Thúc đẩy sự hứng thú của sinh viên khi tham gia học tiếng Anh trực tuyến
Việc học tiếng Anh trực tuyến ngày càng chứng tỏ vai trò của nó trong thế
giới khi mà cuộc cách mạng công nghệ số ngày càng mạnh mẽ trên toàn thế giới. Phương
pháp học này còn mang lại một lượng kiến thức khổng lồ và phù hợp với các đối tượng ở xa
hay bận rộn do thời gian học hết sức linh hoạt. Tuy vây, sau một thời gian phương pháp này
được áp dụng thì nó đã bộc lộ ra những hạn chế nhất định ảnh hưởng đến hiệu quả việc học.
Một trong những yếu tố quan trọng đó là sự hứng thú của người học do đặc thù của việc học
trực tuyến là không có sự tương tác trực tiếp. Bài viết nhằm mục đích tìm hiểu về sự hứng
thú của sinh viên với phương pháp học tiếng Anh trực tuyến. Từ đó, tác giả đưa ra một số đề
xuất để tăng sự hứng thú cho sinh viên, thúc đẩy hiệu quả của việc dạy tiếng Anh trực tuyến
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thúc đẩy sự hứng thú của sinh viên khi tham gia học tiếng Anh trực tuyến
48 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion THÚC ĐẨY SỰ HỨNG THÚ CỦA SINH VIÊN KHI THAM GIA HỌC TIẾNG ANH TRỰC TUYẾN ENHANCING STUDENTS’ ENGAGEMENT IN LEARNING ENGLISH ONLINE Nguyễn Thị Thắng* Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 5/11/2019 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/5/2020 Ngày bài báo được duyệt đăng: 29/5/2020 Tóm tắt: Việc học tiếng Anh trực tuyến ngày càng chứng tỏ vai trò của nó trong thế giới khi mà cuộc cách mạng công nghệ số ngày càng mạnh mẽ trên toàn thế giới. Phương pháp học này còn mang lại một lượng kiến thức khổng lồ và phù hợp với các đối tượng ở xa hay bận rộn do thời gian học hết sức linh hoạt. Tuy vây, sau một thời gian phương pháp này được áp dụng thì nó đã bộc lộ ra những hạn chế nhất định ảnh hưởng đến hiệu quả việc học. Một trong những yếu tố quan trọng đó là sự hứng thú của người học do đặc thù của việc học trực tuyến là không có sự tương tác trực tiếp. Bài viết nhằm mục đích tìm hiểu về sự hứng thú của sinh viên với phương pháp học tiếng Anh trực tuyến. Từ đó, tác giả đưa ra một số đề xuất để tăng sự hứng thú cho sinh viên, thúc đẩy hiệu quả của việc dạy tiếng Anh trực tuyến. Từ khóa: học trực tuyến, phương pháp, sự hứng thú, hạn chế, hiệu quả. Abstract: Learning English online has been becoming more and more important in the world when the digital technology revolution is getting more widespread. This method of learning brings learners a gargantuan amount of knowledge and suitable with those who live far away or too busy. However, after a period of being applied, the method has shown some certain shortcomings which badly aff ect students’ learning eff ectiveness. This article aims to learn about students’ engagement in English online learning methods and some suggestions to enhance this factor, thus increasing the effi ciency of English online learning. Keywords: online learning, method, engagement, shortcomings, effi ciency. * Trường Đại học Điện lực 1. Đặt vấn đề Trong xu thế giáo dục đại học hiện nay và sự ra đời của cuộc cách mạng công nghệ 4.0, việc học trực tuyến trở nên vô cùng cần thiết với mỗi sinh viên đại học, nhất là trong việc học tiếng Anh. Hệ thống giáo dục theo tín chỉ với khối lượng kiến thức nhiều nhưng thời gian học trên lớp theo truyền thống lại không đủ để sinh viên có thể được tập luyện các kiến thức và kĩ năng đó.Ngoài ra, trong những tình