So sánh hành vi cầu khiến tiếng Nga với tiếng Việt trong giáo trình dạy nói cho sinh viên chuyên ngữ giai đoạn đầu
Bài báo này đề cập đến việc so sánh đối chiếu hành vi cầu khiến tiếng Nga với
tiếng Việt về mặt cấu trúc – ngữ nghĩa nhằm tìm ra những nét tương đồng và dị biệt giữa
hai ngôn ngữ khác nhau về loại hình. Qua việc thu thập ngữ liệu chủ yếu trong giáo trình
trong giáo trình dạy Nói cho sinh viên tiếng Nga chuyên ngữ giai đoạn đầu và các tác phẩm
văn học trong tiếng Việt, bài báo góp phần làm rõ thêm về khái niệm hành vi cầu khiến,
phân loại các hành vi cầu khiến và miêu tả các phương thức thể hiện hành vi cầu khiến
trong tiếng Nga và tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu có thể đóng góp hiệu quả hơn cho việc
giảng dạy các kỹ năng nói, viết cho sinh viên chuyên ngữ tiếng Nga giai đoạn đầu.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: So sánh hành vi cầu khiến tiếng Nga với tiếng Việt trong giáo trình dạy nói cho sinh viên chuyên ngữ giai đoạn đầu
Journal of Inquiry into Languages and Cultures ISSN 2525-2674 Vol 4, No 3, 2020 342 SO SÁNH HÀNH VI CẦU KHIẾN TIẾNG NGA VỚI TIẾNG VIỆT TRONG GIÁO TRÌNH DẠY NÓI CHO SINH VIÊN CHUYÊN NGỮ GIAI ĐOẠN ĐẦU Nguyễn Thị Hiền, Trần Thị Bích Thủy Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế Nhận bài: 27/01/2020; Hoàn thành phản biện: 15/09/2020; Duyệt đăng: 28/12/2020 Tóm tắt: Bài báo này đề cập đến việc so sánh đối chiếu hành vi cầu khiến tiếng Nga với tiếng Việt về mặt cấu trúc – ngữ nghĩa nhằm tìm ra những nét tương đồng và dị biệt giữa hai ngôn ngữ khác nhau về loại hình. Qua việc thu thập ngữ liệu chủ yếu trong giáo trình trong giáo trình dạy Nói cho sinh viên tiếng Nga chuyên ngữ giai đoạn đầu và các tác phẩm văn học trong tiếng Việt, bài báo góp phần làm rõ thêm về khái niệm hành vi cầu khiến, phân loại các hành vi cầu khiến và miêu tả các phương thức thể hiện hành vi cầu khiến trong tiếng Nga và tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu có thể đóng góp hiệu quả hơn cho việc giảng dạy các kỹ năng nói, viết cho sinh viên chuyên ngữ tiếng Nga giai đoạn đầu. Từ khóa: So sánh, hành vi cầu khiến, tiếng Nga, tiếng Việt 1. Mở đầu Trong xu thế hội nhập toàn cầu, mỗi ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp trong cộng đồng của một quốc gia mà còn là công cụ quan trọng, là cầu nối trực tiếp thúc đẩy quá trình hội nhập và phát triển của quốc gia đó ra thế giới. Vì vậy, học tập, nghiên cứu một ngôn ngữ mới là tìm cho mình một con đường đến gần hơn với thế giới bên ngoài. Ở Việt Nam, xu hướng nghiên cứu ngoại ngữ ngày càng tăng không chỉ đối với tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Nhật, mà cả tiếng Nga. Đối chiếu ngôn ngữ là một trong những xu hướng mới và phát triển trong nghiên cứu ngôn ngữ. Sự khác nhau về loại hình của hai ngôn ngữ tiếng Nga và tiếng Việt đã tạo ra giao thoa tiêu cực cho sinh viên chuyên ngữ nhiều khó khăn trong việc sử dụng hành vi cầu khiến tiếng Nga. Hành vi cầu khiến là một trong