Thực trạng xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm của sinh viên chuyên ngành sư phạm Tiếng Anh
Việc xác định tỷ lệ đóng góp của sinh viên khi làm bài tập nhóm là một thao tác quan trọng, nhằm góp
phần nâng cao chất lượng bài tập nhóm của sinh viên và đảm bảo tính công bằng giữa các thành viên.
Tuy nhiên nhiều giảng viên vẫn chưa chú trọng việc này khi cho sinh viên làm bài tập nhóm. Bài viết
nêu lên thực trạng xác định tỷ lệ đóng góp của sinh viên chuyên ngành Sư phạm tiếng Anh tại thành phố
Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số sinh viên đã nhận thức được lợi ích của việc xác định
tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm, nhưng ở mức độ chưa cao và chủ yếu là sinh viên vẫn chia đều tỉ lệ
đóng góp; có nhiều nguyên nhân và hậu quả không xác định tỉ lệ đóng góp. Từ đó, chúng tôi đề xuất
một số biện pháp nhằm hạn chế các hậu quả có thể xảy ra và phát huy tối đa lợi ích của việc xác định tỉ
lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm trong môi trường đại học
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm của sinh viên chuyên ngành sư phạm Tiếng Anh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 66 (6/2019) No. 66 (6/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 114 THỰC TRẠNG XÁC ĐỊNH TỈ LỆ ĐÓNG GÓP KHI LÀM BÀI TẬP NHÓM CỦA SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH SƯ PHẠM TIẾNG ANH Determination of contribution rates of group work among students majoring English Pedagogy ThS. Đào Vinh Xuân (1), ThS. Trần Nguyễn Minh Nhựt (2) (1)Trường Đại học Sài Gòn (2)Trường Cao đẳng Kinh tế TP.HCM TÓM TẮT Việc xác định tỷ lệ đóng góp của sinh viên khi làm bài tập nhóm là một thao tác quan trọng, nhằm góp phần nâng cao chất lượng bài tập nhóm của sinh viên và đảm bảo tính công bằng giữa các thành viên. Tuy nhiên nhiều giảng viên vẫn chưa chú trọng việc này khi cho sinh viên làm bài tập nhóm. Bài viết nêu lên thực trạng xác định tỷ lệ đóng góp của sinh viên chuyên ngành Sư phạm tiếng Anh tại thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số sinh viên đã nhận thức được lợi ích của việc xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm, nhưng ở mức độ chưa cao và chủ yếu là sinh viên vẫn chia đều tỉ lệ đóng góp; có nhiều nguyên nhân và hậu quả không xác định tỉ lệ đóng góp. Từ đó, chúng tôi đề xuất một số biện pháp nhằm hạn chế các hậu quả có thể xảy ra và phát huy tối đa lợi ích của việc xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm trong môi trường đại học. Từ khóa: Bài tập nhóm của sinh viên, chất lượng bài tập nhóm, xác định tỉ lệ đóng góp ABSTRACT Identifying contribution rates of students’ group work is important to raise the quality of students’ group work and ensure the fairness among group members. However, many teachers still do not pay attention to this when assigning group exercises for students. The article highlights the situation of determining the contribution rate of students majoring in English Pedagogy in Ho Chi Minh City. The study results showed that the majority of the students were aware of the benefits of determining the rate of contribution to group exercises, but this level is not high and mostly students still divided the contribution equally. There are many causes and consequences that do not determine the contribution rate. From there, we propose a number of measures to limit