Mê Kông và đồng
bằng triều bán đảo Cà Mau. Trên cơ sở phân tích đặc điểm tướng trầm tích dựa trên: (i) các tham số
trầm tích chỉ thị môi trường của 29 lỗ khoan vùng bãi triều và vùng đồng bằng ven biển, hàng trăm
trạm khảo sát trầm tích tầng mặt; (ii) đặc điểm địa chấn địa tầng 21 tuyến địa chấn; và (iii) dữ liệu
tuổi tuyệt đối, lịch sử tiến hóa trầm tích Pleistocen muộn -Holocen đồng bằng Nam Bộ cũng như
mối liên hệ giữa đồng bằng châu thổ sông Mê Kông và đồng bằng triều bán đảo Cà Mau trong
Holocen giữa – muộn đã được làm sáng tỏ. Cả 2 đồng bằng được đặc trưng bởi 3 nhóm tướng tương
ứng với 3 pha thay đổi mực nước biển: (1) Nhóm tướng aluvi biển thấp (arLST Q13b); (2) Nhóm
tướng ven biển biển tiến (amtTST Q21-2) và tướng sét xám xanh biển nông- vũng vịnh (mtTST Q21-2);
(3) Pha biển cao Holocen giữa -muộn (Q22-3 HST) có sự phân dị giữa 2 đồng bằng. Đồng bằng châu
thổ sông Mê Kông được đặc trưng bởi 3 nhóm tướng châu thổ là: (i) Nhóm tướng châu thổ ngầm
Holocen giữa muộn (amh1Q22-3) bị chôn vùi; (ii) Nhóm tướng đồng bằng châu thổ Holocen muộn
(amh2Q23) và (iii) nhóm tướng châu thổ ngầm hiện đại (amh3Q23). Còn đồng bằng triều bán đảo Cà
Mau được đặc trưng bởi nhóm tướng cồn cát, đồng bằng gian triều và lạch triều. Trong quá trình
biển thoái của miền hệ thống trầm tích biển cao có 3 thời điểm mực nước biển dừng tương đối đã
tạo ra 3 thế hệ đường bờ cổ (5ka BP, 2.5ka BP và 1ka BP). Trên đồng bằng châu thổ được đánh dấu
bằng các thùy châu thổ quay lưng ra biển phía đông nam, còn trên đồng bằng triều bán đảo Cà Mau
các cồn cát biển có xu thế đổi hướng từ quay lưng về phía đông (đường bờ 2,500 năm Bp) đến phía
đông nam (đường bờ 500 năm và 200 năm BP).
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiến hóa trầm tích Pleistocen muộn-holocen đới bờ đồng bằng Nam Bộ và sự ghép nối đồng bằng triều bán đảo Cà Mau với đồng bằng châu thổ sông Mê Kông trong Holocen giữa-muộn
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 97-120 97 Original Article Late Pleistocene - Holocene Sedimentary Evolution of Nam Bo Plain and Correlation from the Ca Mau Peninsula to the Mekong River Delta in Midle-Late Holocene Nguyen Thi Huyen Trang , Tran Nghi, Dinh Xuan Thanh, Nguyen Dinh Thai, Tran Thi Thanh Nhan *VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam Received 10 October 2019 Revised 20 November 2019; Accepted 28 November 2019 Abstract: Located in southern Vietnam, the Southern plain is one of the largest in Asia. Within the coastal area, this study has indicated that there are two plains forming by different hydrodynamic mechanisms: the river dominated Mekong Delta plain and the tidal dominated plain of the Ca Mau peninsula. Studying lithofacies based on: (i) sedimentary parameters indicating environment of 29 boreholes in tidal flat and coastal plains, hundreds of surveyed surface sediment stations; (ii) stratigraphy seismic characteristics of the 21 seismic sections; and (iii) absolute age data, evolutionary history of late Pleistocene - Holocene