Sự hình thành và phát triển thị trường bất động sản tại Việt Nam trong tiến trình đổi mới kinh tế
Bài viết tổng kết sự hình thành và phát triển của thị trường bất động sản (BĐS) ở VN trong tiến trình đổi mới kinh tế, trình bày thực trạng của thị trường và
những vấn đề đặt ra, phân tích các nguyên nhân của các hạn chế
và khuyến nghị chính sách
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Sự hình thành và phát triển thị trường bất động sản tại Việt Nam trong tiến trình đổi mới kinh tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự hình thành và phát triển thị trường bất động sản tại Việt Nam trong tiến trình đổi mới kinh tế
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 17 (27) - Tháng 07-08/2014 Nghiên Cứu & Trao Đổi 36 1. Những vấn đề cơ bản về BĐS và thị trường BĐS BĐS là phần lớn của cải của thế giới. Đất đai mang lại cho chúng ta sự sống, cung cấp cho chúng ta lương thực thực phẩm, nơi cư ngụ. Vai trò này bắt đầu từ khi con người mới xuất hiện trên trái đất và cho đến nay vẫn không mấy thay đổi. Vì tầm quan trọng của đất đối với xã hội mà ở mọi quốc gia khoa học kinh tế luôn coi đất đai là đối tượng nghiên cứu đặc biệt và thị trường BĐS là một trong những thị trường trọng yếu của nền kinh tế. Theo tiêu chuẩn Thẩm định giá quốc tế 2005 thì “BĐS được định nghĩa là đất đai và những công trình do con người tạo nên gắn liền với đất. Đó là những vật hữu hình có thể nhìn thấy và sờ mó được, cùng với tất cả những gì nằm ở trên, phía trên hay dưới mặt đất”. Đây là một định nghĩa khá phổ biến, gần với những gì mà luật pháp của nhiều nước trên thế giới quy định về BĐS. Luật pháp hầu hết các quốc gia đều coi BĐS là đất đai và những tài sản gắn liền với đất, được xác định bởi vị trí địa lý của đất. Tuy nhiên, mỗi nước lại có những quan niệm rất khác nhau về những tài sản gắn liền với đất đai được coi là BĐS. Điều 174 Bộ Luật Dân sự nước CHXHCNVN năm 2005 quy định: “BĐS là các tài sản bao gồm: đất đai; nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; các tài sản khác gắn liền với đất đai; các tài sản khác do pháp luật quy định”. Điều luật này bỏ ngỏ danh mục “những tài sản gắn liền với đất”. Thị trường BĐS, theo Viện Thẩm định giá Mỹ, “là sự tương tác giữa các cá nhân chuyển đổi quyền sở hữu tài sản để nhận tài sản khác như là tiền”. Theo tác giả: Thị trường BĐS là tổng hòa các quan hệ giữa cung và cầu về các quyền của BĐS theo quy luật thị trường và theo quy định của luật pháp. 2. Sự hình thành và phát triển thị trường BĐS ở VN trong tiến trình đổi mới kinh tế Sự hình thành thị trường BĐS ở VN gắn liền với công cuộc đổi mới mà Đảng và Nhà nước tiến hành từ sau đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986. Có thể chia ba giai đoạn phát triển của thị trường: trước Luật Đất đai 1993, từ Luật Đất đai 1993 đến trước Luật Đất đai 2003 và từ sau Luật Đất đai 2003 đến nay. 2.1. Giai đoạn 1: Trước Luật Đất đai 1993 Giai đoạn này lại có thể chia thành trước và sau Hiến pháp năm 1980. Trước năm 1980, Hiến pháp năm 1949 và 1954 đều công nhận ba hình thức sở hữu đất đai: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Hiến pháp năm 1980 ra đời thay thế cho Hiến pháp năm 1954 đã đánh dấu một thay đổi căn bản về thể chế đối với đất đai. Điều 19 Hiến pháp năm 1980 quy định “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”, Sự hình