Thực trạng của việc lồng ghép văn hóa trong giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên ở trường Đại học Hồng Đức

Khi xu hướng giao tiếp và hội nhập quốc tế đang ngày càng trở nên bức thiết thì

nhu cầu học ngoại ngữ ngày càng tăng. Quan niệm cho rằng, dạy ngoại ngữ chỉ đơn

thuần là dạy người học một vốn từ vựng hay một vốn ngữ pháp đủ để diễn đạt ý nghĩ

của mình đã không còn phù hợp. Mục tiêu dạy học ngoại ngữ ngày nay là hướng đến

rèn luyện năng lực giao tiếp toàn diện. Với ý nghĩa đó, việc lồng ghép văn hoá của

ngôn ngữ đích vào quá trình dạy và học trở nên vô cùng quan trọng.

Tuy ích lợi của việc học văn hoá trong học ngoại ngữ đã được thừa nhận , nhưng

dạy văn hoá vẫn chưa trở thành một bộ phận trọng yếu ở các chương trình ngoại ngữ

trong nhiều trường học. Gần đây, khi bắt đầu ý thức được vai trò của văn hoá trong dạy

học ngoại ngữ, thì việc lựa chọn phương pháp phù hợp và hiệu quả là một vấn đề phải

được quan tâm hàng đầu . Ngoài ra, sử dụng một cách hợp lí các hoạt động dạy - học

văn hoá, phù hợp với môi trường và điều kiện chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả trong quá

trình dạy - học ngoại ngữ nói chung, tiế ng Anh nó i riêng

Thực trạng của việc lồng ghép văn hóa trong giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên ở trường Đại học Hồng Đức trang 1

Trang 1

Thực trạng của việc lồng ghép văn hóa trong giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên ở trường Đại học Hồng Đức trang 2

Trang 2

Thực trạng của việc lồng ghép văn hóa trong giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên ở trường Đại học Hồng Đức trang 3

Trang 3

Thực trạng của việc lồng ghép văn hóa trong giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên ở trường Đại học Hồng Đức trang 4

Trang 4

Thực trạng của việc lồng ghép văn hóa trong giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên ở trường Đại học Hồng Đức trang 5

Trang 5

Thực trạng của việc lồng ghép văn hóa trong giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên ở trường Đại học Hồng Đức trang 6

Trang 6

Thực trạng của việc lồng ghép văn hóa trong giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên ở trường Đại học Hồng Đức trang 7

Trang 7

pdf 7 trang viethung 3040
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng của việc lồng ghép văn hóa trong giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên ở trường Đại học Hồng Đức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng của việc lồng ghép văn hóa trong giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên ở trường Đại học Hồng Đức