sediments in the Southern plain and the relationship between the Mekong Delta and the tidal plain of the Ca Mau peninsula in the middle Holocene - late be clarified. Both plains are characterized by 3 lithofacies complexes corresponding to 3 phases of sea-level change: (i) lowstand alluvial facies complex (arLST Q13b); (ii) coastal facies complex (amtTST Q21-2) and shallow marine-lagoon greenish-gray clay facies (mtTST Q21-2); (iii) the phase of the middle-late Holocene (Q22-3 HST) has a differentiation between the two plains. The Me Kong delta is characterized by three deltaic facies complexes: (1) the late middle-late Holocene buried submarine deltaic facies complex (amh1Q22-3); (2) late Holocene deltaic plain facies complex (amh2Q23) and modern submarine deltaic facies complex (amh3Q23). The tidal plain of Ca Mau peninsula is characterized by a complex of sandy bars, tidal plains and tidal channels. In the regressive process, four periods of relative sea-level stopped, creating three ancient shoreline (5ka BP, 2.5ka BP; and 1 ka BP). The delta plain is marked by deltaic lobes turning to the southeast sea, while the Ca Mau plain characterized by the sand bars that tend to change direction from the east (2.5 ka BP) to the southeast (0.5ka BP and 0.2ka BP). Keywords: lithofacies, sequences stratigraphy, late Pleistocene - Holocene, Nam Bo plain. ________ Corresponding author. E-mail address: nguyentrang181@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4476 VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 97-120 98 Tiến hóa trầm tích Pleistocen muộn -Holocen đới bờ đồng bằng Nam Bộ và sự ghép nối đồng bằng triều bán đảo Cà Mau với đồng bằng châu thổ sông Mê Kông trong Holocen giữa-muộn Nguyễn Thị Huyền Trang , Trần Nghi, Đinh Xuân Thành, Nguyễn Đình Thái, Trần Thị Thanh Nhàn *Trường Đại Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 10 tháng 10 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 20 tháng 11 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 28 tháng 11 năm 2019 Tóm tắt: Đồng bằng Nam Bộ, thuộc phía nam Việt Nam là một trong những đồng bằng lớn nhất ở Châu Á. Trong phạm vi khu vực đới bờ nghiên cứu đã cho thấy có sự tồn tại của hai đồng bằng được hình thành theo cơ chế thủy động lực khác nhau, đó là: đồng bằng châu thổ sông Mê Kông và đồng bằng triều bán đảo Cà Mau. Trên cơ sở phân tích đặc điểm tướng trầm tích dựa trên: (i) các tham số trầm tích chỉ thị môi trường của 29 lỗ khoan vùng bãi triều và vùng đồng bằng ven biển, hàng trăm trạm khảo sát trầm tích tầng mặt; (ii) đặc điểm địa chấn địa tầng 21 tuyến địa chấn; và (iii) dữ liệu tuổi tuyệt đối, lịch sử tiến hóa trầm tích Pleistocen muộn -Holocen đồng bằng Nam Bộ cũng như mối liên hệ giữa đồng bằng châu thổ sông Mê Kông và đồng bằng triều bán đảo Cà Mau trong Holocen giữa – muộn đã được làm sáng tỏ. Cả 2 đồng bằng được đặc trưng bởi 3 nhóm tướng tương ứng với 3 pha thay đổi mực nước biển: (1) Nhóm tướng aluvi biển thấp (arLST Q13b); (2) Nhóm tướng ven biển biển