the possible consequences and maximize the benefits of determining the contribution rate when doing group exercises at university. Keywords: Students’ group work, quality of students’ group work, determination of contribution rate 1. Dẫn nhập Bài tập nhóm là tài sản trí tuệ của tập thể và có sự đóng góp của từng cá nhân, là nhiệm vụ quan trọng mà sinh viên (SV) thường xuyên thực hiện trong quá trình học tập. Hiện nay nhiều công trình như là: “An introduction to group work practice” của Toseland & Robert (2017); “Group Work in the English Language Curriculum: Sociocultural and Ecological Perspectives on Second Language Email: nhuttnm@kthcm.edu.vn ĐÀO VINH XUÂN và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 115 Classroom Learning” của Philip Chappell (2014) và “Spirals Series Circle: Developing Language and Communication Skills through Effective Small Group Work” của Nash (2011) đã nghiên cứu về nguyên nhân dẫn đến thực trạng làm việc nhóm chưa hiệu quả của SV như: thiếu kỹ năng làm việc nhóm, chưa rõ cách thức trình bày bài tập nhóm, lịch học tập của mỗi SV khác nhau do học chế tín chỉ dẫn đến khó khăn khi làm việc nhóm. Bên cạnh đó, nghiên cứu về việc xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm đối với SV chưa nhiều. Chính vì vậy, chúng tôi đã tìm hiểu thực trạng xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm của SV chuyên ngành Sư phạm tiếng Anh (SPTA) tại một số trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) trong bối cảnh đất nước đang hội nhập sâu rộng khu vực và thế giới như hiện nay, đặc biệt là các tổ chức như ASEAN, CPTPP rất đề cao vai trò của sở hữu trí tuệ trong cuộc sống. Từ đó cho thấy, mức độ quan trọng và lợi ích của hoạt động xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm đối với SV nói chung và SV chuyên ngành SPTA nói riêng, tiến tới xây dựng nền văn hoá tỉ lệ đóng góp trong môi trường đại học tại Việt Nam. 2. Nội dung 2.1. Khái niệm 2.1.1. Khái niệm “bài tập nhóm” Bài tập là “nội dung giao cho người học để tập vận dụng những điều đã học” (Thái Xuân Đệ, 2012, tr. 27) hay Bài tập là “bài làm học trò làm theo yêu cầu của người Thầy” (Hoàng Long, 2012, tr. 25). Nhóm là “tập hợp một số người có chung định hướng” (Richards, J. & Schmidt, R, 2010, tr. 99). Do đó, bài tập nhóm là bài tập người dạy yêu cầu hai hay nhiều người học cùng thực hiện. Tuy nhiên, bài tập nhóm có rất nhiều yếu tố liên quan. Một trong số đó là “tỉ lệ đóng góp” của SV. 2.1.2. Khái niệm “tỉ lệ đóng góp” Theo Từ điển Tiếng Việt, tỉ lệ là “cái lệ dùng để so sánh, là tương quan so sánh giữa hai số” (Thái Xuân Đệ, 2012, tr. 155). Ngoài ra, làm việc nhóm một hoạt động học tập bao gồm một nhóm nhỏ của những người học làm việc cùng nhau. Nhóm có thể làm việc trên một nhiệm vụ duy nhất hoặc trên các phần khác nhau của một nhiệm vụ lớn hơn. Nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm thường được lựa chọn bởi các thành viên của nhóm (Richards & Schmidt, 2010, p. 99). Công việc của nhóm có thể được định nghĩa là hoạt động hướng đến mục tiêu với các nhóm nhiệm vụ nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội và hoàn thành nhiệm vụ. Hoạt động này được hướng đến các thành viên nhóm và toàn bộ nhóm trong một hệ thống (Toseland & Robert, 2017, p. 199) Đóng góp là “sự góp sức hay tiền bạc vào một công việc gì đó” (Hoàng Long, 2012, tr. 52). Do đó, tỉ lệ đóng góp là tương quan giữa sự đóng góp công sức hay tiền bạc của các thành viên vào một công việc chung. 