thành và phát triển thị trường bất động sản tại Việt Nam trong tiến trình đổi mới kinh tế TS. NguyễN QuỳNh hoa Trường Đại học Kinh tế TP.HCM Bài viết tổng kết sự hình thành và phát triển của thị trường bất động sản (BĐS) ở VN trong tiến trình đổi mới kinh tế, trình bày thực trạng của thị trường và những vấn đề đặt ra, phân tích các nguyên nhân của các hạn chế và khuyến nghị chính sách. Từ khóa: Bất động sản, thị trường BĐS, tồn kho, nợ xấu, giá nhà đất. Số 17 (27) - Tháng 07-08/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Nghiên Cứu & Trao Đổi 37 Điều 20 – “Nhà nước thống nhất quản lý đất đai”. Luật Đất đai đầu tiên được ban hành năm 1987 trên cơ sở của Hiến pháp 1980 quy định tại Điều 1: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý”; Điều 5: “Nghiêm cấm việc mua, bán, lấn chiếm đất đai”. Chính vì những quy định của pháp luật mà trong giai đoạn này thị trường BĐS không có căn cứ pháp lý để được hình thành một cách chính thức. Mặc dù vậy, do nhu cầu của xã hội mà các giao dịch ngầm về đất đai vẫn diễn ra, dẫn đến hình thành thị trường không chính thức. Hiện tượng này gây ra hai hệ lụy: Người dân khi mua bán nhà đất không được pháp luật bảo hộ, Nhà nước không có bất kỳ một khoản thu nào cho ngân sách quốc gia. Công cuộc đổi mới được bắt đầu vào năm 1986 – chuyển đổi nền kinh tế từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN – đã thổi một làn gió mới vào đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, khơi thông được các nguồn lực của xã hội cho phát triển kinh tế và đạt được những thành quả đáng ghi nhận. Việc chính thức thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường đã khiến nhu cầu về các giao dịch nhà đất tăng mạnh nhưng lại thiếu cơ chế quản lý thích hợp, khung pháp lý lạc hậu như chiếc áo quá chật chội cho một thực thể đang lớn mạnh. Dù không được thừa nhận thì thị trường BĐS không chính thức vẫn phát triển và vận động theo quy luật cung cầu dẫn đến cơn sốt giá nhà đất vào năm 1991-1992. Hiến pháp năm 1992 được ban hành đánh dấu một mốc quan trọng hình thành khung pháp lý cho sự ra đời và phát triển của thị trường BĐS. Điều 18 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”, “tổ chức và cá nhân được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật”. Quy định này đã tạo cơ sở pháp lý cho sự hình thành thị trường sơ cấp về quyền sử dụng đất mà bên cung là Nhà nước và là tiền đề để phát triển thị trường thứ cấp trong đó bên cung và cầu đều không phải Nhà nước. 2.2. Giai đoạn 2: Từ Luật Đất đai năm 1993 đến trước Luật Đất đai năm 2003 Ra đời trên cơ sở của Hiến pháp năm 1992, Luật Đất đai năm 1993 một mặt khẳng định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý” (Điều 1), mặt khác cho phép “Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất” (Điều 3). Bằng việc thừa nhận đất đai có giá trị, Luật Đất đai năm 2003 đánh dấu một mốc quan trọng cho sự ra đời củ ... ăng dân số trung bình xấp xỉ 1 triệu người mỗi năm, với tốc độ đô thị hóa đang diễn ra ngày càng nhanh chóng, các thành phố lớn trên cả nước luôn luôn phải chịu sức ép rất lớn của nhu cầu về nhà ở. Trải qua ba lần sốt giá, giá nhà đất ở Hà Nội, TP.HCM đã bị đẩy lên cao ngang với giá nhà đất ở các thành phố lớn trên thế giới, nơi mà thu nhập và mức sống vượt xa ở nước ta nhiều lần. Dù rằng sau mỗi đợt sốt giá, khi thị trường rơi vào