tiến (amtTST Q21-2) và tướng sét xám xanh biển nông- vũng vịnh (mtTST Q21-2); (3) Pha biển cao Holocen giữa -muộn (Q22-3 HST) có sự phân dị giữa 2 đồng bằng. Đồng bằng châu thổ sông Mê Kông được đặc trưng bởi 3 nhóm tướng châu thổ là: (i) Nhóm tướng châu thổ ngầm Holocen giữa muộn (amh1Q22-3) bị chôn vùi; (ii) Nhóm tướng đồng bằng châu thổ Holocen muộn (amh2Q23) và (iii) nhóm tướng châu thổ ngầm hiện đại (amh3Q23). Còn đồng bằng triều bán đảo Cà Mau được đặc trưng bởi nhóm tướng cồn cát, đồng bằng gian triều và lạch triều. Trong quá trình biển thoái của miền hệ thống trầm tích biển cao có 3 thời điểm mực nước biển dừng tương đối đã tạo ra 3 thế hệ đường bờ cổ (5ka BP, 2.5ka BP và 1ka BP). Trên đồng bằng châu thổ được đánh dấu bằng các thùy châu thổ quay lưng ra biển phía đông nam, còn trên đồng bằng triều bán đảo Cà Mau các cồn cát biển có xu thế đổi hướng từ quay lưng về phía đông (đường bờ 2,500 năm Bp) đến phía đông nam (đường bờ 500 năm và 200 năm BP). Từ khóa: Tướng trầm tích, địa tầng phân tập, Pleistocen muộn – Holocen, đồng bằng Nam Bộ. ________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: nguyentrang181@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4476 N.T.H. Trang et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 97-120 99 1. Mở đầu Đồng bằng Nam Bộ là đồng bằng có diện tích lớn nhất nước ta (gấp 3 lần đồng bằng Sông Hồng), được bồi đắp bởi vật liệu trầm tích của sông Mê Kông. Khu vực đới bờ đồng bằng Nam Bộ (từ cửa Tiểu tới mũi Cà Mau) giới hạn từ độ sâu khoảng 25m nước tiến sâu vào đất liền 15- 20km (Theo Allen, Galoway, Wright, 1975) (hình 3). Về địa tầng và trầm tích luận Đệ Tứ của đới bờ Nam Bộ đã có nhiều tác giả quan tâm nghi ... địa hình nghiêng thoải, hình thành sườn dốc về phía biển (nguồn: Liu, J.P. và nnk ) [15]. N.T.H. Trang et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 97-120 115 Hình 17. Cột địa tầng phân tập tổng hợp trầm tích Pleistocen muộn - Holocen đới bờ đồng bằng Nam Bộ. N.T.H. Trang et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 97-120 116 Hình 18. Các sơ đồ tướng đá-cổ địa lý giai đoạn Pleistocen muộn -Holocen (Q13b-Q2). N.T.H. Trang et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 97-120 117 4.2. Quá trình ghép nối của 2 đồng bằng trong Holocen giữa -muộn (Q2 2-3) - Khái quát: Giai đoạn từ 5-1ka BP là giai đoạn biển thoái. Mực nước biển hạ thấp xuống độ sâu -2m so với mực nước biển hiện tại và có 2 lần dừng tương đối lâu tạo ra 3 đường bờ cổ được ghi nhận bởi các minh chứng quan trọng sau đây: (1) Ngấn biển cao 5m (có tuổi 6-5ka BP) và 2,5m (có tuổi 3-2.5ka BP) trên mực nước biển trên vách đá vôi ở Ninh Bình, Quảng Bình, Hà Tiên, Vịnh Hạ Long và trên vách đá cát kết ở đảo Phú Quốc [25]; (2) Các thùy cồn cát trên các đồng bằng châu thổ bồi tụ như Sông Hồng và sông Mê Kông [4]; (3) Tuổi 5ka BP của các đê cát trắng ven bờ ở ven biển Quảng Bình [12]; (4) Tuổi 1.5-1ka BP của thềm san hô ở độ sâu -2m ở Khánh Hòa [12, 26]. - Ở khu vực đồng bằng sông Mê Kông giai đoạn này