huống đặc biệt khi có dịch bệnh xảy ra như dịch Encovy-19 trong Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 67 (5/2020) 48-55 49Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion năm 2020 này, các sinh viên các trường đại học phải nghỉ học ở nhà. Trong bối cảnh này, hầu hết các sơ sở giáo dục cũng như các trường đại học đã áp dụng mô hình học trực tuyến hỗ trợ cho việc học trên lớp. Tuy nhiên, hiệu quả của việc học trực tuyến sẽ không cao nếu giáo viên không có những biện pháp cụ thể trong vệc giám sát cũng như hỗ trợ người học khi cần thiết. Điều này cũng là giảm sự hứng thú và nhận thức của sinh viên với hoạt động học online.Yếu tố hứng thú có thể nói là một trong những yếu tố hàng đầu ảnh hưởng đến hiệu quả của việc học tiếng Anh trực tuyến. Vì vậy, bài viết sẽ tập trung vào phân tích những khái niệm liên quan đến yếu tố này. Giới thiệu về phương pháp học trực tuyến 1. Khái niệm: Phương pháp học trực tuyến là gì? Qua các phương tiện thông tin thì ta có thể tìm được nhiều khái niệm về học online, nhưng tất cả đều có chung một cách hiểu cơ bản là một phương thức trao đổi nội dung học dựa các thiết bị điện tử hiện đại (điện thoại thông minh, máy tính) có kết nối với Internet. Nơi cập nhật tài liệu hoc tập là các website học trực tuyến hay các ứng dụng có liên quan. Đặc điểm vượt trội của học online so với các phương pháp học truyền thống thể hiện ở tính tương tác cao, đa dạng giữa giảng viên và học viên. Dựa trên các tính năng hữu ích đó, thông qua các ứng dụng: chat, email, diễn đàn, hội thảo trực tuyếnmà giảng viên và người học có thể tương tác. Một cách gọi khác của việc học trực tuyến (online learning) là E-learning -viết tắt của Electronic Learning. Hiện nay, có rất nhiều cách hiểu về E-learning. Hiểu theo nghĩa tổng quát, E-learning là một thuật ngữ dùng để mô tả việc học tập, đào tạo dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông, đặc biệt là công nghệ thông tin. Theo một cách hiểu khác, E-learning là một kiểu dạy học trong đó người dạy và người học có thể giao tiếp với nhau qua mạng dưới các hình thức như: e-mail, thảo luận trực tuyến (chat), diễn đàn (forum), hội thảo video ; các nội dung học tập có thể được phân phát qua các công cụ điện tử hiện đại như máy tính, mạng vệ tinh, mạng Internet, Intranet, các website hoặc có thể thu được từ đĩa CD, băng video, audio Hiện nay, có hai hình thức giao tiếp giữa người dạy và người học là giao tiếp đồng bộ (Synchronous) và giao tiếp không đồng bộ (Asynchronous). Giao tiếp đồng bộ là hình thức giao tiếp trong đó tại cùng một thời điểm có nhiều người truy cập mạng và trao đổi thông tin trực tiếp với nhau: thảo luận trực tuyến, hội thảo video, nghe đài hoặc xem tivi phát sóng trực tiếp Giao tiếp không đồng bộ là hình thức mà những người giao tiếp không nhất thiết phải truy cập mạng tại cùng một thời điểm; ví dụ như: các khóa tự học qua Internet, CD-ROM, e-mail, diễn đàn. Đặc trưng của kiểu học này là giảng viên phải chuẩn bị tài liệu trước khi khóa học diễn ra; học viên được tự do chọn lựa thời gian tham gia khóa học. Trong loại hình học tập truyền thống (học tập mặt đối mặt), học viên trực tiếp nhận thông tin (bài giảng) từ giảng viên. Khi các học viên tự học bằng sách vở, băng tiếng, băng hình, phát thanh, truyền hình... học viên thiếu hẳn yếu tố giao tiếp hai chiều giữa thầy - trò, trò - bạn. Các giao tiếp hai chiều này, trên thực tế lại là một yếu