trạng thái đóng băng, giá nhà đất có giảm mạnh nhưng mặt bằng mới vẫn rất cao so với thu nhập của người dân. Tác giả thử làm một ví dụ so sánh (cho dù đối với BĐS rất khó để so sánh tương đương): - Đối với nhà ở riêng lẻ: Ở VN đây là loại nhà ở chiếm đến 96% tổng số nhà ở tại thành thị. Ở Mỹ, theo thống kê, thu nhập bình quân của người dân Mỹ khoảng 40.000 – 50.000 USD/ năm. Một căn nhà loại trung bình, ba phòng ngủ ở bang California có mức giá khoảng 180.000 đến 250.000 USD, nghĩa là gấp 4 – 5 lần thu nhập. Chưa hết, ở Mỹ hình thức mua nhà trả góp rất phổ biến vì lãi suất rất thấp, chỉ từ 3–4% và thời hạn thanh toán được kéo dài đến 20 – 30 năm. Vì vậy, một căn nhà có giá bán 200.000 USD, nếu trả góp trong vòng 30 năm thì mức thanh toán là 955 USD/tháng, bằng khoảng 24% thu nhập hàng tháng. PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 17 (27) - Tháng 07-08/2014 Nghiên Cứu & Trao Đổi 42 Ở TP.HCM, lấy một khu vực hạ tầng tương đối tốt, không quá xa trung tâm như ở quận Tân Bình, một căn nhà ở đường nội bộ hoặc hẻm xe hơi có thể lưu thông, diện tích đất từ 60 – 110 m2, xây 2–3 lầu có giá khoảng từ 3,5 đến 5,2 tỷ đồng (tương đương 170.000 đến 260.000 USD), nghĩa là gần bằng một căn nhà loại trung bình ở Mỹ. Mặt khác, theo số liệu của Tổng cục Thống kê: mức thu nhập bình quân một nhân khẩu ở thành thị năm 2012 là 3.071.000 đồng/người/tháng. Giả sử đây là một gia đình điển hình có 2 vợ chồng đi làm, nuôi hai con đang đi học, thì mức thu nhập của một người là 6.142.000 đồng hay là 73,7 triệu đồng/năm, căn nhà giá 3,5 tỷ đồng sẽ gấp 47,5 lần thu nhập. Căn nhà này nếu được mua với điều kiện trả góp trong 30 năm với lãi suất 10%/năm thì số chi trả hàng tháng sẽ là 30,7 triệu đồng, gấp 5 lần thu nhập hàng tháng của một người. Với mức chi tiêu tạm tính là 2.500.000 triệu đồng/người thì một gia đình 4 nhân khẩu sẽ có mức tiết kiệm bình quân là 2 triệu đồng /tháng hay là 24 triệu đồng một năm. Số tiền này phải được tích lũy trong 30 năm với lãi suất 10%/năm mới đủ để mua được căn nhà trên, với giả định thu nhập, chi tiêu, giá nhà không đổi trong suốt 30 năm (một giả định rất phi thực tế!). - Đối với thị trường căn hộ chung cư: Loại nhà ở này được phát triển rất mạnh trong khoảng gần 10 năm trở lại đây. So với lúc đỉnh cao năm 2007 – 2008, giá căn hộ đến nay đã giảm nhiều ở tất cả các phân khúc nhưng vẫn còn quá cao so với mặt bằng thu nhập chung. Giá căn hộ hạng B ở Hà Nội, TP.HCM tương đương giá trung bình của căn hộ ở Matxcơva – LB Nga (1500 – 1600 USD/m2), nơi vẫn được xem là giá cả đắt đỏ nhất nhì thế giới. Một căn hộ hạng C diện tích 50m2 có giá bán 825 triệu đồng, gấp 11 lần thu nhập trung bình hàng năm của một người. Để mua được căn hộ này, với mức tiết kiệm của một hộ gia đình trong ví dụ nêu trên thì cần tích lũy trong khoảng 16–17 năm. Còn nếu mua trả góp trong 20 năm với lãi suất 9%/năm thì số tiền phải trả hàng tháng là 7,5 triệu đồng, nhiều hơn thu nhập bình quân của một người trong một tháng. Một đặc điểm rất dễ nhận thấy ở thị trường BĐS VN là sự mất cân đối trong nguồn cung. Do mức lợi nhuận hấp dẫn mà nhiều năm qua các doanh nghiệp kinh doanh BĐS chỉ chú trọng vào mảng nhà ở cao cấp. Theo báo cáo của UBND TP.HCM, tính đến cuối năm 2010 toàn thành phố có 143 dự án được hoàn thành và đưa vào sử dụng với 35.169 căn hộ, trong đó căn hộ hạng sang chiếm 