hình thành Nhóm tướng châu thổ bồi tụ chôn vùi (amhHSTQ22-3). Do động lực sông thống trị (Hình 19a) và khối lượng trầm tích dư thừa được tích tụ trong bối cảnh mực nước biển hạ thấp đã hình thành 3 thế hệ đường bờ cổ (5ka BP; 2.5ka BP và 1ka BP) đánh dấu 3 thời kỳ ngưng nghỉ của mực nước biển trong quá trình biển thoái (Hình 18e, Hình 18f). Mỗi đường bờ cổ được đánh dấu bởi 1 cặp thùy cồn cát cửa sông châu thổ và đường bờ nằm ở vị trí giữa 2 thùy đó. Mỗi cồn cát có hình lưỡi liềm và cánh cung quay lưng ra biển được thành tạo do phối hợp của 4 yếu tố động lực: sông, sóng, dòng chảy ven bờ và thủy triều. Không gian giữa các thế hệ giồng cát 5ka - 2.5ka và 2.5-1ka BP đã hình thành Nhóm tướng bột sét đồng bằng châu thổ rộng lớn có địa hình nghiêng thoải về phía biển. Chúng được bồi tụ theo nguyên lý hồi quy trầm tích giữa các cồn cát cửa sông. - Ở khu vực bán đảo Cà Mau trong giai đoạn này xuất hiện và phát triển các thế hệ cồn cát: (1) Thời kỳ 5-2.5 ka BP. Từ khi đường bờ còn ở vị trí 5ka BP phiá đông và đông nam đồng bằng Nam Bộ đang là vùng biển bao phủ (Hình 18c). Tuy nhiên từ khoảng 3-2.5ka BP bắt đầu xuất hiện các cồn cát ngầm ở khu vực U Minh thượng và khu vực Mũi Cà Mau. Các cồn cát này đầu tiên được hình thành dưới dạng cồn ngầm do địa hình đáy biển có xu thế nâng cao và phân dị tạo các bẫy tích tụ cát từ dòng chảy ven bờ vận chuyển phù sa từ cửa sông Mê Kông xuống. Các cồn cát được tôn cao nhanh và biến thành đảo trong bối cảnh mực biển được hạ thấp đáng kể và dòng chảy bồi tích ven bờ khi chảy qua vùng biển bán đảo Cà Mau bị giảm tốc độ đột ngột trước khi chảy vòng về biển Tây (Hình 18d). (2) Thời kỳ 2.5-1.0 ka BP mực nước biển hạ thấp xuống -2m so với mực nước biển hiện tại các cồn cát được mở rộng với một tốc độ nhanh thành các đồng bằng triều ngăn cách với nhau bởi các lạch triều tương đối rộng. Với vai trò động lực triều thống trị (Hình 19b) đồng bằng triều bán đảo Cà Mau chính thức được hình thành và ngăn cách với đồng bằng châu thổ sông Mê Kông bởi lạch triều khá lớn (Hình 18e). (3) Thời kỳ 1.0 ka BP đến nay đồng bằng triều được mở rộng và hoàn thiện dần bởi các dòng bồi tích từ sông Mê Kông mang tới. Cùng với quá trình đó hệ thống lạch triều ngày càng được co hẹp lại tựa như các dòng sông trên đồng bằng triều như sông Cái Lớn, Cái Bé, sông Ông Đốc, sông Bãi Háp... Ở khu vực bờ biển phía Tây quá trình bồi tụ trầm tích theo hướng từ ngoài biển vào bờ theo nguyên lý “phân dị ngược”. Nghĩa là thành phần độ của trầm tích tầng mặt từ bờ ra khơi thô dần. Ở bãi triều hiện đại hàm lượng cấp hạt sét chiếm trên 90%, trong khi đó ở độ sâu 15m nước là trầm tích bùn cát và trầm tích cát sạn ở độ sâu từ 25m nước trở ra. Điều đó được giải thích như sau: nguồn trầm tích có từ ngoài khơi do dòng chảy từ sông Mê Kông mang tới. Chúng được phân dị, tái vận chuyển và lắng đọng bởi dòng ngang của sóng. Vì vậy càng xa nguồn trầm tích càng mịn. Quá trình bồi tụ bãi triều sét xẩy ra trong bối cảnh đứt gãy hiện đại Hà Tiên-Cà Mau tái hoạt động nên đã tạo ra