Tiến hóa cấu trúc địa chất và môi trường trầm tích Miocen khu vực bể phú khánh

Bể Phú Khánh nằm trên vùng biển miền Trung Việt Nam giới hạn trong khoảng kinh

tuyến 109o-112030’E và vĩ tuyến 10030’-15oN. Khu vực bể Phú Khánh có một lịch sử phát triển địa

chất trong Miocen rất phức tạp với 3 chu kì trầm tích: Miocen sớm (N11), Miocen giữa (N12) và

Miocen muộn (N13). Mỗi chu kì trầm tích này được sinh ra và bị biến dạng theo một quy luật là sụt

lún, lấp đầy trầm tích nhấn chìm sâu và vật liệu trầm tích bở rời biến thành đá trầm tích

(diagenesis) và tiếp tục bị biến đổi thứ sinh trong điều kiện nhiệt độ và áp suất tăng cao

(catagenesis). Cuối mỗi chu kì các bể trầm tích thứ cấp bị nâng lên khỏi mặt nước và bị bào mòn

tạo ra bất chỉnh hợp góc hoặc bất chỉnh hợp địa tầng. Ba yếu tố gây biến dạng mạnh mẽ là: đứt

gãy, nén ép và hoạt động núi lửa. Nghiên cứu cho thấy rằng trong thành tạo trầm tích Miocen bể

Phú Khánh có 3 mặt bào mòn tiêu biểu: (1) Nóc Miocen sớm là bất chỉnh hợp góc có tuổi 16 triệu

năm tương đương với tuổi dừng tách giãn đáy Biển Đông; (2) Nóc Miocen giữa cũng là bất chỉnh

hợp góc có tuổi 11 triệu năm; (3) Nóc Miocen muộn có tuổi 5,5 triệu năm vừa có bất chỉnh hợp địa

tầng vừa có bất chỉnh hợp góc giữa Miocen và Pliocen-Đệ Tứ. Cấu trúc địa chất của bể Phú Khánh

hiện tại là cấu trúc của Pliocen-Đệ Tứ do khống chế của hệ thống đứt gãy sụt bậc 109o-110oE theo

hướng kinh tuyến và đới đứt gãy xiết trượt Tuy Hòa theo hướng tây bắc đông nam hoạt động tích

cực trong Pliocen- Đệ Tứ. Còn cấu trúc địa chất của 3 bể thứ cấp Miocen sớm, Miocen giữa và

Miocen muộn bị ảnh hưởng của 4 nguồn lực chính: (1) sụt lún nhiệt ở trung tâm; (2) nâng trồi đới

ven rìa phía tây; (3) ảnh hưởng của đứt gãy trượt bằng Sông Hồng và (4) lực ép từ phía đông nam

của đới tách giãn Biển Đông. Lịch sử phát triển cấu trúc địa chất Miocen của bể Phú Khánh được

minh chứng bằng tiến hóa và sự biến dạng mạnh mẽ trầm tích của 3 chu kỳ nói trên.

Tiến hóa cấu trúc địa chất và môi trường trầm tích Miocen khu vực bể phú khánh trang 1

Trang 1

Tiến hóa cấu trúc địa chất và môi trường trầm tích Miocen khu vực bể phú khánh trang 2

Trang 2

Tiến hóa cấu trúc địa chất và môi trường trầm tích Miocen khu vực bể phú khánh trang 3

Trang 3

Tiến hóa cấu trúc địa chất và môi trường trầm tích Miocen khu vực bể phú khánh trang 4

Trang 4

Tiến hóa cấu trúc địa chất và môi trường trầm tích Miocen khu vực bể phú khánh trang 5

Trang 5

Tiến hóa cấu trúc địa chất và môi trường trầm tích Miocen khu vực bể phú khánh trang 6

Trang 6

Tiến hóa cấu trúc địa chất và môi trường trầm tích Miocen khu vực bể phú khánh trang 7