những hành vi ngôn ngữ được người nói thực hiện để yêu cầu điều khiển người nghe hành động theo chủ ý của mình. Đây là một vấn đề thuộc về dụng pháp nên nó thể hiện đặc trưng văn hoá của từng ngôn ngữ, có mối liên hệ mật thiết với tính lịch sự trong giao tiếp. Tùy theo hoàn cảnh phát ngôn, đối tượng tiếp nhận mà người nói thực hiện những phương thức khác nhau. Với câu hỏi “Những sự tương đồng và dị biệt nào của hành vi cầu khiến tiếng Nga và tiếng Việt tạo nên những thuận lợi và khó khăn, nhầm lẫn cho sinh viên chuyên ngữ ở giai đoạn đầu?” chúng tôi đi sâu nghiên cứu nhằm tìm ra những nét tương đồng và dị biệt về mặt ngữ pháp và ngữ dụng của hành vi cầu khiến tiếng Nga và tiếng Việt. Với đối tượng nghiên cứu là hành vi cầu khiến tiếng Nga và tiếng Việt, đề tài chủ yếu khảo sát các văn bản trong các giáo trình dạy nói bằng tiếng Nga, đặc biệt là các văn bản hội thoại trong giao tiếp cho sinh viên chuyên ngữ giai đoạn đầu nhằm nâng cao hiệu quả dạy nói cho sinh viên ở giai đoạn này. Tạp chí Khoa học Ngôn ngữ và Văn hóa ISSN 2525-2674 Tập 4, Số 3, 2020 343 2. Cơ sở lý luận Hành vi ngôn từ nói chung và hành vi cầu khiến nói riêng là những vấn đề thuộc về ngữ dụng học, một phân ngành của ngôn ngữ học phát triển khá mạnh mẽ từ những năm 70 của thế kỷ XX trở lại đây. Tại Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu các tác giả đề cập đến câu cầu khiến nói chung như: Chu Thị Thuỷ An (2000) - “Câu cầu khiến tiếng Việt”; Lê Quang Thiêm (2008) - “Ngữ nghĩa học”; Hoàng Trọng Phiến (2003) - “Cách dùng hư từ tiếng Việt”; Nguyễn Đức Dân (2000) - “Ngữ dụng học”. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu tiếng Việt, vấn đề về hành vi cầu khiến cho đến nay vẫn chưa đi đến thống nhất giữa các nhà nghiên cứu. Nhóm các nhà ngôn ngữ học theo quan điểm của ngữ pháp truyền thốngphân loại câu dựa vào hai tiêu chí theo cấu trúc cú pháp và theo mục đích phát ngôn. Phân loại câu theo mục đích phát ngôn gồm có: câu trần thuật, câu cầu khiến, câu cảm thán, câu nghi vấn. Các tác giả giải thích khái niệm các kiểu câu bằng cách nêu công dụng của nó, sau đó nêu những phương tiện ngôn ngữ cấu tạo các kiểu câu. Nguyễn Kim Thản (1977) trong Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt nhận diện động từ mang ý nghĩa ngữ pháp mệnh lệnh biểu thị ý chí, tức lời yêu cầu đề nghị hay mệnh lệnh của người nói/viết đối với người nghe/đọc đòi hỏi người này phải thực hiện quá trình do động từ biểu thị. Quan niệm trên của tác giả đã thể hiện rõ cách phân loại và khái niệm về câu của ngữ pháp truyền thống câu cầu khiến là câu dùng để ra lệnh, yêu cầu, đề nghị. Hoàng Trọng Phiến (1980) phân chia thành: câu cầu khiến, câu hỏi và câu than gọi. Vấn đề về hình thức câu cầu khiến được tác giả cho rằng câu cầu khiến không có những dấu hiệu ngữ pháp đặc biệt gì ngoài một số phương tiện hư từ và ngữ điệu. Câu cầu khiến nói nên ý muốn của chủ thể phát ngôn và yêu cầu người nghe đáp lại bằng hành động. Tác giả Diệp Quang Ban (2002) trong Ngữ pháp