một đường bờ thẳng tắp chạy theo hướng bắc nam (Hình 18f). Tại vùng biển Mũi Cà Mau hiện đang hình thành các cồn cát ngầm do tác động của sóng và N.T.H. Trang et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 97-120 118 dòng bồi tích ven bờ tạo nên dạng địa hình gồ ghề lượn sóng (hình 18). Các cồn cát này đang có xu thế dịch chuyển theo hướng chảy của dòng bồi tích. Hình 19. Các yếu tố thủy động lực khống chế quá trình vận chuyển, phân dị và lắng đọng trầm tích ở đồng bằng sông Mê Kông và bán đảo Cà Mau. a) Ở Đồng bằng sông Mê Kông có 3 nhóm thủy động lực: Sông, sóng, dòng chảy ven bờ và thủy triều. Trong đó động lực sông là chủ đạo; b) Ở bán đảo Cà Mau gồm 3 nhóm thủy động lực: động lực thủy triều, sóng và dòng chảy ven bờ. Trong đó thủy triều là chủ đạo. 5. Kết luận 1. Trầm tích Pleistocen muộn phần muộn- Holocen đới bờ đồng bằng Nam Bộ hình thành và phát triển theo một phức tập với 3 miền hệ thống trong mối quan hệ với sự thay đổi mực nước biển. 2. Giai đoạn biển thoái Pleistocen muộn phần muộn toàn bộ khu vực đồng bằng sông Mê Kông và đồng bằng bán đảo Cà Mau đều bị bao phủ bởi Nhóm tướng aluvi biển thấp (arLSTQ13b). Trong đó hệ thống các lòng sông trên cả 2 khu vực đã bào mòn cắt xẻ mạnh mẽ tạo ra ranh giới dưới của phức tập (Q13b-Q2). 3. Miền hệ thống trầm tích biển tiến bắt đầu bằng pha biển tiến Holocen sớm-giữa (TSTQ21-2) có sự phân hóa rõ rệt của 2 đồng bằng. Đới bờ đồng bằng sông Mê Kông phát triển các Nhóm tướng bùn cát bãi triều cửa sông estuary biển tiến còn đới bờ bán đảo Cà Mau được thống trị bởi nhóm tướng bùn đầm lầy ven biển chứa than bùn. Trong pha biển tiến cực đại đới bờ của 2 đồng bằng cơ bản giống nhau là bị chìm ngập trong môi trường biển nông-vũng vịnh. Tuy nhiên do ảnh hưởng tính kế thừa của nhóm tướng đầm lầy than bùn trước đó nên đới bờ bán đảo Cà Mau trầm tích sét chứa nhiều vật chất hữu cơ nên có màu xám đen còn đới bờ đồng bằng sông Mê Kông thì vẫn có màu xám xanh đặc trưng. 4. Trong giai đoạn biển cao (Holocen giữa - muộn) (HSTQ22-3) tiến hóa trầm tích của đới bờ 2 đồng bằng theo 2 cơ chế hoàn toàn khác nhau. Đới bờ đồng bằng châu thổ sông Mê Kông tiến hóa theo quy luật của một châu thổ bồi tụ dư thừa trầm tích động lực sông đóng vai trò chủ đạo. Trong lúc đó đới bờ của bán đảo Cà mau tiến hóa theo cơ chế lắp ghép các đồng bằng triều nhỏ thành đồng bằng triều lớn vật liệu trầm tích được mang đến do các dòng chảy ven bờ. Quá trình đó được khống chế bởi động lực thủy triều là chủ đạo. 5. Các lạch triều hiện đại trên đồng bằng bán đảo Cà Mau là ranh giới cuối cùng giữa các mảnh ghép đồng bằng triều, trong đó lạch triều sông Cái Lớn là ranh giới của 2 đồng bằng. Lời cảm ơn Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trường Đại học Khoa học Tự nhiên trong đề tài mã số TN.19.13, sự giúp đỡ của Văn phòng các chương trình trọng điểm cấp nhà nước thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, Khoa Địa chất, Trường ĐH KHTN, Liên Đoàn Địa chất và Khoáng sản biển, Chương trình KC-09/06-10, KC-09/11-15 trong