2.2. Thực trạng 2.2.1. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu nhằm làm rõ các nội dung như sau: (i) Nhận thức của SV về mức độ quan trọng của việc xác định tỉ lệ đóng góp. (ii) Nguyên nhân SV thực hiện/ không thực hiện việc xác định tỉ lệ đóng góp. (iii) Cách thức xác định tỉ lệ đóng góp của SV. (iv) Các vấn đề phát sinh khi không thực hiện việc xác định tỉ lệ đóng góp. 2.2.2. Phương pháp, công cụ và mẫu nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi và phương pháp toán học (ứng dụng phần mềm SPSS phiên bản 20.0 SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 116 để xử lý các số liệu). Công cụ khảo sát là phiếu hỏi được xây dựng dựa trên thực trạng làm bài tập nhóm của SV hiện nay trong một học phần. Phiếu khảo sát gồm 03 phần với 10 câu hỏi đóng. Số lượng mẫu: 300 SV chuyên ngành SPTA tại trường Đại học Sài Gòn, trường Đại học Sư phạm TP.HCM và trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM được lấy theo cách ngẫu nhiên phân tầng từ SV năm nhất đến năm cuối trong năm học 2016 - 2017. 2.2.3. Kết quả nghiên cứu Kết quả khảo sát cho thấy các thực trạng về: i) Nhận thức của sinh viên mức độ quan trọng của việc xác định tỉ lệ đóng góp ii) Nguyên nhân sinh viên thực hiện/ không thực hiện việc xác định tỉ lệ đóng góp iii) Cách thức xác định tỉ lệ đóng góp của sinh viên và iv) Các vấn đề phát sinh khi không thực hiện việc xác định tỉ lệ đóng góp a) Nhận thức của sinh viên về mức độ quan trọng của việc xác định tỉ lệ đóng góp Chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên các phương diện như: mức độ thường xuyên làm bài tập nhóm theo thời gian, môn học hay làm nhóm, tính tích cực thành viên của nhóm và quan điểm của SV về mức độ cần thiết khi xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm. Bảng 1: Mức độ thường xuyên làm bài tập nhóm Xếp hạng Mức độ Số lựa chọn (SV) Tỉ lệ (%) 1 Khá thường xuyên 170 56,7 2 Thỉnh thoảng 120 40,0 3 Không có 10 3,3 Tổng cộng 300 100 Từ Bảng 1 cho thấy SV chuyên ngành SPTA khá thường xuyên làm bài tập nhóm (56,7%). Do đó, việc làm bài tập nhóm là một hoạt động thường xuyên và phổ biến ở bậc đại học. Các bài tập nhóm đó được thực hiện đối với môn chuyên ngành và môn chung, đặc biệt nhiều ở các môn chủ chốt của ngành SPTA. Tuy nhiên, không phải cá nhân nào cũng tích cực làm việc nhóm và kết quả khảo sát thực tế cho thấy tỉ lệ thành viên tích cực hoạt động trong nhóm là khác nhau. Số liệu được thể hiện trong Biểu đồ 1 như sau: ĐÀO VINH XUÂN và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 117 0 10 20 30 40 50 Khoảng 25% Khoảng 50% Khoảng 75% Khoảng 100% 12.7 50 31.3 6 % Mức độ Biểu đồ 1: Tỉ lệ thành viên tích cực khi làm việc nhóm Tỉ lệ thành viên tích cực trong tổng số thành viên của nhóm Từ Biểu đồ 1 cho thấy 50% SV chuyên ngành SPTA cho rằng chỉ có một nửa thành viên của nhóm là hoạt động tích cực. Đặc biệt, số liệu cho thấy tất cả thành viên của nhóm làm việc tích cực chỉ là 6%. Do đó, làm việc nhóm là nhiệm vụ thường xuyên ở bậc đại học, nhưng không phải SV nào cũng tích cực làm việc và đóng góp cho bài tập nhóm. Bên cạnh đó, có khá nhiều SV còn lơ là, chưa tích cực đóng góp cho bài tập của nhóm. Như vậy, tỉ lệ thành viên tích cực làm việc và đóng góp cho bài tập của nhóm thường không cao và không phải SV nào cũng tích cực đóng góp công sức cá nhân của mình cho bài tập chung của nhóm. Nguyên nhân của thực trạng này sẽ được chúng tôi thể hiện ở các phần sau. Bên cạnh đó, chúng tôi còn tìm hiểu quan điểm của SV về mức độ cần thiết khi xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm được thể hiện trong Bảng 2. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 118 Bảng 2: Mức độ cần thiết khi xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài nhóm Xếp hạng Mức độ Số lựa chọn (SV) Tỉ lệ (%) 1 Cần thiết 250 83,3 2 Phân vân 30 10,0 3 Không cần thiết 20 6,7 Tổng cộng 300 100 Từ Bảng 2 cho thấy có đến 83,3% SV tham gia khảo sát đã nhận biết được sự cần thiết và 76,7% SV nói rằng họ có thực hiện việc xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm. Nghĩa là trong thực tế, đa số SV cũng đã nhận thức được vai trò của công việc xác định tỉ lệ đóng góp này. b) Nguyên nhân sinh viên thực hiện/ không thực hiện việc xác định tỉ lệ đóng góp Có khá nhiều yếu tố để SV xác định tỉ lệ đóng góp, số liệu được thể hiện trong Biểu đồ sau: Biểu đồ 2: Lợi ích của việc xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm 2 27.1 47.6 23.3 Lợi ích khác Kích thích thành viên tham gia tích cực Đảm bảo sự công bằng giữa các thành viên Dễ dàng phân bố lợi ích khi có phát sinh Từ Biểu đồ 3, chúng ta nhận thấy SV chuyên ngành SPTA cho rằng lợi ích lớn nhất của hoạt động này là “đảm bảo sự công bằng giữa các thành viên” (47,6%), thứ hai là “kích thích thành viên tham gia tích cực” (27,1%) và kế đến là “dễ dàng phân bổ lợi ích phát sinh” (23,3%). Từ đó cho thấy, SV đã cơ bản am hiểu nhận biết được lợi ích của hoạt động này. Tuy nhiên, nội dung “dễ dàng phân bổ lợi ích khi có phát sinh” từ bài tập nhóm - một tài sản trí tuệ của cá nhân và tập thể - thì SV lựa chọn chưa nhiều. Điều này cho thấy một thực trạng: SV còn chưa quan tâm và tìm hiểu kỹ lợi ích có thể phát sinh từ bài tập nhóm. Thực tế cho thấy, thông thường SV không khai thác bài tập nhóm gì thêm sau khi hoàn tất. Bên cạnh đó, không phải nhóm nào cũng xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm và những lý do được SV đưa ra là: ĐÀO VINH XUÂN và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 119 Bảng 3: Lý do sinh viên không xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm Xếp hạng Lý do Số lựa chọn (SV) Tỉ lệ (%) 1 Giảng viên không có yêu cầu 90 30,0 2 Nể nang bạn bè nên thấy ngại xác định tỉ lệ 83 27,7 3 Không biết cách xác định như thế nào 69 23,0 4 Chưa từng nghe qua việc xác định tỉ lệ này 36 12,0 5 Có xác định tỉ lệ cũng không có lợi ích gì 22 7,3 Tổng cộng 300 100 Từ Bảng 3 cho thấy, có nhiều nguyên nhân khiến SV chuyên ngành SPTA không xác định tỉ lệ đóng góp. Trong đó nguyên nhân chính cũng là lý do phổ biến nhất là do “Giảng viên không có yêu cầu” (30%) nên SV cũng không thực hiện hoạt động này. Thứ hai là tâm lý “nể nang bạn bè nên thấy ngại xác định tỉ lệ” (27,7%) với bạn cùng lớp. Thứ ba là “không biết cách xác định như thế nào” cho phù hợp (23%) vì có thể SV không được Thầy/Cô hoặc người thân hướng dẫn cách thức thực hiện. Ngoài ra cũng có một số lý do khác như “chưa từng nghe qua việc xác định tỉ lệ này” (12%) hoặc “có xác định tỉ lệ cũng không có lợi ích gì” (7,3%) nên SV đã không thực hiện. Như vậy, có khá nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khiến SV không xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm, điều