tiếng Việt, tập 2, câu phân loại theo mục đích nói đã phân thành câu tường thuật, câu nghi vấn, câu mệnh lệnh, câu cảm thán. Quan điểm của tác giả về câu mệnh lệnh (còn gọi là câu cầu khiến) là dùng để bày tỏ ý muốn nhờ hay bắt buộc người nghe thực hiện điều được nêu lên trong câu và có những dấu hiệu hình thức nhất định. Nhóm các nhà ngôn ngữ học theo quan điểm ngữ dụng học không phân loại câu theo mục đích phát ngôn như ngữ pháp truyền thống mà chỉ khảo sát những hành động tại lời (hành động ngôn trung) trong cách phát ngôn. Một số tác giả chẳng hạn như Cao Xuân Hạo (1991) tiến hành phân loại câu theo hành động ngôn trung và nhấn mạnh quan điểm căn cứ vào hình thức của câu để phân loại câu còn mục đích của phát ngôn được xem xét sau khi các kiểu câu đã được xác định. Theo Cao Xuân Hạo (1991) trong cuốn Sơ thảo ngữ pháp chức năng (trang 28): “Khi nói ra một câu ta thực hiện một hành động nhận định, nghĩa là xác lập một mệnh đề, nhưng đồng thời cũng thực hiện một mục tiêu giao tế nào đấy. Đó là một hành ... ến người đối thoại mà đến người vắng mặt (ngôi thứ ba). Ví du: - Пусть он говорит! (Cứ mặc cho anh ta nói!) (Vũ Đình Vị, Ngữ pháp Tiếng Nga, tr. 176) - Пусть дети играют! (Cứ để cho tụi trẻ chơi!) (Vũ Đình Vị, Ngữ pháp Tiếng Nga, tr. 176) Dạng động từ thời quá khứ (thường gặp ở một số ít động từ như начать, кончить, пойти, побежать, поехать và kèm theo ngữ điệu cầu khiến rõ rệt). Ví dụ: - Ну, поехали! (Nào, đi thôi!) (Phoromanopxcaia N.I., Cách dùng nghi thức lời nói Tiếng Nga, tr. 71) - Кончили разговор! (Kết thúc cuộc nói chuyện đi!) (Phoromanopxcaia N.I., Cách dùng nghi thức lời nói Tiếng Nga, tr. 71) Journal of Inquiry into Languages and Cultures ISSN 2525-2674 Vol 4, No 3, 2020 350 Dạng động từ nguyên mẫu (thể hiện mệnh lệnh nghiêm khắc và kèm theo ngữ điệu cầu khiến rõ rệt). Ví dụ: - Нельзяопаздывать на урок! (Không được đi học muộn!) (Антонова В.Е., Дорога в Россию 1, tr. 270) 4.2. Về mặt ngữ dụng Đối với hành động cầu khiến, muốn ý nghĩa được nói ra trực tiếp, cần phải dựa vào các yếu tố ngôn ngữ như âm, từ, kết cấu câu, Hành vi cầu khiến có thể được chia làm hai dạng: cầu khiến cạnh tranh và cầu khiến hòa đồng. - Cầu khiến cạnh tranh là loại hành động cầu khiến với lợi ích của việc được thực hiện thường thuộc về người nói hoặc trung hoà hoặc không thuộc về người nghe. Đó là những hành động như: ra lệnh, yêu cầu, nhờ vả, xin phép Xét về vị thế giao tiếp, cầu khiến cạnh tranh có thể được phân làm hai loại sau: Người nói có vị thế giao tiếp cao hơn người nghe (hành động ra lệnh); Người nói có vị thế giao tiếp thấp hơn hoặc ngang bằng với người nghe (hành động thỉnh cầu, nhờ vả, xin phép) - Cầu khiến hoà đồng là loại hành động cầu khiến với lợi ích của việc được thực hiện thuộc về người nghe hoặc trung hòa hoặc không thuộcvề người nói như khuyên răn, mời mọc. Hành động ra lệnh: là đưa ra mệnh lệnh, mang tính bắt buộc và nghe thực hiện hành động được nêu lên trong câu. Ví dụ: - Thôi đi! Tôi thì tôi cho là người ta đã muốn hối hôn rồi. (Vũ Trọng Phụng, Hạnh phúc một tang gia) - Cầm lấy mà cút đi, đi cho rảnh. (Nam Cao, Chí Phèo) - A Phủ đâu? A Phủ đánh chết nó đi. (Tô Hoài, Vợ chồng A Phủ) - Убери свою комнату! (Dọn phòng của con đi!) (Антонова В.