quá trình thu thập và xử lý số liệu. Nhân dịp này tập thể tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ quý báu đó. Tài liệu tham khảo [1] T. Tamura, Y. Saito, N.V. Lap, T.T.K. Oanh, M.D. Bateman, D. Matsumoto, S.Yamashita, Origin and evolution of interdistributary delta plains; insights from Mekong River delta, N.T.H. Trang et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 97-120 119 Geology 40 (2012) 303–306, https://doi.org/10. 1130/G32717.1. [2] T.T.K. Oanh, N.V. Lap, M. Tateishi, I. Kobayashi, Y. Saito, T. Nakamura, Sediment facies and Late Holocene progradation of the Mekong River Delta in Bentre Province, southern Vietnam: an example of evolution from a tidedominated to a tide- and wave-dominated delta, Sedimentary Geology 152 (3e4) (2002) 313e325, https://doi.org/10.1016/S0037-0738 (02)00098-2. [3] N.V. Lap, T.T.K. Oanh, M. Tateishi, Late Holocene depositional environments and coastal evolution of the Mekong River Delta, southern Vietnam, Journal of Asian Earth Sciences 18 (2000) 427–439, https://doi.org/10.1016/S1367- 9120(99)00076-0. [4] T. Tamura, Y. Saito, M.D. Bateman, N.V. Lap, T.T.K. Oanh, D. Matsumoto, Luminescence dating of beach ridges for characterizing multi- decadal to centennial deltaic shoreline changes during Late Holocene, Mekong River delta, Marine Geology 326–328 (2012) 140–153. https://doi.org/10.1016/j.margeo.2012.08.004. [5] D.V. Thuan, The palynological eco-asemblages in Holocene sediments of the Nam Bo plain, PhD Thesis, Hanoi University of Mining and Geology, 2005 (in Vietnamese). [6] N.H. Dung, Deviding stratigraphy of Neogene- Quaternary sediments and researching geological structure of Nam Bo plain, Collaboration project between the Southern Geological Mapping Division with the Southern Geological- Hydrogeological Federation, 2000 (in Vietnamese). [7] N.D. Dy, Research on river mouths and sedimentary environment changes in Holocene of coastal areas of Cuu Long river delta, serving socio-economic sustainable development, 2010, National projects, code KC09.06/06-10 (in Vietnamese). [8] T. Nghi, N.D. Dy, D.D. Lam, D.X. Thanh, N.D. Thai, T.T.T. Nhan, G.T.K. Chi, N.T.H. Trang, Evolution of Holocene depositonal environmentals in the coastal area from the Tien river to Hau river mouths, VNU Journal of Science, Earth Sciences 26(4) (2010) 185-201. https://js.vnu.edu.vn/EES/article/view /1788. [9] N.D. Dy, D.D. Lam, V.V. Ha, N.T Tan, D.M Tuan, N.M. Quang, N.T.T. Cuc, New stratigraphic unit - The Early Holocene Binh Dai formation at the Estuary and coastal area of Cuu Long delta. Viet Nam Journal of Earth Sciences 32(4) (2010) 335-342 (in Vietnamese), https://doi.org/10.15625/0866- 7187/32/4/1037. [10] N. Bieu, Geological investigation and exploration for coastal solid mineral resources (0 - 30m depth) in Vietnam at the scale of 1/500.000, Stored at the Center for Marine Geology and Mineral Resource, Hanoi, 2000 (in Vietnamese). [11] V.T. Son, Investigation and evaluation the potential of mineral resources