1,2%, cao cấp chiếm 35,8%, trung bình – 38%, căn hộ bình dân – 25%. Chính cơ cấu nguồn cung lệch hẳn về mảng nhà ở giá cao, vượt xa mặt bằng thu nhập của xã hội đã dẫn đến thừa cung, làm tình trạng tồn kho BĐS càng trầm trọng thêm. Báo cáo quý 3 năm 2013 của Cushman & Wakefiel cho thấy chỉ các dự án căn hộ hạng C có số lượng giao dịch tốt, phân khúc căn hộ cao cấp vẫn rất trầm lắng. 4. Nguyên nhân của những hạn chế Trong giới hạn của một bài viết, tác giả tập trung vào 4 nhóm nguyên nhân chính gây ra những bất ổn trên thị trường BĐS: Pháp luật, chính sách, quản lý và thông tin. Pháp luật Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về thị trường BĐS do nhiều cơ quan khác nhau xây dựng ở những thời điểm khác nhau gây nên sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các bộ luật. Ví dụ, quy định về việc chuyển nhượng dự án đầu tư được quy định tại Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Kinh doanh BĐS với những điểm không thống nhất gây khó khăn khi áp dụng. Quy định về thời điểm huy động vốn không giống nhau giữa Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh BĐS. Luật lệ thiếu tính ổn định, các quy định thay đổi liên tục, ví dụ từ năm 2004 đến 2010 trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư có đến 5 Nghị định được ban hành; lĩnh vực thu tiền sử dụng đất có 5 Nghị định và 5 Thông tư hướng dẫn. Thành phố Giá căn hộ đã bao gồm thuế VAT, triệu đồng/m2 Hạng A Hạng B Hạng C Hà Nội 50 33 17,5 TP.HCM 40 32,5 16,5 Bảng 4. Giá căn hộ ở Hà Nội và TP.HCM quý 3/2013 Nguồn: Báo cáo nghiên cứu thị trường Cushman & Wakefiel quý 3 năm 2013. Số 17 (27) - Tháng 07-08/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Nghiên Cứu & Trao Đổi 43 Hệ thống thuế BĐS không có tác dụng chống đầu cơ nhà đất. Cho đến trước năm 2009 khi mua bán nhà đất người bán chỉ phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất 4% trên giá trị tính thuế - được tính theo đơn giá nhà nước, vì vậy khoản thuế này chỉ mang tính tượng trưng. Từ năm 2009 trở lại, Luật Thuế thu nhập cá nhân có hiệu lực vẫn không làm giảm được tình trạng đầu cơ trên thị trường BĐS, bởi quy định đánh thuế 25% trên chênh lệch giá bán – mua dễ dàng bị người dân vô hiệu hóa bằng cách khai man các mức giá. Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp là một bước tiến mới khi quy định mức thuế lũy tiến theo diện tích đất, nhưng quy định tính thuế trên cơ sở giá nhà nước lại không có tác dụng chống đầu cơ đất do giá nhà nước quá thấp so với giá thị trường. Hệ thống thuế BĐS không hiệu quả đã khiến một tầng lớp làm giàu rất nhanh chóng từ đầu cơ nhà đất mà không phải chịu mức thuế tương xứng, trong khi đa số người lao động gặp rất nhiều khó khăn để tạo lập chỗ ở. Chính sách Chính sách tài chính – tiền tệ những năm qua thể hiện sự lúng túng của Chính phủ trong điều hành vĩ mô. Tăng trưởng tín dụng quá nhanh những năm 2006 – 2007 là một trong những nguyên nhân trực tiếp gây ra bong bóng BĐS. Chính sách tiền tệ thắt chặt năm 2008 và 2011 – 2012 nhằm chống lạm phát lại khiến thị trường đóng băng do tín dụng bị siết quá mức. Chính sách thu tiền sử dụng đất hiện nay theo quy định của Nghị định 69 năm 2009 và Nghị định 120 năm 2010 là một gánh nặng cho các doanh nghiệp kinh doanh BĐS, khiến họ gần như phải mua đất hai lần, làm tăng chi phí thực hiện dự án, đây cũng là một