Trang 7

Tiến hóa cấu trúc địa chất và môi trường trầm tích Miocen khu vực bể phú khánh trang 8

Trang 8

Tiến hóa cấu trúc địa chất và môi trường trầm tích Miocen khu vực bể phú khánh trang 9

Trang 9

Tiến hóa cấu trúc địa chất và môi trường trầm tích Miocen khu vực bể phú khánh trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 23 trang viethung 7320
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tiến hóa cấu trúc địa chất và môi trường trầm tích Miocen khu vực bể phú khánh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiến hóa cấu trúc địa chất và môi trường trầm tích Miocen khu vực bể phú khánh

Tiến hóa cấu trúc địa chất và môi trường trầm tích Miocen khu vực bể phú khánh
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 
71 
Original Article 
Evolution of Geological Structural and Sedimentary 
Environment Change in Miocene of Phu Khanh Basin 
Tran Thi Dung*, Tran Nghi, Chu Van Ngoi, 
Nguyen The Hung, Nguyen Thi Huyen Trang 
Faculty of Geology, VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam 
Received 13 February 2019 
Revised 11 March 2019; Accepted 11 March 2019 
Abstract: Phu Khanh basin located in the central of Vietnam and bounded by the longitude of 
109o-112oE and the latitude of 11o-15oN. The geological evolution history of the basin in 
Miocene is very complicated, included three sedimentary cycles of Early Miocene (N11), Middle 
Miocene (N12) and Late Miocene (N13). Each of these sedimentary cycles was generated and 
deformed by a general rule as follow: subsidence, sedimentary filling to be buried deeply and 
unconsolidated sediments being become sedimentary rocks by diagenesis process and then 
continuously changed by catagenesis process. At the end of each cycle, the secondary basins were 
uplifted over the water surface and eroded to create the angle or stratigraphic unconformities. 
Three strong deformation factors are faults, compressions, and volcanic activities. The study also 
demonstrated that the depositional formation of Phu Khanh basin in Miocene is existed three 
typical eroded surfaces as (1) The top of early Miocene is an angle unconformity in the age of 16 
million years, equivalent to the age of seafloor spreading in the East Vietnam Sea; (2) The top of 
middle Miocene is also an angle unconformity in the age of 11 million years and (3) The top of 
late Miocene is 5.5 million years and this surface is both angle unconformity and stratigraphic 
boundary between Late Miocene and Pliocene - Quaternary sedimentary formations. The present 
geological structure of Phu Khanh basin is considered as the one of Pliocene - Quaternary due to 
the control of East Sea Western fault system 109
0
-110
0
E in the longitudinal direction and Tuy Hoa 
Shear Zone in the northwestern direction that strongly activated in Pliocene - Quaternary. The 