in Soc Trang sea area at the scale of 1/100.000. Stored at the Center for Marine Geology and Mineral Resource, Hanoi, 2010 (in Vietnamese). [12] D.X. Thanh, 2015. Research on Holocene evolution of Mekong subaqueous delta for sustainable development, National projects, code KC09.13/11-15 (in Vietnamese). [13] D.X. Thanh, T. Nghi, P.N.H. Vu, N.D. Nguyen, N.D. Thai, Late Pleistocene - Holocene seismic and sequence stratigraphy of the Mekong subaqueous delta, Southern Vietnam, Viet Nam Journal of Earth Sciences, Natural Sciences and Technology 30(2S) (2014) 130-142 (in Vietnamese). [14] Z. Xue, J. P. Liu, D. DeMaster, N.V. Lap, T.T.K. Oanh, Late Holocene Evolution of the Mekong Subaqueous Delta, Southern Vietnam. Marine Geology 269 (2010) 46–60. https://doi.org/10. 1016/j.margeo.2009.12.005. [15] Unverricht, W. Szczuciński, K. Stattegger, R. Jagodziński, L.X. Thuyen, L.L. Kwong, Modern Sedimentation and Morphology of the Subaqueous Mekong Delta, Southern Vietnam, Global and Planetary Change 110 (2013) 223-235. [16] J.P. Liu, D. DeMaster, C.A. Nittrouer, E.F. Eidam, N.T. Thanh, A seismic study of the Mekong subaqueous delta: Proximal versus distal sediment accumulation, Cont. Shelf Res. 147 (2017) 197–212, https://doi.org/https://doi. org/10.1016/j.csr.2017.07.009. [17] C.D. Trieu, Southeast Asia lithosphere and manti, Publishing House of Natural Science and Technology, Ha Noi, 2017, 242p (in Vietnamese). [18] T. Nghi, Sedimentology, Vietnam National University Press, Hanoi, 2012, 471p (in Vietnamese). [19] T. Nghi, Sedimentary geology of Vietnam, Vietnam National University Press, Hanoi, 2018, 509p (in Vietnamese). [20] H.V. Thuc, Characteristics of material composition and historical development of N.T.H. Trang et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 97-120 120 sediment in the coastal areas of southwestern Vietnam, PhD. Thesis, Vietnam National University, Hanoi, 2002, 127p (in Vietnamese). [21] T. Nghi, D.X. Thanh, N.D. Nguyen, D.M. Tien, Pliocene-Quaternary geology of Vietnam continental shelf and adjacent. Vietnam National University Press, Hanoi, 2014, 506p (in Vietnamese). [22] W.C. Krumbein, Size frequency distributions of sediments, Journal of Sedimentary Petrology 4 (1934) 65–77. [23] W.C Krumbein, Size frequency distributions of sediments and the normal phi curve, Journal of Sedimentary Petrology 8 (1938) 84–90. [24] J.A. Udden, Mechanical composition of clastic sediments, Bulletin of the Geological Society of America 25 (1914) 655-744. [25] C.K. Wentworth, A scale of grade and class terms for clastic sediments, Journal of Geology 30 (1922) 377-392. [26] T. Nghi, D.X. Thanh, T.T.T Nhan, N.T.H. Trang, N.D Thai, P.T. Thao, N.T.T Nhung, T.T. Dung, Impact assessment of modern sea level rise to process coastal erosion in Vietnam and proposed solutions to respond, Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering 1 (2013) 44-50 (in Vietnamese).
File đính kèm:
- tien_hoa_tram_tich_pleistocen_muon_holocen_doi_bo_dong_bang.pdf