Е., Дорога в Россию 2, tr. 144) - Не кури в комнате! (Không được hút thuốc trong phòng!) (Антонова В.Е., Дорога в Россию 2, tr. 144) - Досточно! Хватит! (Đủ rồi! Dừng lại đi!) (Антонова В.Е., Дорога в Россию 2, tr.140) Hành động ra lệnh có những đặc điểm sau: - Được dùng trong trường hợp lợi ích của việc được thực hiện chủ yếu quan hệ đến người nói hoặc chủ yếu không thuộc về người nghe. - Vị thế giao tiếp và quyền uy của người nói mạnh hơn người nghe. - Tính bắt buộc ở mức độ cao. Tạp chí Khoa học Ngôn ngữ và Văn hóa ISSN 2525-2674 Tập 4, Số 3, 2020 351 - Trong tiếng Việt có sự tham gia của các tiểu từ tình thái thường làm giảm sắc thái mệnh lệnh (ngoại trừ tiểu từ tình thái đi). Xuất hiện trong các kiểu câu nhưng chủ yếu ở kiểu vắng mặt chủ ngữ ở ngôi thứ hai. - Xuất hiện hầu hết trong các loại phong cách nhưng chủ yếu trongphong cách sinh hoạt hằng ngày. - Thường mang tính chủ quan, phi nghi thức. - Hành động ra lệnh thường có những tác động tiêu cực (gây thiệt) cho phía người nghe. Hành động yêu cầu/đề nghị: là đưa ra lời yêu cầu người nghe thực hiện hành động nêu lên trong câu (vượt qua khả năng của người nói), thể hiện ước mơ, nguyện vọng của người nói hành động được thực hiện. Ví dụ: - Thôi khuya rồi đấy, ngủ đi. (Kim Lân, Vợ nhặt) - Пиши! Я жду твои письма. (Hãy viết cho tớ! Tớ đợi thư của cậu.) (Антонова В.Е., Дорога в Россию 1, tr. 252) - Возьмите с собой студенческие билеты и не опаздывайте на экскурсию.(Hãy mang theo thẻ sinh viên và đừng đến muộn buổi tham quan.) (Антонова В.Е., Дорога в Россию 2, tr. 168) Hành động xin phép: là hành động xin được sự thoả thuận, cho phép đồng ý của ai, cơ quan, tổ chức nào đó, cho người nói/viết thực hiện một hành động gì đó. Ví dụ: - Vậy trong khi chưa kịp sửa đổi thì cho phép chúng tôi được tự sửa đổi. (Lưu Quang Vũ, Tôi và chúng ta) - Если можешь, расскажи мне, какой был вечер, кто был? (Nếu có thể, hãy kể cho tớ nghe bữa tiệc đã diễn ra như thế nào, ai đã ở đó?) (Антонова В.Е., Дорога в Россию 1, tr. 304) Hành động nhờ vả: hành động nhờ vả được đưa ra để nhờ vào sự giúp đỡ của người khác, làm phiền người khác. Ví dụ: - An! An! Con giúp mợ việc này rồi mợ cho xu nhé. (Nguyên Hồng, Mợ Du) - Папа, пожалуйста, помоги мне решить задачу. (Bố, làm ơn giúp con giải bài tập với ạ.) (Антонова В.Е., Дорога в Россию 1, tr. 274) - Передайте привет моему русскому преподавателю! (Nhờ chuyển lời chào đến giáo viên tiếng Nga của tôi nhé!) (Антонова В.