tố rất quan trọng trong quá trình dạy và học. Học tập trực tuyến h ... p trung phân tích, nhấn mạnh tầm quan trọng đối với kết quả đầu ra cần có ở mỗi mức độ khác nhau. Ví dụ cụ thể là một nghiên cứu 52 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion ban đầu của Finn năm 1989 liên quan đến khái niệm này trong ngữ cảnh trường học đã coi sự hứng thú là sự tham gia và tinh thần coi trường học là nơi thân thiết. Kết quả đầu ra được tính là tỉ lệ bỏ học và tỉ lệ học sinh tiếp tục theo học. Ngược lại, ở mức độ hoạt động, khái niệm này liên quan đến sự tham gia một hoạt động hay một nhiệm vụ cụ thể trên lớp và kết quả đầu ra cần nghiên cứu là việc học. Trong ngữ cảnh dạy ngoại ngữ thì kết quả đầu ra liên quan đến việc sử dụng và phát triển ngôn ngữ. Trong việc học tiếng Anh, khái niệm “hứng thú” đề cập đến sự tập trung cao độ và tham gia tích cực được phản ánh không chỉ ở góc cạnh nhận thức mà cả trên các mặt hành vi và cảm xúc. Chúng ta cần có những khái niệm cơ bản về tính đa diện của yếu tố này. - Sự hứng thú về mặt nhận thức: Sự hứng thú về mặt nhận thức bao gồm những quá trình như sự cố gắng liên tục và những nỗ lực về mặt tinh thần có kèm theo những phương hướng tự điều chỉnh bản thân. Helme &Clarke(2001) đã đưa ra nhận định về một loạt các yếu tố của hứng thú về mặt nhận thức trong các hoạt động tương tác như hỏi và trả lời, hoàn thiện nốt câu của bạn mình, trao đổi thông tin, đánh giá hay phản biện một ý kiến, cử chỉ và vẻ mặt. Những biểu hiện sâu hơn của nhận thức có thể là những cuộc nói chuyện riêng (Barner, 2008). Các nhà nghiên cứu có thể lấy bằng chứng từ các dữ liệu nghe và nhìn, từ dữ liệu ghi lại các buổi học, sự quan sát hay trực tiếp từ các câu hỏi điều tra hoặc các buổi phỏng vấn sau mỗi buổi học (Gass & Mackey, 2014). - Sự hứng thú về mặt hành vi: Sự hứng thú này được hiểu một cách đơn giản là việc dành thời gian để tham gia và hoàn thành nhiệm vụ học tập. Gettinger và Walter (2012) đã dựa trên các nghiên cứu trong các trường học ở Mỹ nhận định rằng thời gian tham gia học tập bằng sự hứng thú là lượng thời gian sinh viên tham gia một cách chủ động, có thể dự đoán được kết quả học tập và sự hứng thú có liên quan trực tiếp đến kết quả đầu ra của quá trình học tập (Fredicks et al, 2004). Một số nhà nghiên cứu khác như Finn và Zimmer,2012 đã cho rằng sự hứng thú về mặt hành vi là một sự liên tục phụ thuộc vào mức độ và chất lượng của sự tham gia. Những biểu hiện của yếu tố này là mức độ cố gắng, sự kiên trì và sự tham gia chủ động, tích cực. Một số nhà nghiên cứu khác như Anderson (1975) đã nhận thức sự hứng thú về mặt hành vi có sự phân nhánh: hứng thú (đồng nghĩa với hành vi tham gia hoàn thành nhiệm vụ) và không hứng thú (được xem như đồng nghĩa với việc không tham gia hoàn thành nhiệm vụ. Những biểu hiện này đã giúp mở rộng sự hiểu biết về khái niệm hứng thú về mặt hành vi và cung cấp sự lý giải về mặt lý thuyết cho việc học và những góc cạnh khác của khái niệm hứng thú. Các nhà nghiên cứu có thể đo mức độ hứng thú này một cách định tính qua sự quan sát những cố gắng và sự tham gia của người học cũng như qua các báo cáo của giáo viên và người học hoặc các buổi phỏng vấn (Fredicks & Mc Colskey,2012). - Sự hứng thú về mặt cảm xúc: Cấu trúc của sự hứng thú này được định nghĩa một cách linh hoạt theo trọng tâm của mỗi nghiên cứu. Yazzie-Mintz (2009;16) đã xem sự hứng thú theo góc cạnh này là những cảm