geological structure of the three secondary basins of Early Miocene, Middle Miocene, and Late 
Miocene was affected by four main factors: (1) thermal subsidence at the center; (2) uplifting in 
the western margin; (3) the impact of the Red River strike-slip fault and (4) the compressive force 
from the southeast of seafloor spreading zone. The geological structural development history of 
Miocene deposits in Phu Khanh basin is proven by the sedimentary evolution and the strong 
deformation of these three cycles. 
Keywords: Phu Khanh basin, geological structural, secondary basin, deformation.
* 
________ 
* Corresponding author. 
 E-mail address: trandung251112@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4368 
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 
72 
Tiến hóa cấu trúc địa chất và môi trường trầm tích Miocen 
khu vực bể phú khánh 
Trần Thị Dung*, Trần Nghi, Chu văn Ngợi, 
Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Thị Huyền Trang 
Khoa Địa chất, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 13 tháng 2 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 11 tháng 3 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 11 tháng 3 năm 2019 
Tóm tắt: Bể Phú Khánh nằm trên vùng biển miền Trung Việt Nam giới hạn trong khoảng kinh 
tuyến 109o-112030’E và vĩ tuyến 10030’-15oN. Khu vực bể Phú Khánh có một lịch sử phát triển địa 
chất trong Miocen rất phức tạp với 3 chu kì trầm tích: Miocen sớm (N1
1), Miocen giữa (N1
2
) và 
Miocen muộn (N1
3). Mỗi chu kì trầm tích này được sinh ra và bị biến dạng theo một quy luật là sụt 
lún, lấp đầy trầm tích nhấn chìm sâu và vật liệu trầm tích bở rời biến thành đá trầm tích 
(diagenesis) và tiếp tục bị biến đổi thứ sinh trong điều kiện nhiệt độ và áp suất tăng cao 
(catagenesis). Cuối mỗi chu kì các bể trầm tích thứ cấp bị nâng lên khỏi mặt nước và bị bào mòn 
tạo ra bất chỉnh hợp góc hoặc bất chỉnh hợp địa tầng. Ba yếu tố gây biến dạng mạnh mẽ là: đứt 
gãy, nén ép và hoạt động núi lửa. Nghiên cứu cho thấy rằng trong thành tạo trầm tích Miocen bể 
Phú Khánh có 3 mặt bào mòn tiêu biểu: (1) Nóc Miocen sớm là bất chỉnh hợp góc có tuổi 16 triệu 
năm tương đương với tuổi dừng tách giãn đáy Biển Đông; (2) Nóc Miocen giữa cũng là bất chỉnh 
hợp góc có tuổi 11 triệu năm; (3) Nóc Miocen muộn có tuổi 5,5 triệu năm vừa có bất chỉnh hợp địa 
tầng vừa có bất chỉnh hợp góc giữa Miocen và Pliocen-Đệ Tứ. Cấu trúc địa chất của bể Phú Khánh 
hiện tại là cấu trúc của Pliocen-Đệ Tứ do khống chế của hệ thống đứt gãy sụt bậc 109o-110oE theo 
hướng kinh tuyến và đới đứt gãy xiết trượt Tuy Hòa theo hướng tây bắc đông nam hoạt động tích 
cực trong Pliocen- Đệ Tứ. Còn cấu trúc địa chất của 3 bể thứ cấp Miocen sớm, Miocen giữa và 
Miocen muộn bị ảnh hưởng của 4 nguồn lực chính: (1) sụt lún nhiệt ở trung tâm; (2) nâng trồi đới 
ven rìa phía tây; (3) ảnh hưởng của đứt gãy trượt bằng Sông Hồng và (4) lực ép từ phía đông nam 