Е., Дорога в Россию 2, tr. 118) Đặc điểm chung của hành động thỉnh cầu, xin phép, nhờ vả là: - Dùng trong trường hợp lợi ích của việc được thực hiện chủ yếu quan hệ đến người nói có khi thuộc cả người nghe. - Vị thế giao tiếp và quyền uy của người nói thấp hơn hoặc ngang bằng người nghe. Journal of Inquiry into Languages and Cultures ISSN 2525-2674 Vol 4, No 3, 2020 352 - Không mang tính bắt buộc hoặc mang tính bắt buộc ở mức độ thấp. - Trong mối quan hệ với chủ ngữ ngữ pháp ở tiếng Việt, nó xuất hiện trong hầu hết các kiểu câu nhưng ít ở kiểu vắng mặt chủ ngữ ở ngôi thứ hai. - Xuất hiện hầu hết trong các loại phong cách nhưng chủ yếu trong phong cách chính luận, văn chương nghệ thuật, sinh hoạt hàng ngày. - Thường mang tác động tiêu cực (gây thiệt) cho phía người nghe. Hành động khuyên răn (khuyên nhủ và răn đe): Hành động khuyên răn là hành động đưa ra lời khuyên về mức độ lợi/thiệt của hành động được nêu lên trong câu, có ý nghĩa dụng pháp ngăn cản hành động xảy ra vì nó có tác động tiêu cực (gây thiệt) cho người nghe. Ví dụ: - Con rửa mặt đi, rồi đi nghỉ không mệt. (Thạch Lam, Dưới bóng hoàng lan) - Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội Xúm vai vào xốc vác cựu giang san. Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan (Phan Bội Châu, Bài ca chúc Tết thanh niên) - Не смотри долго телевизор! (Không được xem tivi quá lâu!) (Антонова В.Е., Дорога в Россию 2, tr. 144) - Не скучайте! (Đừng buồn nhé!) (Антонова В.Е., Дорога в Россию 2, tr. 143) Hành động mời mọc: hành động mời mọc là hành động được nêu lên để tỏ ý mong muốn, yêu cầu người khác thực hiện một hành động gì đó. Ví dụ: - Tràng vỗ tay xuống cười đon đả. Ngồi đây Ngồi xuống đây tự nhiên (Kim Lân, Vợ nhặt) - Давай поедем туда завтра вместе! (Ngày mai chúng ta hãy cùng nhau đến đó nhé!) (Антонова В.Е., Дорога в Россию 1, tr. 255) - Антон, давай пойдём сегодня на концерт. (Anton, hôm nay chúng ta đi xem hòa nhạc nhé!) (Антонова В.Е., Дорога в Россию 1, tr. 280) Đặc điểm chung của hành động khuyên răn và hành động mời mọc là: - Dùng trong trường hợp lợi ích của việc được thực hiện chủ yếu quan hệ đến người nghe hoặc không quan hệ đến người nói. - Lợi ích của hành động được thực hiện chủ yếu thuộc về người nghe. - Vị thế giao tiếp của người nói thường cao hơn hoặc ngang bằng với người nghe (hành động khuyên nhủ), thấp hơn hoặc ngang bằng người nghe (hành động mời mọc) - Không mang tính bắt buộc hoặc mang tính bắt buộc ở mức độ thấp. Tạp chí Khoa học Ngôn ngữ và Văn hóa ISSN 2525-2674 Tập 4, Số 3, 2020 353 - Trong mối quan hệ với chủ ngữ ngữ pháp ở tiếng Việt, nó xuất hiện trong các kiểu câu và thường có sự hiện diện của chủ ngữ ngữ pháp. - Xuất hiện trong hầu hết các phong cách nhưng chủ yếu trong phong cách chính luận, văn chương nghệ thuật và sinh hoạt hàng ngày. - Thường mang tác động tiêu cực (gây thiệt) cho phía người nói (hành động mời mọc). Ngoài ra, để tăng thêm tính lịch sự của hành vi cầu khiến, câu cầu khiến trong tiếng Việt thường đi kèm thêm tiểu từ tình thái như lạy, xin, làm ơn, còn trong tiếng Nga thường thêm từ пожалуй (ста) để tăng thêm lực thỉnh cầu, nhờ vả, xin phép. Ví dụ: - Con lạy cụ! Cụ làm ơn bảo cô ấy ra cho con hỏi một tí. (Nam Cao) - Xin ông bà cho phép chúng con khám lẫn nhau. (Nguyễn Công Hoan, Mất cái ví) - Дайте, пожалуйста. (Làm ơn hãy đưa cho tôi.) (Антонова В.