phần nguyên nhân đẩy giá nhà đất lên cao. Chính sách phát triển nhà ở xã hội là một chủ trương đáng hoan nghênh, tuy nhiên hiệu quả của nó chưa được đánh giá đầy đủ. Thực tế cho thấy giá nhà ở xã hội với rất nhiều ưu đãi về quy định giao đất, thuế, tiền sử dụng đất, ưu đãi tín dụng lại có giá bán cao hơn so với nhà ở thương mại cùng loại, vị trí tương đương. Nguyên nhân có hơi hướng của thời bao cấp. Quản lý Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Công tác quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch đô thị hóa thiếu tính dự báo lâu dài, chất lượng quy hoạch kém do thiếu quy chuẩn và cơ sở dữ liệu. Tiến độ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất rất chậm, thiếu quy hoạch chi tiết dẫn đến không đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật giữa các dự án. Việc sử dụng sai mục đích hoặc sử dụng lãng phí đất công rất phổ biến. Quá trình chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất đô thị làm một số người giàu lên nhanh chóng, đồng thời đẩy một số lớn khác vào cảnh mất kế sinh nhai. Quy trình thủ tục hành chính phê duyệt, thẩm định dự án, giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quá rườm rà, kéo dài thời gian làm tăng chi phí dự án. Việc rất nhiều cơ quan có liên quan tham gia giải quyết các thủ tục khiến nhà đầu tư phải đi lại nhiều lần. Theo các doanh nghiệp kinh doanh BĐS, thời gian từ lúc bắt đầu đến lúc khởi công dự án mất khoảng ba năm. Công tác dự báo nhu cầu các loại nhà ở và BĐS nói chung quá yếu và thiếu. Hệ quả chính là việc phát triển ồ ạt trong nhiều năm loại nhà ở cao cấp, không phù hợp với sức mua của xã hội, dẫn đến thừa cung và gây tình trạng tồn kho như hiện nay. Cơ chế hai giá đất – giá nhà nước và giá thị trường – gây ra nhiều tiêu cực khi giao đất. Giá nhà nước do UBND công bố ở TP.HCM, theo khảo sát của tác giả, chỉ bằng khoảng 25 – 30% so với giá thị trường, một mặt gây thất thu cho Nhà nước khi giao đất, cho thuê đất, mặt khác làm gia tăng các khiếu kiện về đất đai của người dân khi thu hồi đất. Thông tin Thông tin trên thị trường BĐS VN rất kém minh bạch. Theo công bố của tập đoàn Jones Lang LaSalle (JLL) năm 2012 thì chỉ số minh bạch thông tin (RETI) PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 17 (27) - Tháng 07-08/2014 Nghiên Cứu & Trao Đổi 44 của VN là 3,76 xếp thứ 68 trong số 97 quốc gia được xếp hạng, thuộc nhóm minh bạch thấp, chỉ số này được xem là đã có cải thiện so với năm 2010. Trong 5 tiêu chí được đánh giá thì hiệu suất đầu tư và hệ thống quản lý được coi là không minh bạch. Ở VN hiện nay, việc tiếp cận các thông tin về quy hoạch không hề dễ dàng gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi thực hiện dự án, làm tăng chi phí đầu tư và là nguồn gốc gây ra tiêu cực khi mà thông tin có thể được sử dụng để trục lợi cho một số người. Thiếu cơ sở dữ liệu về thị trường, giá cả, cung cầu các loại hình BĐS làm cản trở các giao dịch, gây khó khăn cho công tác dự báo. Các số liệu về hàng tồn kho, dư nợ BĐS, quy mô của các khoản vay thế chấp bằng BĐS và đặc biệt là nợ xấu được công bố hiện đang gây nghi ngờ cho cả những người làm công tác quản lý, các nhà hoạch định chính sách. Việc che giấu thông tin về tình trạng thực của thị trường có thể làm thất bại các biện pháp giải cứu. 5. Khuyến nghị chính sách Nhằm định hướng thị trường phát triển