của đới tách giãn Biển Đông. Lịch sử phát triển cấu trúc địa chất Miocen của bể Phú Khánh được 
minh chứng bằng tiến hóa và sự biến dạng mạnh mẽ trầm tích của 3 chu kỳ nói trên. 
Từ khóa: Bể Phú Khánh, cấu trúc địa chất, bể thứ cấp, biến dạng. 
1. Mở đầu 
Bể Phú Khánh nằm trên vùng biển Miền 
Trung Việt Nam, chiếm một diện tích rộng lớn 
________ 
Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ Email: trandung251112@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4368 
từ vùng nước nông thềm lục địa đến vùng nước 
sâu sườn lục địa hiện đại, giới hạn trong khoảng 
kinh tuyến 109o00’ – 112o30’E và vĩ tuyến 
10
o30’ – 15o00’N. Theo ranh giới của bể trầm 
tích bể Phú Khánh giáp với bể Sông Hồng ở 
phía bắc, bể Cửu Long ở phía nam, bể Nam 
Côn Sơn ở phía đông nam (hình 1) [1]. 
T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environment ... trẻ, uốn nếp, nâng trồi bào mòn và tạo 
nên bất chỉnh hợp góc giữa Miocen sớm và 
Miocen giữa. 
 Giai đoạn đầu Miocen giữa bắt đầu pha sụt 
lún mới với tốc độ chậm chạp nhưng khuôn 
viên của bể Phú Khánh được mở rộng hơn. Giai 
đoạn này pha biển tiến toàn cầu cũng đồng thời 
xảy ra đã nhấn chìm địa hình bị phân dị mạnh 
của đáy bể xuống một độ sâu không lớn nhưng 
diện tích được mở rộng đã tạo nên 2 kiểu thủy 
vực tiêu biểu: (1) Thủy vực lắng đọng trầm tích 
lục nguyên do các dòng sông mang đến từ lục 
địa và các khối nâng dưới dạng đảo và quần đảo 
(Hình 20) và (2) Các quần đảo ngầm thuận lợi 
cho sự phát triển rực rỡ các ám tiêu san hô 
(Hình19). Các thủy vực giữa các đảo nổi và đảo 
ngầm này chính là các vũng vịnh có chế độ khử 
và độ kiềm cao (Eh≤ 0, pH ≥ 8,5) thuận lợi cho 
quá trình thành tạo tướng sét vôi-đolomit giàu 
sinh vật đặc trưng cho môi trường vũng vịnh 
như foraminifera, Bryozoa...(Hình 17, 18). Các 
mặt cắt phục hồi của bể thứ cấp Miocen giữa, 
bản đồ đẳng dày trầm tích nguyên thủy và bản 
đồ cấu trúc địa chất (Hình 13, 22) đã hiển 
thịmột bức tranh sinh động và đa dạng về tướng 
trầm tích với sự phát triển 2 tổ hợp thạch- kiến 
tạo là lục nguyên ít khoáng và carbonat sinh vật 
trong bối cảnh kiến tạo tương đối bình ổn trong 
một giai đoạn khá lâu dài. 
Hình 12. Cột địa tầng tổng hợp bể Phú Khánh [1-3]. 
T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 
86 
Hình 13. Mặt cắt phục hồi tuyến L08 bể Phú Khánh. 
Đới sụt lún trung 
tâm 
Đới nâng ngoài 
T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 
87 
Hình 14. Bản đồ cấu trúc Miocen sớm bể Phú Khánh. 
Cuối giai đoạn Miocen giữa - đầu Miocen 
muộn pha nghịch đảo kiến tạo mới lại xuất 
hiện. Các đá trầm tích Miocen giữa bị biến dạng 
bởi quá trình đứt gãy sau trầm tích, hoạt động 
núi lửa trẻ, uốn nếp, nâng trồi và bào mòn tạo 
nên bề mặt bất chỉnh hợp địa tầng giữa Miocen 
giữa và Miocen muộn. 
T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 
88 
Hình 15. LKP94-2X; 1014m; N
+; x40. Đá vôi vụn 