xúc kết nối của sinh viên (hoặc không kết nối) với trường học của họ-cách mà sinh viên cảm thấy khi họ ở trường hay khi họ tiếp xúc với phương pháp học tập và những người 53Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion khác trong môi trường đó. Xét trong ngữ cảnh lớp học và các hoạt động trên lớp, Skinner, Kinderman và Furrer (2009) đã định nghĩa sự hứng thú về mặt cảm xúc là sự tham gia có động lực vào các hoạt động học tập. Các nhà nghiên cứu này đã đưa ra các biểu hiện cốt lõi của sự hứng thú cảm xúc là sự nhiệt tình, sự say mê và cảm giác vui vẻ. Ngược lại với đó là những cảm xúc như lo lắng, sự thất vọng và sự buồn chán. Đây là những biểu hiện của những cảm xúc tiêu cực. Baralt, Gurzynski-Weiss và Kim (2016) đã bổ sung thêm yếu tố có mục đích và độc lập là những mặt khác của sự hứng thú cảm xúc. Khái niệm này còn liên quan đến sự kết nối hoặc không kết nối của mỗi người học với những bạn học của họ trong lớp, đặc biệt là những người bạn trong nhóm học ở các hoạt động trên lớp. Theo như các nhà nghiên cứu Min Hu, Hao Li, Wenping Deng và Hua Guan, sự hứng thú của sinh viên khi học trực tuyến là sự hứng thú khi sử dụng phần mềm trực tuyến gồm có cả 3 mặt: hứng thú về mặt nhận thức, hành vi và cảm xúc. Sự hứng thú của người học không chỉ về mặt hành vi như đọc tài liệu, hỏi các câu hỏi, tham gia vào các hoạt động và hoàn thành bài tập về nhà mà quan trọng hơn là nhận thức của người học về sự cố gắng và sẵn sàng áp dụng những kiến thức mới vào các tình huống khác nhau khi lựa chọn và đánh giá thông tin. Biểu hiện của sự hứng thú về mặt cảm xúc của người học khi học trực tuyến là sự hài lòng về những tiến bộ học tập, sự sẵn sàng tham gia các hoạt động học tập và sự tự giác trong các hoạt động tương tác theo cặp. Trong việc học trực tuyến, sự hứng thú về mặt hành vi là rất quan trọng nhưng thật khó để định nghĩa một cách rõ ràng và yếu tố này cũng không thể phản ánh một cách đầy đủ sự cố gắng của người học. Vì vậy, chúng ta cần xem xét đến nhận thức, sự điều chỉnh và sự hỗ trợ về mặt cảm xúc trong quá trình học như là sự nỗ lực để điều chỉnh về mặt nhận thức và cảm xúc. Người học cần được tham gia một cách đầy đủ và hứng thú vào quá trình học online cả về mặt chất lượng và số lượng. Họ cũng cần thực hiện quá trình giao tiếp với người khác và quá trình học tập một cách có ý thức với sự hướng dẫn và giúp đỡ bạn học cũng như quá trình tự điều chỉnh bản thân. Theo như nhà nghiên cứu Bangert- Drowns và Pike (2001,215), sự hứng thú trong việc học trực tuyến là sự áp dụng các phương pháp về mặt nhận thức, hành vi và cảm xúc để cố gắng thực hiện những tương tác trong quá trình học và những nhiệm vụ học tập. Trong môi trường học trực tuyến, sự hứng thú kèm theo sự chú ý, cố gắng về mặt nhận thức và sự tập trung của người học trong môi trường đó. Theo Kearley và Shneiderman (1998), khi người học tham gia một cách hứng thú vào quá trình học tập thì mức độ tập trung sẽ cao hơn, từ đó kết quả học tập sẽ được cải thiện. 4. Một số gợi ý để thúc đẩy sự hứng thú cho sinh viên trong quá trình học tiếng Anh online. 