ổn định và bền vững, các đề xuất được tập trung vào bốn nội dung đã nêu: Pháp luật - Rà soát lại các bộ luật liên quan bao gồm Luật Nhà ở, Luật dân sự, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Kinh doanh BĐS để sửa đổi những quy định chồng chéo, mâu thuẫn. Đảm bảo tính ổn định của hệ thống pháp luật. - Nghiên cứu sửa đổi luật thuế nhà đất sao cho những người càng nắm giữ nhiều nhà đất, mức thuế càng cao để chống đầu cơ đất đai. Chính sách - Kiểm soát tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý, giám sát chặt chẽ các khoản vay đầu tư BĐS và các khoản vay thế chấp bằng BĐS. Để thị trường phát triển bền vững, không lặp lại các chu kỳ nóng lạnh bất thường biện pháp này phải được ưu tiên hàng đầu. - Thay thế khoản thu tiền sử dụng đất bằng một khoản thu thuế hàng năm tính trên giá trị lô đất tiệm cận giá trị thị trường. Quản lý - Nâng cao chất lượng và đảm bảo tính đồng bộ của công tác quy hoạch. - Đơn giản hóa các thủ tục đầu tư, rút ngắn quy trình thẩm định, phê duyệt dự án. - Xóa bỏ cơ chế hai giá đất, áp dụng giá đất theo giá thị trường trong tất cả các giao dịch về quyền sử dụng đất. Xây dựng bảng giá đất tiệm cận giá thị trường cho các mục tiêu quản lý nhà nước về đất đai. - Tổ chức đấu giá công khai quyền sử dụng đất để tránh các tiêu cực khi giao đất. Minh bạch thông tin - Minh bạch hóa các thông tin về quy hoạch, về chính sách đầu tư. - Xây dựng hệ thống đăng ký BĐS nhằm công khai hóa các quyền về BĐS, tạo thuận lợi cho các giao dịch liên quan đến tài sản. Hệ thống này cần thống nhất về một cơ quan duy nhất quản lý, không để phân tán như hiện nay. - Xây dựng hệ thống ngân hàng dữ liệu thông tin giá đất và BĐS phục vụ cho công tác dự báo và các mục tiêu quản lý. Cập nhật thường xuyên các biến động giá cả thị trường BĐS để có cơ sở đề ra các chính sách kịp thời. - Công khai thông tin về các khoản cho vay đầu tư BĐS và các khoản nợ xấu của toàn hệ thống, thiết lập hệ thống cảnh báo sớm nhằm giảm thiểu rủi ro. Mỗi khuyến nghị trên đây cần có các nghiên cứu chi tiết để có những đề xuất cụ thể thích hợp cho sự phát triển bền vững của thị trường. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Kế hoạch Đầu tư, Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài 11 tháng năm 2013. Bộ Tài chính, Cân đối thu - chi ngân sách nhà nước. Bộ Xây dựng, Chính phủ nước CHXHCN VN, Luật Đất đai năm 1988, 1993, 2003. Hiến pháp nước CHXHCN VN năm 1980, 1992. Hiệp hội doanh nghiệp (2012), Báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh. tail&p=2.39&aID=1535 B%A9cv%C3%A0s%E1%BB%B1k i%E1%BB%87n/tabid/89/catid/826/ item/11572/bao-cao-tinh-hinh-san-xuat- kinh-doanh-cua-hiep-hoi-doanh-nghiep- 2012.aspx vim/vipages_trangchu/tkttnh/hdhttctd/ tlnx?_adf.ctrl-state=x3pcfotvt_4&_ afrLoop=1640115714128500 Ngân hàng Nhà nước VN, Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng. Những tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế năm 2005, NXB Tài chính, 2006, tr.23. Sở Xây dựng (2013), Báo cáo về tình hình giải quyết hàng tồn kho BĐS trên địa bàn TP.HCM đến tháng 5/2013. The Appraisal of Real Estate, Twelfth Edition. Appraisal Institute, p.91. Tổng cục Thống kê, ItemPreview.aspx?ItemID=14133 UBND TP.HCM (2013), Báo cáo tổng kết thi hành Luật Kinh doanh BĐS.
File đính kèm:
- su_hinh_thanh_va_phat_trien_thi_truong_bat_dong_san_tai_viet.pdf