sinh vật chứa bitum, mảnh vụn thạch anh, mảnh vụn 
sinh vật mài tròn cạnh bao gồm san hô, vỏ molusca và 
foram bảo tồn tốt. Mảnh vụn tha sinh lục nguyên gồm 
thạch anh, mảnh đá, mài tròn từ trung bình đến tốt. 
Môi trường vũng vịnh (mt TST), N1
3
 (Luận giải theo 
lát mỏng của VPI). 
Hình 16. Đá vôi chứa cát, bitum và vụn sinh vật, 
môi trường vũng vịnh nông, mẫu ở độ sâu 1160 m; 
N1
3
; N; x 125; GK PV 94-2X 
(Luận giải theo lát mỏng của VPI) 
Hình 17. Mẫu đá vôi sinh vật (foram); GK TH-1X; độ sâu 2255,50m; tuổi N1
2
; N
+
.
Hình 18. Mẫu đá vôi sinh vật (Bryozoa); GK TH-1X; độ sâu 2283,00m; tuổi N1
2
; N+. 
T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 
89 
Hình 19. Mẫu đá vôi ám tiêu; GK TH-1X; độ sâu 2453,00m; tuổi N1
2
; N+. 
Hình 20. Mẫu cát kết hạt thô; GK TH-1X; độ sâu 2485,50m; tuổi N1
2
; N
+ 
; 
môi trường lục nguyên (Luận giải theo lát mỏng của VPI). 
Hình 21. Mẫu đá cát kết hạt mịn; GK TH-1X; độ sâu 2546m; tuổi N1
1
; N
+ ; Môi trường lục nguyên 
(Luận giải theo lát mỏng của VPI). 
Quá trình sụt lún trong Miocen muộn diễn ra 
trên một không gian rộng lớn khiến cho bể thứ 
cấp Miocen muộn có khuôn viên rộng hơn bể 
thứ cấp Miocen giữa (hình 23). Đây là quy luật 
tiến hóa các bể trầm tích thứ cấp theo chu kỳ 
sụt lún- mở rộng chứ không phải là sụt lún - 
T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 
90 
tách giãn. Trong các mặt cắt địa chấn thấy rõ bể 
thứ cấp Miocen muộn các trường sóng có phản 
xạ trắng đặc trưng (hình 9). Điều đó được giải 
thích bởi thành phần trầm tích lục nguyên chứa 
một hàm lượng lớn vật liệu vụn sinh vật (mảnh 
vụn san hô, foraminifera, vỏ động vật 
Molusca...) (Hình 15, 16). Thành phần vụn sinh 
vật này và phản xạ trắng của mặt cắt địa chấn là 
minh chứng sinh động nhất cho một bối cảnh 
địa chất Miocen muộn của bể Phú Khánh nói 
riêng và khu vực nước sâu thềm lục địa Việt 
Nam nói chung. Các ám tiêu san hô phát triển 
rực rỡ trong Miocen giữa bị nâng lên khỏi mặt 
nước vào đầu Miocen muộn đã biến thành vùng 
xâm thực cung cấp vật liệu vụn sinh vật cho các 
thủy vực dạng đẳng thước vũng vịnh nông nằm 
xen kẽ với các khối xâm thực nói trên. 
Hình 22. Bản đồ cấu trúc Miocen giữa bể Phú Khánh. 
T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 
91 
Hình 23. Bản đồ cấu trúc Miocen muộn bể Phú Khánh. 
4. Một số ý kiến thảo luận 
1) Nghiên cứu lịch sử biến đổi cấu trúc địa 
chất Miocen và mở rộng tầm nhìn đến Pliocen -
Đệ Tứ của bể Phú Khánh sẽ nổi lên 2 vấn đề hết 
sức lý thú cần phải được tiếp tục nghiên cứu để 
làm sáng tỏ: (1) Bể Phú Khánh bị nhấn chìm 
xuống vùng nước sâu chủ yếu xảy ra trong cuối 
Pliocen đến nay liên quan đến 2 nguồn lực là 
sụt lún do nhiệt của manti và hệ thống đứt gãy 
phương kinh tuyến 109o-110oE. Theo kết quả 
hồi phục các mặt cắt 3 bể thứ cấp N1
1
, N1
2
, N1
3
thì hệ thống đứt gãy nói trên bắt đầu hoạt động 
từ N1
3
 và hoạt động mạnh mẽ nhất là vào cuối 
Pliocen đến nay. 