Thực trạng của việc lồng ghép văn hóa trong giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên ở trường Đại học Hồng Đức
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 23. 2015 
122 
ABSTRACT 
Vietnamese culture belongs to Southeast Asia's culture substratum. Thus, 
Vietnam and other Southeast Asian countries share a lot of the same features in the 
arts of folk theater. This paper studies an ancient game namely Xuan Pha - one of 
pinnacles of Vietnamese folk art and royal - by comparing similarities and differences 
of Xuan Pha dance with other Southeast Asian countries' ones, so as to confirm the role 
of Xuan Pha dance in Southeast Asia. Besides, this paper contributes to the deep 
exploitation of the relationship between Vietnam's traditional culture and other 
countries's traditional cultures in the region. 
Keywords: Xuan Pha dance, mask theater, folk stage, royal stage 
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC LỒNG GHÉP VĂN HÓA TRONG 
GIẢNG DẠY TIẾNG ANH CHO SINH VIÊN Ở TRƢỜNG ĐẠI HỌC 
HỒNG ĐỨC 
Lƣu Thị Thanh Tú1 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Khi xu hướng giao tiếp và hội nhập quốc tế đang ngày càng trở nên bức thiết thì 
nhu cầu học ngoại ngữ ngày càng tăng. Quan niệm cho rằng, dạy ngoại ngữ chỉ đơn 
thuần là dạy người học một vốn từ vựng hay một vốn ngữ pháp đủ để diễn đạt ý nghĩ 
của mình đã không còn phù hợp. Mục tiêu dạy học ngoại ngữ ngày nay là hướng đến 
rèn luyện năng lực giao tiếp toàn diện. Với ý nghĩa đó, việc lồng ghép văn hoá của 
ngôn ngữ đích vào quá trình dạy và học trở nên vô cùng quan trọng. 
Tuy ích lợi của việc học văn hoá trong học ngoại ngữ đã được thừa nhận , nhưng 
dạy văn hoá vẫn chưa trở thành một bộ phận trọng yếu ở các chương trình ngoại ngữ 
trong nhiều trường học. Gần đây, khi bắt đầu ý thức được vai trò của văn hoá trong dạy 
học ngoại ngữ , thì việc lựa chọn phương pháp phù hợp và hiệu quả là một vấn đề phải 
được quan tâm hàng đầu . Ngoài ra , sử dụng một cách hợp lí các hoạt động dạy - học 
văn hoá, phù hợp với môi trường và điều kiện chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả trong quá 
trình dạy - học ngoại ngữ nói chung, tiếng Anh nói riêng. 
2. NỘI DUNG 
2.1. Khái niệm văn hoá 
1
 ThS. Giảng viên Khoa Sư phạm Ngoại ngữ, trường Đại học Hồng Đức. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 23. 2015 
123 
Văn hóa là sản phẩm của con người; là hệ quả của sự tiến hóa nhân loại. Nhờ 
có văn hóa mà con người trở nên độc đáo trong thế giới sinh vật và khác biệt so với 
những con vật khác trong thế giới động vật. Tuy nhiên, để hiểu về khái niệm “văn 
hóa” đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, do đó có những định nghĩa khác nhau 
về Văn hóa. 
Năm 1952, A.L. Kroeber và Kluckhohn xuất bản quyển sách Culture, a critical 
review of concept and definitions [Văn hóa, điểm lại bằng cái nhìn phê phán các khái 
niệm và định nghĩa], trong đó tác giả đã trích lục khoảng 160 định nghĩa về văn hóa do 
các nhà khoa học đưa ra ở nhiều nước khác nhau. Điều này cho thấy, khái niệm “Văn 
hóa” rất phức tạp. 
Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa 
rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật 
pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với 
tư cách một thành viên của xã hội. Theo định nghĩa này thì văn hóa và văn minh là 
một; nó bao gồm tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người, từ tri thức, 
tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật Có người ví, định nghĩa này mang 
tính “bách khoa toàn thư” vì đã liệt kê hết mọi lĩnh vực sáng tạo của con người. F. 
Boas định nghĩa “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và những hoạt 
động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm người vừa có tính 
tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên của họ, với 
những nhóm người khác, với những thành viên trong nhóm và của chính các thành 
viên này với nhau”. Theo định nghĩa này, mối quan hệ giữa cá nhân, tập thể và môi 