này có thể dẫn đến một số hậu quả phát sinh như phân tích ở phần sau. c) Cách thức xác định tỉ lệ đóng góp của sinh viên Bên cạnh nhận thức và nguyên nhân nêu trên, chúng tôi đã khảo sát các cách thức mà SV xác định tỉ lệ đóng góp. Số liệu được trình bày ở Biểu đồ 3 như sau: SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 120 Biểu đồ 3: Cách thức xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm 60 17 23 0 10 20 30 40 50 60 70 % Cách thức 60 23 17 Chia đều nhau Căn cứ vào đóng góp thực tế Căn cứ vào các thỏa thuận khác Theo kết quả khảo sát, có đến 60% SV vẫn chia đều nhau tỉ lệ đóng góp cho các thành viên, 23% chia theo đóng góp thực tế, còn lại theo thoả thuận khác. Do đó, có một nghịch lý xảy ra là: mức độ tích cực đóng góp của các thành viên là khác nhau, nhưng đa số SV chuyên ngành SPTA lại chia đều nhau tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm. Vì vậy, tỉ lệ SV căn cứ vào “đóng góp thực tế” để xác định tỉ lệ đóng góp cho bài tập nhóm là chưa cao, trong khi căn cứ này chính là cơ sở để đánh giá về mặt điểm số hoặc phân chia các lợi ích khác (nếu có) giữa các thành viên trong nhóm sau này. ĐÀO VINH XUÂN và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 121 d) Các vấn đề phát sinh khi không thực hiện việc xác định tỉ lệ đóng góp Biểu đồ 4: Hậu quả khi không xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm 3 52.230.1 14.7 Hậu quả khác Không công bằng Chất lượng bài tập nhóm chưa như mong đợi Xảy ra mâu thuẫn khi quyền lợi phát sinh Từ thực trạng trên có thể dẫn đến một số hậu quả hay vấn đề có thể phát sinh như sau: Từ biểu đồ 4 cho thấy có đến 52,2% SV cho rằng sự “không công bằng” sẽ xảy ra nếu không xác định tỉ lệ đóng góp, điều này hoàn toàn trùng khớp với kết quả của Biểu đồ 2. Thứ hai là “chất lượng bài tập nhóm chưa như mong đợi” (30,1%), điều này cũng phản ánh đúng thực tế của SV là có quan tâm đến kết quả của bài tập nhóm mình đã thực hiện. Và chỉ khoảng 14,7% cho rằng “mâu thuẫn có thể xảy ra nếu có lợi ích phát sinh” từ bài tập nhóm, điều này cũng hoàn toàn trùng khớp với nội dung SV còn hạn chế trong việc khai thác, phân bổ lợi ích phát sinh nếu có của bài tập nhóm sau khi hoàn tất. Từ các vấn đề trên, có thể dẫn đến hậu quả là khối lượng công việc nhóm của mỗi thành viên phải làm là chưa đồng đều, có thể công việc chỉ dồn hết vào một số thành viên của nhóm và sẽ có SV không nắm được kiến thức trọn vẹn của phần nội dung được giao, vì lệ thuộc vào phần thực hiện của các thành viên khác. Như vậy, từ những lý do không xác định tỉ lệ đóng góp và các vấn đề có thể phát sinh, chúng tôi cho rằng SV đã hiểu biết phần nào hậu quả có thể xảy ra khi không xác định tỉ lệ đóng góp sau khi làm bài tập nhóm, tuy nhiên mức độ này vẫn còn chưa cao. Tóm lại, đa số SV chuyên ngành SPTA đã nhận thức được hậu quả và lợi ích của việc xác định tỉ lệ đóng góp này. Thế nhưng cần có sự hướng dẫn từ nhà trường để hạn chế các vấn đề và phát huy được tối đa lợi ích của hoạt động xác định tỉ lệ này trong môi trường đại học. 3. Một số đề xuất Trên cơ sở lí luận kết hợp với kết quả khảo sát, nhóm nghiên cứu có một số đề xuất và kiến nghị sau đây: 3.1. Về phía nhà trường - Định hướng văn hóa xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm trong SV SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 122 nói chung và SV chuyên ngành SPTA nói riêng ngay từ khi SV mới