T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 
92 
2) Các chu kỳ trầm tích Oligocen sớm, 
Oligocen muộn và Miocen sớm tương đồng với 
3 chu kỳ tách giãn đáy Biển Đông từ 32-26, 26-
21 và 21- 16 triệu năm. Vậy còn 2 chu kỳ trầm 
tích nữa trong Miocen là chu kỳ Miocen giữa 
và Miocen muộn liên quan đến cơ chế và nguồn 
lực nào khi tách giãn đáy Biển Đông đã chấm 
dứt? Điều đó chứng tỏ nguyên nhân sâu xa là 
liên quan đến chu kỳ năng lượng của manti? 
3) Hiện tượng chuyển hướng đuôi của trục 
tách giãn đáy Biển Đông từ phương á vĩ tuyến 
(trước 16 triệu năm) thành phương đông bắc tây 
nam (hiện tại) và hệ thống đứt gãy trượt bằng 
phải 109o-110oE có thể liên quan đến cùng một 
nguyên nhân là do dòng đối lưu manti chuyển 
động vòng cung theo hướng ngược chiều kim 
đồng hồ? Đồng thời đây cũng là nguyên nhân 
tạo ra các đứt gãy trượt bằng - xoay và các bể 
trầm tích “di động” theo mô hình của một nửa 
quạt giấy có đuôi cố định nằm ở điểm cuối của 
đoạn tách giãn theo phương á vĩ tuyến. 
5. Kết luận 
1. Theo phương thẳng đứng trầm tích 
Miocen có 3 chu kỳ. Mỗi chu kỳ bị khống chế 
bởi 2 pha kiến tạo: (1) Pha sụt lún nhiệt tạo bể 
đồng thời lấp đầy trầm tích và tác dụng thành 
đá biến trầm tích bở rời thành đá trầm tích; (2) 
Pha nghịch đảo kiến tạo xảy ra các hoạt động 
biến dạng đứt gãy, nén ép, uốn nếp, hoạt động 
núi lửa, nâng trồi và bào mòn tạo nên các ranh 
giới bất chỉnh hợp góc (giữa Miocen giữa và 
Miocen sớm) và bất chỉnh hợp địa tầng (giữa 
Miocen muộn và Miocen giữa). 
2. Theo không gian mỗi bể thứ cấp nguyên 
thủy đều có sự phân dị đan xen giữa các khối 
nâng và các khối sụt. Tuy nhiên, các khối nâng 
chỉ mang tính chất tương đối vàtạm thời trong 
phông chung là sụt lún thống trị do nhiệt manti 
làm nóng chảy vát mỏng vỏ lục địa trước 
Kanozoi. Ranh giới giữa các khối sụt và khối 
nâng liên tục thay đổi tuy nhiên diện tích các 
khối sụt tạo nên bồn trũng trung tâm được mở 
rộng dần từ Miocen sớm đến Miocen muộn 
theo nguyên lý “sụt lún lan tỏa”. 
3. Hoạt động biến dạng các đá trầm tích của 
mỗi bể thứ cấp không chỉ xảy ra trong pha 
nghịch đảo kiến tạo của bể đó mà còn do các 
hoạt động biến dạng kép xảy ra trong các giai 
đoạn trẻ về sau. Theo quy luật đó bể trầm tích 
thứ cấp càng cổ sẽ bị biến dạng càng mạnh. 
Hiện tượng các đá trầm tích bị chia cắt thành 
từng mảnh có dạng giả bán địa hào hai mặt đứt 
gãy cong lõm hướng vào nhau là hậu quả của 
đứt gãy sau trầm tích dưới tác động đồng thời 2 
nguồn lực trượt bằng và xoay. Đứt gãy này chắc 
chắn xảy ra trong pha kiến tạo hình thành bể 
thứ cấp mới. 
4. Sự biến đổi thành phần thạch học và môi 
trường trầm tích đều liên quan chặt chẽ với hoạt 
động kiến tạo. Trầm tích Miocen sớm có thành 
phần lục nguyên đa khoáng là liên quan đến 
miền xâm thực ở phía tây của bể và các khối 
nâng tuổi Oligocen có thành phần thuần túy lục 
nguyên. Sự phát triển đa dạng vừa có mặt trầm 