trường là quan trọng trong việc hình thành văn hóa của con người. Một định nghĩa 
khác về văn hóa mà A.L. Kroeber và Kluckhohn đưa ra là “Văn hóa là những mô 
hình hành động minh thị và ám thị được truyền đạt dựa trên những biểu trưng, là 
những yếu tố đặc trưng của từng nhóm người Hệ thống văn hóa vừa là kết quả 
hành vi vừa trở thành nguyên nhân tạo điều kiện cho hành vi tiếp theo”  
Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau. Hồ Chí Minh cho 
rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát 
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ 
thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử 
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Với cách hiểu này, văn 
hóa sẽ bao gồm toàn bộ những gì do con người sáng tạo và phát minh ra. Cũng giống 
như định nghĩa của Tylor, văn hóa theo cách nói của Hồ Chí Minh sẽ là một “bách 
khoa toàn thư” về những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người. Phạm Văn Đồng 
cho rằng “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao 
gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong 
suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử (văn hóa) bao 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 23. 2015 
124 
gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài 
năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản 
lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không 
ngừng lớn mạnh”. Theo định nghĩa này thì văn hóa là những cái gì đối lập với thiên 
nhiên và do con người sáng tạo nên từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm và sức đề 
kháng của mỗi người, mỗi dân tộc. Riêng Nguyễn Đức Từ Chi xem văn hóa từ hai góc 
độ. Góc độ thứ nhất là góc độ hẹp, mà ông gọi là “góc nhìn báo chí”. Theo góc nhìn 
này, văn hóa sẽ là kiến thức của con người và xã hội. Nhưng, ông không mặn mà với 
cách hiểu này vì hiểu như thế thì người nông dân cày ruộng giỏi nhưng khô ... ứu ở Việt Nam và kể cả ở nước 
ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do UNESCO 
đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và 
nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức hệ- tổng hợp các đặc trưng diện 
mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm khắc họa nên bản sắc của một cộng 
đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội Văn hóa không chỉ bao gồm 
nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những 
hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng”; còn hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn 
hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp 
trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng”  
Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định nghĩa đề 
cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Như định 
nghĩa của Tylor và của Hồ Chí Minh thì xem văn hóa là tập hợp những thành tựu mà 
con người đạt được trong quá trình tồn tại và phát triển, từ tri thức, tôn giáo, đạo đức, 
ngôn ngữ, đến âm nhạc, pháp luật Còn các định nghĩa của F. Boas, Nguyễn Đức 
Từ Chi, tổ chức UNESCO thì xem tất cả những lĩnh vực đạt được của con người 
trong cuộc sống là văn hóa. Chúng tôi dựa trên các định nghĩa đã nêu để xác định một 
khái niệm văn hóa cho riêng mình nhằm thuận tiện cho việc thu thập và phân tích dự 
liệu khi nghiên cứu. Chúng tôi cho rằng, văn hóa là sản phẩm của con người được tạo 
ra trong qua trình lao động (từ lao động trí óc đến lao động chân tay), được chi phối 
bởi môi trường (môi tự nhiên và xã hội) xung quanh và tính cách của từng tộc người. 
Nhờ có văn hóa mà con người trở nên khác biệt so với các loài động vật khác; và do 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 23. 2015 
125 
được chi phối bởi môi trường xung quanh và tính cách tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc 
người sẽ có những đặc trưng riêng. 
Với cách hiểu này cùng với những định nghĩa đã nêu thì văn hóa chính là nấc 
thang đưa con người vượt lên trên những loài động vật khác; và văn hóa là sản phẩm do 