vào đại học. - Ban hành các quy định cụ thể về văn hóa làm bài tập nhóm và rộng hơn là quản trị tài sản trí tuệ. 3.2. Về phía Giảng viên - Hướng dẫn và tạo điều kiện cho SV xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm, từ đó giúp SV có kiến thức cơ bản về quản trị tài sản trí tuệ cho bản thân. - Yêu cầu SV xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm, nhằm tăng tính công bằng trong kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của SV, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng giảng dạy. 3.3. Về phía Sinh viên - Ý thức được mức độ quan trọng của việc xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm và cần tích cực tham gia khi làm việc nhóm. - Hình thành thói quen và từng bước xây dựng văn hóa xác định tỉ lệ đóng góp đúng với đóng góp thực tế, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng học tập của SV. 4. Kết luận Bài báo khẳng định mức độ quan trọng và lợi ích của việc xác định tỉ lệ đóng góp khi làm bài tập nhóm, góp phần giúp SV làm việc nhóm hiệu quả hơn trong môi trường đại học. Tuy nhiên, hạn chế của nghiên cứu là chỉ mới tập trung vào các tiêu chí đánh giá đối với SV chuyên ngành SPTA và chưa có sự so sánh đối chiếu với các SV ngành khác. Vì vậy, hướng nghiên cứu tiếp theo là mở rộng đối tượng nghiên cứu và tìm hiểu mối tương quan giữa các tiêu chí ảnh hưởng đến việc xác định tỉ lệ đóng góp của SV khi làm bài tập nhóm. TÀI LIỆU THAM KHẢO Hoàng Long (chủ biên) (2012). Từ điển Tiếng Việt, NXB Hồng Đức, tr. 25. Nash, M. (et al.) (2011). Spirals Series Circle: Developing Language and Communication Skills through Effective Small Group Work, Great Britain: Routledge, p. 88-89. Philip Chappell, Ph. (2014). Group Work in the English Language Curriculum: Sociocultural and Ecological Perspectives on Second Language Classroom Learning, Great Britain: Palgrave Macmillan, p. 89-90. Richards, J. & Schmidt, R. (2010). Longman Dictionary of Language Teaching and Applied Linguistics, (ed.), Great Britain: Longman, p. 99. Thái Xuân Đệ (2012). Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hoá Thông tin, tr. 27. Toseland, R. W. & Robert, R. (2017). An introduction to group work practice, (8th editon), Great Britain: Pearson, p. 199. Ngày nhận bài: 01/8/2018 Biên tập xong: 15/6/2019 Duyệt đăng: 20/6/2019 HỘP THƯ BẠN ĐỌC Kính gửi Quý bạn đọc, Trong số Tạp chí này, chúng tôi xin giới thiệu đến Quý bạn đọc và các nhà khoa học những bài nghiên cứu thuộc lĩnh vực Khoa học Xã hội và Giáo dục. Ban Biên tập Tạp chí khoa học Đại học Sài Gòn xin trân trọng thông báo đã nhận được bài viết của rất nhiều nhà khoa học ở các chuyên ngành và lĩnh vực khác nhau. Ban Biên tập chân thành cảm ơn sự cộng tác của Quý vị. Vì điều kiện giới hạn về số lượng bài trong mỗi số, chúng tôi xin được chọn đăng ở các số Tạp chí tiếp theo. Với những bài viết đã chọn đăng trong số Tạp chí này, chắc chắn vẫn còn thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Quý bạn đọc để có thể ngày một nâng cao hơn nữa chất lượng cho Tạp chí. Một lần nữa, Ban Biên tập Tạp chí khoa học Đại học Sài Gòn chân thành cảm ơn Quý bạn đọc, các nhà khoa học trong cả nước và mong muốn được đón nhận sự tín nhiệm lâu dài của Quý vị trong tương lai. Trân trọng. BAN BIÊN TẬP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
File đính kèm:
- thuc_trang_xac_dinh_ti_le_dong_gop_khi_lam_bai_tap_nhom_cua.pdf