tích lục nguyên vừa ám tiêu san hô và đá vôi 
sinh vật trong Miocen giữa đã chứng minh cho 
sự phân dị mạnh mẽ đáy bể trầm tích trước giai 
đoạn sụt lún để tạo ra các thủy vực vũng vịnh 
và quần đảo ám tiêu san hô xen kẽ. 
5. Sự có mặt của trầm tích lục nguyên chứa 
phong phú vụn sinh vậtcủa bể thứ cấp Miocen 
muộn đã lý giải cho trường sóng phản xạ trắng 
trong các mặt cắt địa chấn. Đây là sản phẩm 
bào mòn phong hóa cơ học của các khối nâng 
ám tiêu san hô tuổi Miocen giữa mang xuống 
lắng đọng các thủy vực vũng vịnh nông ở lân cận. 
Lời cảm ơn 
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trường Đại 
học Khoa học Tự nhiên trong đề tài mã số 
TN.18.17, sự tạo điều kiện của Bộ Khoa học và 
Công nghệ, Tập đoàn dầu khí Việt Nam đã cho 
phép sử dụng, xử lý nguồn tài liệu của các đề 
tài KC-09/11-15, các đề tài cấp ngành hợp tác 
giữa Trường Đại học Khoa học Tự nhiên và Tập 
đoàn dầu khí (NCKH03/2014, NCKH04/2014). 
Nhân dịp này tập thể tác giả bày tỏ lòng biết ơn 
sâu sắc về sự giúp đỡ quý báu đó. 
T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 
93 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyễn Hiệp, Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt 
Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2007. 
[2] Trần Nghi (Chủ trì), Báo cáo tổng kết đề tài cấp 
ngành Nghiên cứu cơ chế kiến tạo hình thành các 
bể trầm tích vùng nước sâu Nam Biển Đông và 
mối liên quan đến triển vọng Dầu Khí, Tập đoàn 
dầu khí Việt Nam, Hà Nội, 2013. 
[3] Chu Văn Ngợi (Chủ trì), Báo cáo tổng kết đề tài 
cấp nhà nước Nghiên cứu kiến tạo - địa động lực, 
cơ chế hình thành và phát triển các bể Kainozoi 
Phú Khánh, Nam Côn Sơn, Tư Chính - Vũng Mây 
dưới ảnh hưởng của tách giãn biển Đông và bối 
cảnh kiến tạo - địa động lực các vùng kế cận, phục 
vụ điều tra, đánh giá tiềm năng khoáng sản, dầu 
khí, mã số: KC 09.20/11-15, Trường Đại học 
Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, Hà Nội, 2015. 
[4] A. Briais, et al, Updated interpretation of 
magnetic anomalies and seafloor spreading stages 
in the South China Sea: implications for Tertiary 
tectonics of SE Asia. Journal Geophys. Res. 98 
(1993) 6299-6328. 
[5] M. Longley Ian., The Tectonostratigraphic 
Evolution of S.E.Asia. Petroleum Geology of 
SE.Asia, 1997. 
[6] G.H. Lee, J.S. Watkins, , Seismic stratigraphy and 
hydrocarbon potential of the Phu Khanh Basin, 
offshore Central Vietnam, South China Sea. 
AAPG Bulletin. V.82. 9 (1998) 1711-1735. 
[7] Lawver, A. Lawrence; Williams, Trevor; Sloan, 
B: Seismic Stratigraphy and Heat Flow of Powell 
Basin. Terra Antartica. 1 (1994) 309-319. 
[8] P. Tapponier, G. Peltzer, et al, Propagating 
extrusion tectonics in Asia: new insights from 
simple experiments with plasticine. Geology vol. 
10 (1982) 611-619. 
[9] P. Tapponier, G. Peltzer, et al. On the mechanics 
of collision between India and Asia. In: M.P. 