con người tạo ra trong quá trình lao động nhằm mục đích sinh tồn. 
Nói tóm lại, khái niệm văn hoá được nhìn nhận theo nhiều chiều kích khác nhau. 
Khó có thể nói định nghĩa nào là đúng nhất, hay nhất và hoặc bao trùm nhất trong hàng 
trăm định nghĩa đã và đang tồn tại về đối tượng đang được nghiên cứu. Trong bài viết 
này, chúng tôi nhìn nhận ngôn ngữ với tư cách là hiện thân tiểu biểu nhất của văn 
hoá. Cách nhìn này phản ánh một phần thực chất của việc dạy học văn hoá và các vấn 
đề của dạy học văn hoá trong dạy học ngoại ngữ mà chúng ta đang đề cập. 
2.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá 
Nếu văn hoá là thứ có thể học, trao đổi và truyền đạt từ thế hệ này sang thế hệ 
khác thông qua hoạt động của con người và đương nhiên, thông qua giao tiếp bằng 
ngôn ngữ thì ngôn ngữ tất yếu là một phần của văn hoá [16]. Ngôn ngữ không chỉ là 
một phần của văn hoá mà còn là một phương tiện mà thông qua đó, văn hoá được 
truyền đạt. Một người sẽ bộc lộ một cách tự nhiên văn hoá của bản thân mình thông 
qua ngôn ngữ mà anh ta sử dụng. Mỗi khi ta sử dụng ngôn ngữ tức là ta thể hiện một 
hành động văn hoá [1]. Mặt khác, văn hoá cũng là một phần của ngôn ngữ, vì ngôn ngữ 
là hiện thân của sản phẩm, thực tiễn, triển vọng, cộng đồng và con người của một nền 
văn hoá (Moran, 2001). Như vậy ngôn ngữ và văn hoá có mối tương quan chặt chẽ với 
nhau: “ cả hai gắn kết nhau trong một quan hệ phức tạp đến mức người ta không thể 
hoàn toàn chia rẽ chúng mà không làm mất đi ý nghĩa của văn hoá hay ngôn ngữ” [7, 
239]. Emitt and Pollock (2007) cũng cho rằng, học một ngôn ngữ tức là học văn hoá 
của ngôn ngữ đó. Trên thực tế, người học không thể hoàn toàn lĩnh hội được ngôn ngữ 
nếu họ chưa nhận ra và hiểu được ngữ cảnh văn hoá mà trong đó ngôn ngữ xuất hiện 
(Peterson & Coltrane, 2003). Vì vậy, trong dạy và học một ngôn ngữ, nhận thức được 
mối quan hệ chặt chẽ giữa ngôn ngữ và văn hoá có một ý nghĩa hết sức quan trọng. 
Ngôn ngữ (tiếng nói) là sản phẩm cao cấp của ý thức con người, là vật chất được 
trừu tượng hóa và là hệ thống tín hiệu thứ hai của con người. Ngôn ngữ là một phương 
tiện, một công cụ để con người giao tiếp với nhau, trao đổi tư tưởng và đi đến hiểu 
nhau. Hiện nay trên thế giới có hơn 2.500 ngôn ngữ khác nhau. Mỗi một ngôn ngữ đều 
gắn liền với đặc trưng một nền văn hóa của dân tộc đó. Ngôn ngữ không những được 
nghiên cứu như một hệ thống tín hiệu thuần túy mà còn được xem xét dưới nhiều bình 
diện khác nhau của mọi hoạt động giao tiếp. Theo cách tiếp cận này, các nhà nghiên 
cứu ngày càng nhận ra tầm quan trọng của văn hóa trong ngôn ngữ và giao tiếp. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 23. 2015 
126 
Ngôn ngữ là sự thể hiện sâu sắc nhất một nền văn hóa và yếu tố văn hóa hiện 
diện trong mọi bình diện của ngôn ngữ. Ngôn ngữ và văn hóa có mối liên hệ không thể 
tách rời. Nếu ví văn hóa như một tảng băng trôi thì phần nổi trên mặt nước có thể dễ 
dàng nhận biết được đấy chính là ngôn ngữ. Chúng ta không thể làm chủ một ngôn ngữ 
nếu không nắm bắt được những nét đặc trưng của một nền văn hóa và ngược lại chúng 
ta không thể hiểu được sắc thái tinh tế và ý nghĩa sâu xa của một nền văn hóa nếu 
không hiểu rõ về ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài 
người nhưng sự giao tiếp chỉ có hiệu quả khi cả người phát lẫn người nhận thông tin 
phải có sự hiểu biết chung. Mỗi một dân tộc đều có những phong tục, tập quán, nghi lễ 
riêng được phản ánh bằng ngôn ngữ; các dân tộc thuộc nền văn hóa khác nhau sẽ còn 
khó hiểu nhau hơn khi gặp các từ ngữ biểu thị những sự vật đặc trưng. Những hiện 
tượng trên không chỉ do những người tham gia giao tiếp chưa có sự học tập ngôn ngữ 
đầy đủ và thấu đáo mà còn bởi ở họ còn thiếu những hiểu biết cần thiết lập thành nền 
văn hóa - xã hội của hành vi giao tiếp. Như vậy, quan hệ tương tác giữa các yếu tố văn 
hóa, ngôn ngữ và kĩ năng giao tiếp là một thực tế hiển nhiên và để sử dụng ngôn ngữ có 