Е., Дорога в Россию 1, tr. 112) Qua so sánh đối chiếu hành vi cầu khiến tiếng Nga với tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy hành vi này có sự giống và khác nhau trong hai ngôn ngữ. Giống nhau về ý nghĩa từ vựng được sử dụng trong hành động lời nói như mời mọc, yêu cầu đề nghị. Khác nhau về cấu trúc hành vi cầu khiến tiếng Nga chủ yếu sử dụng dạng thức mệnh lệnh của động từ còn hành vi cầu khiến tiếng Việt phải thêm các phụ từ đứng trước như hãy, chớ, đừng và các tiểu từ đứng sau như nhé, nào, đấy Và khác nhau trong việc biến đổi hình thái từ trong hành vi cầu khiến tiếng Nga bởi tiếng Nga thuộc loại hình ngôn ngữ khuất chiết (ý nghĩa ngữ pháp được biểu hiện trong bản thân của từ). 5. Kết luận Bất kỳ một hành động ngôn ngữ nào cũng được thể hiện bằng ít nhất một hình thức ngôn ngữ nào đó, hành vi cầu khiến cũng vậy. Hành vi cầu khiến là một khái niệm rộng, thể hiện nhiều nét nghĩa khác nhau, đó có thể là ra lệnh, thỉnh cầu hay yêu cầu/đề nghị để không chỉ thể hiện nội dung mà còn biểu đạt những sắc thái ý nghĩa khác nhau của người nói trong giao tiếp. Chính vì vậy mà hành vi cầu khiến được người Việt cũng như người Nga sử dụng cũng mang giá trị tại lời khác nhau. Phương thức thể hiện hành động cầu khiến trong mỗi ngôn ngữ nói chung, trong tiếng Việt và tiếng Nga nói riêng đều đa dạng, phong phú thể hiện những nét đặc trưng văn hoá của từng quốc gia và từng dân tộc. Trong tiếng Việt cũng như tiếng Nga, cùng có ý nghĩa cầu khiến nhưng có nhiều từ cũng như nhiều cấu trúc ngữ pháp mang sắc thái ý nghĩa ít nhiều khác nhau như yêu cầu/đề nghị, ra lệnh, thỉnh cầu, khẩn cầu, xin, cho phép, khuyên răn, mời mọc, rủ rê nên bài báo cũng đã đi vào xác định những hành vi cầu khiến chủ yếu trong hai ngôn ngữ. Đó là những hành vi cầu khiến cạnh tranh (ra lệnh, thỉnh cầu, nhờ vả, xin phép...) và những hành vi cầu khiến hoà đồng (khuyên răn, mời mọc, rủ rê). Việc nghiên cứu so sánh hành vi cầu khiến trong tiếng Nga và tiếng Việt có ý nghĩa đặc biệt đối với ngữ dụng học và lý thuyết giao tiếp. Về mặt lý luận, chúng tôi hy vọng góp phần làm rõ thêm về khái niệm hành động cầu khiến, phân loại các hành động cầu khiến, miêu tả một số tình thái cầu khiến lịch sự, những vấn đề mà xưa nay đã đề cập đến nhưng chưa được quan Journal of Inquiry into Languages and Cultures ISSN 2525-2674 Vol 4, No 3, 2020 354 tâm đúng mức và chưa được lý giải đầy đủ. Về mặt thực tiễn, việc miêu tả, so sánh các phương thức thể hiện hành động cầu khiến trong tiếng Việt và tiếng Nga có thể đóng góp thêm cho việc miêu tả, phân tích và lý giải cụ thể, thiết thực cho vấn đề dạy và học tiếng Nga. Nghiên cứu này cũng hy vọng góp phần làm rõ thêm các về khái niệm hành vi cầu khiến, phân loại các hành vi cầu khiến trong tiếng Nga và tiếng Việt. Dựa trên những thống kê và phân loại những hành vi cầu khiến tiếng Nga và tiếng Việt trong giáo trình dạy Nói cho sinh viên chuyên ngữ giai đoạn đầu, chúng