4.1. Luôn hỗ trợ sinh viên về mặt kĩ thuật: Việc học online còn khá mới mẻ với sinh viên một số trường đại học. Vì vậy, ở bước khởi điểm các em cần được hỗ trợ về mặt kĩ thuật để tránh khỏi sự bỡ ngỡ. Các giáo viên cần tạo một diễn đàn, có thể là một group trên Zalo, Facebook hay Twitter để hướng dẫn các em cụ thể về các bước tham gia khóa học trực tuyến, những quy định của khóa học và giải đáp mọi thắc mắc cho các em khi cần thiết. Nếu không thực hiện bước này thì ngay từ đầu 54 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion sinh viên đã mất phương hướng và giảm đáng kể hứng thú với việc học online. Giáo viên cũng nên động viên các sinh viên đã thành thạo về kĩ thuật giúp đỡ các bạn khác, điều này còn giúp tạo nên sự tương tác giữa các thành viên lớp học với nhau. 4.2. Tạo môi trường học có sự tương tác và chủ động Các giáo viên luôn cố gắng thiết kế các hoạt động phong phú để thu hút sự tham gia tích cực chủ động của các sinh viên. Thông qua các hoạt động này sinh viên có thể tương tác với giáo viên và với các thành viên khác trong lớp.Một trong những hoạt động đó là: - Sử dụng phần mềm Kahoot.com để kiểm tra và đánh giá sinh viên, đồng thời tạo sự cạnh tranh giữa các sinh viên, hấp dẫn các em tham gia như một trò chơi (Quizzes). - Cho các sinh viên xem 1 đoạn phim hay video clip ngắn có nội dung liên quan đến bài học. Sau đó đưa ra các câu hỏi yêu cầu các em trả lời hoặc chia nhóm thảo luận, sau đó viết câu trả lời lên diến đàn chung của lớp học. Tiếp đến, các nhóm sẽ có nhiệm vụ đưa ra feedback về câu trả lời của nhóm khác. Đây được gọi là Peer- Review (đánh giá chéo). Theo như nhà nghiên cứu Warren et al (2014), sự tương tác giữa các thành viên trong lớp sẽ thúc đẩy sự chia sẻ về mặt kiến thức. Một trong những hình thức phổ biến nhất của các khóa học trực tuyến chính là các forum (diễn đàn). Các giáo viên có thể tạo diễn đàn cho sinh viên của mình trên lớp học Google classroom hay padlet teaching. - Giáo viên giao bài tập về nhà theo nhóm hoặc cá nhân với thời hạn theo quy định. Ví dụ viết về kì nghỉ hè em nhớ nhất hay chủ đề nào gắn với bài học. Sau đó sử dụng phần mềm “CodeSkulptor” để sinh viên vào đó chia sẻ bài viết và lưu bài viết của mình vào sau khi giáo viên nhận xét, các sinh viên khác cũng có thể tham khảo bài viết của nhau. 4.3. Chọn nguồn tài liệu phù hợp với trình độ và nhu cầu người học Theo một nghiên cứu trên 1862 sinh viên của các trường đại học Châu Á (Zhang & Perris 2004, p. 258), các sinh viên phần lớn cảm thấy việc học online giảm hiệu quả rất nhiều do một số yếu tố về mặt kĩ thuật, tiếng Anh nền của họ và các tài liệu không thực tế. Vì vậy, giáo viên cần lựa chọn tài liệu và thiết kế bài giảng thật kĩ càng, đảm bảo sinh viên có thể ứng dụng được sau khi học. Hơn nữa, đặc thù của việc học online là khả năng tương tác sẽ kém hơn việc học trực tiếp nên các tài liệu cũng phải đảm bảo có sự tương tác với người học.Ví dụ việc cung cấp 1 video cho người học cũng cần lựa chọn video có phụ đề (subtitles) và tốc độ chậm cho những sinh viên ở trình độ cơ bản. Khi giao bài tập cho sinh viên cần có hướng dẫn cụ thể, nói rõ mục đích của bài tập, những yêu cầu cụ thể mà sinh viên cần giải quyết, cung cấp thêm những nguồn tài liệu để sinh viên tham khảo.Giáo viên có thể ghi lại bài giảng online của mình và gửi lại cho sinh viên để các em có cơ hội nghe lại những kiến thức bị lỡ do đường truyền kém hay nghỉ học. 5. Kết luận Việc học trực tuyến ngày càng trở nên phổ biến trong xu thế công nghệ hóa trên toàn thế giới. Tuy vậy, để áp dụng thành công những phương pháp dạy học trực tuyến đòi hỏi giáo viên phải cố gắng rất nhiều. Bên cạnh việc thường xuyên cập nhật công nghệ, việc nâng cao hứng thú cho người học luôn