hiệu quả cần phải có sự hiểu biết về văn hóa của dân tộc bản ngữ. Người học không thể 
nào học tiếng nói của một dân tộc nào đó mà không học văn hóa của đất nước họ, và 
người dạy cần quan tâm hơn nữa đến các yếu tố văn hóa của ngôn ngữ mình đang 
nghiên cứu giảng dạy. 
2.3. Sự cần thiết của việc lồng ghép văn hóa vào dạy học ngoại ngữ 
Như đã đề cập , văn hoá là một bộ phận không thể thiếu của dạy học ngôn ngữ, 
và dạy một ngôn ngữ cũng có nghĩa là ta đang dạy cái văn hoá mà ngôn ngữ đó biểu 
hiện. Văn hoá được truyền đạt và tiếp thu một cách tự nhiên thông qua quá trình dạy và 
học ngôn ngữ bởi vì, hình thái và cách dùng một ngôn ngữ nhất định phản ánh các giá 
trị văn hoá của xã hội đang sử dụng ngôn ngữ đó (Peterson & Coltrane, 2003). Do đó, 
việc giáo viên nhận ra các yếu tố văn hoá nằm ẩn bên dưới các hình thái và cách dùng 
của ngôn ngữ, xem chúng là một phần thiết yếu của dạy và học ngoại ngữ là vô cùng 
quan trọng. Thứ hai, dạy văn hoá đóng một vai trò then chốt hướng đến mục tiêu „năng 
lực giao tiếp‟ cho người học trong dạy học ngoại ngữ. Peterson and Coltrane (2003) 
nhấn mạnh: Để có thể giao tiếp thành công, ngôn ngữ cần phải được sử dụng cùng với 
cách hành xử văn hoá thích hợp. Người ta cho rằng hiểu biết văn hoá là một phần của 
năng lực giao tiếp và trừ phi văn hoá được xem là nội dung trọng tâm của dạy học 
ngoại ngữ, người học sẽ không thể đạt được khả năng giao tiếp một cách hoàn chỉnh. 
Ngoài ra, học văn hoá mang lại cho người học rất nhiều lợi ích: học văn hoá làm cho 
việc học ngôn ngữ có ý nghĩa hơn [7]. Nội dung văn hoá cũng làm tăng hứng thú cho 
người học: “Học văn hoá không những kích thích tâm lí tò mò quan tâm đến đất nước 
của ngôn ngữ đó mà còn kích thích động cơ học tập” (Genc & Bada, 2005: 77). Thêm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 23. 2015 
127 
vào đó, người học hiểu biết về văn hoá của ngôn ngữ họ đang học sẽ có cái nhìn tích cực 
hơn về nền văn hoá đó và trở nên khoan dung với văn hoá của người khác (Fleet, nd). 
Việc hiểu biết những yếu tố văn hóa này giúp người giao tiếp cũng như người 
dạy và người học tiếp thu được ngoại ngữ một cách có hiệu quả bởi nghĩa của một từ, 
nội dung lời thoại của bất kỳ ngôn ngữ nào cũng có thể thay đổi theo ngữ cảnh. Sự cảm 
nhận ngôn ngữ không chỉ dừng lại ở chỗ biết nghĩa, biết nội dung chứa đựng trong các 
từ ngữ mà quan trọng hơn là nắm được ý nghĩa sâu xa của những nội dung thông tin ấy. 
Một người dù nắm vững ngữ pháp và có vốn từ phong phú đến đâu nhưng nếu thiếu 
hiểu biết về văn hóa bản ngữ thì khi giao tiếp, họ chỉ dừng lại ở mức độ là biết cách 
diễn đạt ý nghĩ của mình một cách vụng về bằng ngôn ngữ của họ và bằng việc áp đặt 
văn hóa Việt vào trong tiếng Anh. Nói cách khác, chỉ có năng lực ngôn ngữ là chưa đủ 
cho người học ngoại ngữ thành thạo ngôn ngữ đó. 
Vấn đề có thể nghiêm trọng hơn khi thiếu hiểu biết về văn hóa có thể gây “xung 
đột văn hóa” hay “sốc văn hóa”. Phần lớn người học thường áp đặt văn hóa mẹ đẻ 
trong việc học ngoại ngữ của mình. Chẳng hạn, trong quá trình giảng dạy, sinh viên 
thường đặt ra các câu hỏi làm quen như: “Cô có gia đình chưa?”, “Cô bao nhiêu tuổi?”, 
“Cô có mấy người con?” “Lương cô bao nhiêu?” Những câu hỏi tưởng chừng muốn 
thể hiện sự quan tâm trong văn hóa Việt vô hình chung lại là sự tò mò không nên dùng 
trong văn hóa Anh. 
Những ví dụ nêu trên chỉ là một minh chứng chứng tỏ các yếu tố văn hóa và 
giao thoa văn hóa ít được chú trọng trong chương trình giảng dạy. Thông thường người 
dạy chỉ nhắc đến những vấn đề liên quan đến văn hóa khi chúng xuất hiện trong bài học 
mà không đi sâu khai thác các khía cạnh văn hóa một cách có hệ thống. Vì vậy, để giúp 
người học thành công trong giao tiếp và tránh những cú “sốc” do khác biệt về văn hóa, 
người dạy cần xác định lại mối quan hệ chặt chẽ giữa ngôn ngữ và văn hóa, nhận thức 
rõ về sự cần thiết phải đưa văn hóa của ngôn ngữ đích vào quá trình dạy - học ngoại 
ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng. 