Coward, A.C. Ries (eds.), Collision tectonics. 
Blackwell, Oxford (1986) 115-157. 
[10] B.W. Michale Fyhn, Lars Nielsen, L.O. Boldreel, 
D. Le Thang, Jorgen Bojensen-Koefoed, Henrik 
I.Petersen, Nguyen T Huyen, Nguyen A. Duc, 
Nguyen T. Dau, Andres Mathiesen, Ian Reid, 
Dang T. Huong, Hoang A. Tuan, Le V. Hien, 
Hans P. Nytolft, Ioannis Abtzis, Geological 
evolution, regional perspectives and hydrocarbon 
potential of the northwest Phu Khanh basin, 
offshore central Vietnam, Marien and Petroleum 
geology. 268 (2009) 1-24. 
[11] M.B.W. Fyhn, L.O. Boldreel, L.H. Nielsen, 
Geological development of the Central and South 
Vietnamese margin: Implications for the 
establishment of the South China Sea, 
Indochinese escape tectonics and Cenozoic 
volcanism, Tectonophysics. 478 (2009) 184-214. 
[12] B.W. Michael Fyhna,, Lars O. Boldreel, Lars H. 
Nielsen, Tran C. Giang, Le H. Nga, Nguyen T.M. 
Hong, Nguyen D. Nguyen and Ioannis Abatzis, 
Carbonate platform growth and demise offshore 
Central Vietnam: Effects of Early Miocene 
transgression and subsequent onshore uplift. 
Journal of Asian Earth Sciences. 76 (2013) 152-
168. 
[13] D. Savva, F. Meresse, M. Pubellier, N. Chamot-
Rooke, L.Lavier, K. Po Wong, D. Franke, S. 
Steuer, F. Sapin, J.L.Auxietre, G.Lamy, Seismic 
evidence of hyper-stretched crust and mantle 
exhumation offshore Vietnam, Tectonophysics. 
608 (2013) 72-83. https://doi: 10.1016/j.tecto. 
2013.07.010. 
[14] Trần Nghi, Trần Hữu Thân, Chu Văn Ngợi, Đinh 
Xuân Thành, Trần Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Thị 
Huyền Trang, Nguyễn Duy Tuấn, Nguyễn Văn 
Kiểu, Trần Thị Dung, Nguyễn Thị Phương Thảo, 
Phạm Thị Thu Hằng, Trần Văn Sơn, Tiến hóa 
trầm tích Kainozoi bể Phú Khánh trong mối quan 
hệ với hoạt động địa động lực, Tạp chí Địa chất 
2013, Cục địa chất và khoáng sản Việt Nam, Loạt 
A. 334 (2013) 28-36. 
[15] Trần Nghi, Trần Hữu Thân, Chu Văn Ngợi, Đinh 
Xuân Thành, Trần Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Duy 
Tuấn, Trần Thi Dung, Nguyễn Thị Phương Thảo, 
Phạm Thị Thu Hằng, Nguyễn Thị Tuyến, Biến 
dạng các bể thứ cấp trong Kainozoi khu vực bể 
Phú Khánh và triển vọng dầu khí liên quan, Tạp 
chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Tự nhiên và 
Công nghệ. 2S (2014) 1-11. 
[16] Tran Thi Dung, Tran Nghi, Nguyen The Hung, 
Dinh Xuan Thanh, Pham Bao Ngoc, Nguyen Thi 
Tuyen, Tran Thi Thanh Nhan, Nguyễn Thị Huyền 
Trang, The Miocene Depositional Geological 
Evolution of Phu Khanh, Nam Con Son and Tu 
Chinh - Vung May Basins in Vietnam Continental 
Shelf, VNU Journal of Science: Earth and 
Environmental Sciences. 1 (2018) 112-135. 
[17] Trần Thị Dung, Chu Văn Ngợi, Cơ chế hình thành 
bể Phú Khánh, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các 
Khoa học Trái đất và Môi trường. Tập 32. 2S 
(2016) 59-68. 

File đính kèm:

  • pdftien_hoa_cau_truc_dia_chat_va_moi_truong_tram_tich_miocen_kh.pdf