là vấn đề then chốt, là chìa khóa cho sự 55Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion thành công của những khóa học online. Bài viết dựa trên một số nghiên cứu thực tế của các nhà nghiên cứu về lĩnh vực này trên thế giới để đưa ra một số đề xuất đẩy mạnh sự hứng thú của sinh viên trong học trực tuyến. Trong đó, tác giả nhấn mạnh đến tăng cường sự tương tác giữa người dạy và người học cũng như giữa người học với nhau. Ngoài ra, sự hỗ trợ của giáo viên và tương hỗ giữa các sinh viên là không thể thiếu để các sinh viên tự tin hơn trong các hoạt động. Sự thiết kế, chuẩn bị bài giảng, tài liệu tham khảo cho sinh viên cũng là khâu vô cùng quan trọng trong việc tạo hứng thú cho người học. Nếu biết vận dụng đúng cách những yếu tố trên, các giáo viên sẽ chắc chắn thu hút được sự tập trung của sinh viên và nâng cao chất lượng giảng dạy trực tuyến. Tài liệu tham khảo: [1]. Anderson, L. W. (1975). Student involvement in learning and school achievement. California Journal of Educational Research, 26(2), 53-62 [2]. Bangert-Drowns, R. L. & Pykc, C. (2001). Student engagement with educational software: An exploration of literate thinking with electronic literature. Journal of Educational Computing Research, 24(3), 213-234. [3]. Baralt, M., Gurzynski-Weiss, L., & Kim, Y. (2016). Engagement with successful learner- generated attention to form. In M. Sato & S. Ballinger (Eds.),Peer interaction and second language learning. Pedagogical potential and research agenda (pp. 209-240). Amsterdam, The Netherlands: John Benjamins. [4]. Barnes, D. (2008). Exploratory talk for learning. In N. Mercer & S. Hodgkinson, Exploring talk in school (pp. 1-16). London, UK: Sage. [5]. Finn, J. D. (1989). Withdrawing from school. Review of Educational Research,59, 117-142. [6]. Fredricks, J., Blumenfeld, P., & Paris, A. (2004). School engagement:Potential of the concept, state of evidence. Review of Educational Research, 74(1),(pp. 59-105) [7]. Gass, S. M., & Mackey, A. (2014). Stimulated recall methodology in secondlanguage research. Mahwah, NJ: Erlbaum(pp.22-24) [8]. Gettinger, M., & Walter, M. J. (2012). Classroom strategies to enhance academic engaged time. In S. L. Christenson, A. L. Reschly, & C. Wylie (Eds.), Handbook of research on student engagement (pp. 653- 673). New York, NY: Springer. [9]. Helme, S., & Clarke, D. (2001). Identifying cognitive engagement in the mathematics classroom. Mathematics Education Research Journal, 13(2), 133-153. [10]. MinHu, HaoLi, Wenping and Hua Guan,Student Engagement-one of the necessary conditions for online learning, International Conference on Educational Innovation through Technology, Tainan, Taiwan, Sept, 2016 (pp122-126). [11]. Reschly, A. L., & Christenson, S. L. (2012). Jingle, jangle, and conceptual haziness: Evolution and future directions of the engagement construct. In S. L. Christenson, A. L. Reschly, & C. Wylie (Eds.), Handbook of research on student engagement (pp. 30- 19). New York, NY: Springer. [12]. Skinner, E. A., & Pitzer, J. R. (2012). Developmental dynamics of engagement, coping, and everyday resilience. In S. L. Christenson, A. L. Reschly, & C. Wylie (Eds.), Handbook of research on student engagement (pp. 21-44). New York, NY: Springer. Địa chỉ tác giả: Trường Đại học Điện lực Email: thangnt@epu.edu.vn
File đính kèm:
- thuc_day_su_hung_thu_cua_sinh_vien_khi_tham_gia_hoc_tieng_an.pdf