2.4. Thực trạng lồng ghép văn hóa trong giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên 
ở trƣờng đại học Hồng Đức 
Để tìm hiểu rõ hơn thực trạng lồng ghép văn hóa trong giảng dạy tiếng Anh cho 
sinh viên tại đại học Hồng Đức, tác giả đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp 20 giáo viên dạy 
tiếng Anh trong khoa về việc khai thác yếu tố văn hóa trong quá trình giảng dạy. Ngoài 
ra tác giả đã trực tiếp dự giờ giảng dạy của 10 giáo viên dạy các môn kỹ năng Nghe, Nói, 
Đọc Viết; 2 giáo viên dạy môn Văn hóa- Văn minh cho sinh viên chuyên ngành sư phạm 
tiếng Anh và 8 giáo viên dạy tiếng Anh cho sinh viên không chuyên. Tài liệu giảng dạy 
cũng là yếu tố được xem xét trong quá trình đánh giá thực trạng việc lồng ghép các yếu 
tố văn hóa trong giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên ở Đại học Hồng Đức. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 23. 2015 
128 
Kết quả điều tra bước đầu cho thấy, nhìn chung giáo viên đều nhận thức được 
tầm quan trọng trong của việc lồng ghép các yếu tố văn hóa vào bài giảng. 100% giáo 
viên được hỏi đều cho rằng dạy học ngoại ngữ không thể tách rời yếu tố văn hóa. Tuy 
nhiên mức độ khai thác các yếu tố văn hóa vào việc giảng dạy tiếng Anh của các giáo 
viên rất khác nhau. Đối với các môn phát triển kỹ năng, do tài liệu giảng dạy đã có rất 
nhiều chất liệu văn hóa, giáo viên chỉ việc khai thác và giới thiệu cho sinh viên. Mặc dù 
vậy, hoạt động chuyền tải chủ yếu vẫn là trình bày báo cáo (Presentation) hay Giảng 
giải và đọc hiểu. Hoạt động phân vai được sử dụng trong các giờ dạy kỹ năng Nói, hoạt 
động kịch hóa hầu như rất ít được sử dụng. Nhiều giáo viên cho rằng có rất nhiều ý 
tưởng để lồng ghép các yếu tố văn hóa vào việc giảng dạy, tuy nhiên thời lượng giảng 
dạy của môn học cũng như cơ sở vật chất phục vụ dạy học chưa cho phép. Ví dụ, giáo 
viên cần máy tính có kết nối Internet để tải và trình chiếu tài liệu liên quan đến bài 
giảng nhưng các khu giảng đường hiện nay chưa có kết nối wifi. Đối với các lớp tiếng 
Anh cho sinh viên không chuyên, việc lồng ghép các hoạt động chuyền tải văn hóa còn 
khó khăn hơn nữa. Thực tế lớp học đông không cho phép giáo viên quá tập trung vào 
việc khai thác và chuyền tải các yếu tố văn hóa vào trong bài giảng. Ở những lớp học 
này giáo viên chỉ có thể giới thiệu qua về các yếu tố văn hóa khi gặp trong bài giảng 
qua hình thức giảng giải cho sinh viên. 
2.5. Một số hoạt động “chuyền tải” văn hóa trong dạy - học ngoại ngữ cho 
sinh viên trƣờng Đại học Hồng Đức 
Để nâng cao nhận thức của người học về sự khác biệt và tương đồng của văn 
hóa nguồn và văn hóa đích, vai trò của người giảng viên rất quan trọng. Tùy theo độ 
tuổi và trình độ người học, người dạy có thể điều chỉnh và áp dụng phục vụ cho việc 
dạy văn hóa trong quá trình dạy ngoại ngữ của mình. Người dạy cần đưa những ứng 
dụng cụ thể vào trong từng bài giảng bằng cách chiếu các trích đoạn phim, cho sinh 
viên đọc những câu chuyện sưu tập từ sách, báo, Internet có liên quan đến sự khác 
biệt về văn hóa, yêu cầu sinh viên kể lại những vấn đề họ gặp phải trong thực tiễn khi 
giao tiếp với người nước ngoài. Lớp học sẽ cùng nhau phân tích nguyên nhân của sự 
việc, gợi ý giải pháp cần làm để tránh những cú sốc văn hóa. Hoặc người dạy có thể 
dùng các câu đố để kiểm tra kiến thức và cung cấp thêm thông tin liên quan đến văn 
hóa, có thể yêu cầu người học thuyết trình ngắn gọn về một hay nhiều điểm khác nhau 
giữa văn hóa của họ và văn hóa họ đang tìm hiểu về phong tục tập quán, lễ hội, cưới 
xin có kèm hình ảnh minh họa và các câu hỏi liên quan để cùng thảo luận 
Như vậy, nhiệm vụ của những người dạy ngoại ngữ không còn hạn chế trong 
khuôn khổ của các cấu trúc ngôn ngữ thuần túy mà phải chuyền tải đến người học các 
khía cạnh của ngôn ngữ và các yếu tố văn hóa không được đề cập đến trong nội dung 
giáo trình thông qua các tình huống, những dạng bài tập về giao thoa văn hóa, đồng 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_cua_viec_long_ghep_van_hoa_trong_giang_day_tieng.pdf