tôi đã tiến hành miêu tả, phân tích và tổng hợp lại nhằm đưa ra những kết luận cần thiết phục vụ cho nghiên cứu. Phương pháp so sánh đối chiếu để tìm ra những nét tương đồng và dị biệt của hành vi cầu khiến trong tiếng Nga và tiếng Việt, từ đó giúp cho sinh viên khắc phục được khó khăn trong việc lựa chọn cách sử dụng đúng mẫu câu về hành vi này, nắm chắc về lý thuyết cũng như hiểu rõ sự khác biệt và những đặc điểm của hành vi cầu khiến ở hai ngôn ngữ, giúp cho việc sử dụng một cách chính xác và linh hoạt hai ngôn ngữ này trong học tập, nghiên cứu cũng như trong giao tiếp hàng ngày. Tài liệu tham khảo Cao Xuân Hạo (1991). Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng (Quyển I). Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội. Chu Thị Thuỷ An (2000). Câu cầu khiến tiếng Việt. Luận văn Tiến sĩ. Viện Ngôn ngữ học. Hà Nội. Đào Thanh Lan (2000). Những nghiên cứu bước đầu về câu cầu khiến tiếng Việt dưới góc độ ngữ pháp chức năng. Hà Nội: Ngữ học trẻ. Diệp Quang Ban (2000). Ngữ pháp tiếng Việt (Tập 2). Hà Nội: Nxb Giáo dục. Hoàng Trọng Phiến (1980). Ngữ pháp tiếng Việt. Hà Nội: Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp. Hoàng Trọng Phiến (2003). Cách dùng hư từ tiếng Việt. Nghệ An: Nxb Nghệ An. Nguyễn Kim Thản (1977). Động từ trong tiếng Việt. Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội. Nguyễn Thiện Giáp (2000). Dụng học Việt ngữ. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia. Phoromanopxcaia, N.I. (1987). Cách dùng nghi thức lời nói Tiếng Nga. Hà Nội: Nxb Giáo dục. Punkina, I.M. (2010). Ngữ pháp Tiếng Nga. Hà Nội: Nxb Hồng Đức. Vũ Thị Thanh Hương (1999). Giao tiếp và lịch sự trong lời cầu khiến tiếng Việt. Tạp chí Ngôn ngữ, 1, 34-43. Антонова, В.Е., & Нахабина, М.М. (2004). Дорога в Россию 2 (Базовый уровень). Санкт-Петербург: Златоуст. Антонова, В.Е., & Нахабина, М.М. (2011). Дорога в Россию 1. Санкт-Петербург: Златоуст. Главзунова, О.И. (2000). Давайте говорить по-русски. Москва: Русский язык. Лобкова, Г.Н. (1999). Начинаем разговор. Москва: Русский язык. COMPARISON OF DIRECTIVE SPEECH ACTS IN RUSSIAN AND VIETNAMESE BASED ON RUSSIAN SPEAKING TEXTBOOKS FOR RUSSIAN-MAJOR STUDENTS IN THE EARLY STAGE OF THEIR STUDY Abstract: The article concerns the contrastive comparison of the directive speech acts in the Russian and Vietnamese languages in order to find out the similarities and differences in terms of structure and semantics between the two languages. Using materials from the Russian Speaking textbooks and from Vietnamese literature, the article tries to clarify the concept, categorize and describe expressions of directive speech acts in Russian and Vietnamese. The results of the study will optimize the teaching of speaking and writing skills of the students majoring in Russian during the early stage of their language learning. Keywords: Comparison, imperative behavior, Russian, Vietnamese
File đính kèm:
- so_sanh_hanh_vi_cau_khien_tieng_nga_voi_tieng_viet_trong_gia.pdf