SKKN Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7

Trong chương trình Ngữ văn THCS thơ trữ tình Trung đại chiếm một vị trí

khá quan trọng trong chương trình Ngữ văn 7 kì I, bao gồm bộ phận thơ trữ tình

trung đại Việt Nam và khá nhiều bài thơ trữ tình đời Đường của Trung Quốc.

Xét về mặt nội dung và nghệ thuật, các bài thơ trữ tình trung đại này có

nhiều điểm tương đồng. Các tác phẩm đều phản ánh một cách toàn diện xã hội

đương thời, thể hiện quan niệm nhận thức, tâm tư, tình cảm của con người một

cách sâu sắc. Nội dung phong phú được thể hiện bằng hình thức thơ hoàn mỹ. Đặc

biệt là các bài thơ Đường, đó là sự kế thừa và phát triển cao độ của thơ ca cổ điển

Trung Quốc mà những phương diện của thi pháp thơ cổ điển của Trung Quốc vốn

rất tiêu biểu. Các tác phẩm thi ca Việt Nam thời kì này cũng chịu ảnh hưởng mạnh

mẽ bởi nghệ thuật của thơ Đường, thi pháp thơ rất đa dạng, phong phú, phức tạp và

sâu sắc: ngôn ngữ rất hàm súc, nói ít gợi nhiều, ý tại ngôn ngoại, vừa có tính ước

lệ, cổ kính, trang nghiêm, vừa có tính chặt chẽ niêm luật của thể loại. Hiểu được

các bài thơ này một cách thấu đáo đã là khó, việc giảng dạy như thế nào để học

sinh cảm thụ được còn khó khăn hơn rất nhiều. Thiết nghĩ, đó là vấn đề mà rất

nhiều giáo viên đứng lớp rất trăn trở.

SKKN Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7 trang 1

Trang 1

SKKN Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7 trang 2

Trang 2

SKKN Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7 trang 3

Trang 3

SKKN Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7 trang 4

Trang 4

SKKN Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7 trang 5

Trang 5

SKKN Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7 trang 6

Trang 6

SKKN Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7 trang 7

Trang 7

SKKN Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7 trang 8

Trang 8

SKKN Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7 trang 9

Trang 9

SKKN Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7 trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 20 trang minhkhanh 03/01/2022 7660
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7

SKKN Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7
Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” 
 Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 1 
 PH̉ÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HUYỆN CƯMGAR 
 TRƯỜNG THCS LƯƠNG THẾ VINH 
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
 ĐỀ TÀI 
 MỘT SỐ KINH NGHIỆM 
 DẠY HỌC THƠ TRỮ TÌNH TRUNG ĐẠI NGỮ VĂN 7 
Người thực hiện : Nguyễn Ngọc Khải 
 Năm học : 2017 - 2018 
Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” 
 Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 2 
BỐ CỤC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
I. Phần mở đầu: 
 1. Lý do chọn đề tài: 
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: 
3. Đối tượng nghiên cứu: 
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: 
5. Phương pháp nghiên cứu: 
II. Phần nội dung: 
1. Cơ sở lý luận: 
2. Thực trạng: 
a. Thuận lợi, khó khăn: 
b. Thành công, hạn chế: 
c. Mặt mạnh và mặt yếu: 
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động: 
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng: 
3. Nội dung của giải pháp, biện pháp: 
a. Mục tiêu của giải pháp: 
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp: 
c.Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp: 
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp: 
e. Kết quả thu được qua khảo nghiệm của vấn đề nghiên cứu: 
III. Phần kết luận, kiến nghị: 
1. Kết luận: 
 2. Kiến nghị: 
Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” 
 Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 3 
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
 ĐỀ TÀI: 
 MỘT SỐ KINH NGHIỆM 
 DẠY HỌC THƠ TRỮ TÌNH TRUNG ĐẠI NGỮ VĂN 7 
 I. PHẦN MỞ ĐẦU: 
I.1. Lí do chọn đề tài. 
Trong chương trình Ngữ văn THCS thơ trữ tình Trung đại chiếm một vị trí 
khá quan trọng trong chương trình Ngữ văn 7 kì I, bao gồm bộ phận thơ trữ tình 
trung đại Việt Nam và khá nhiều bài thơ trữ tình đời Đường của Trung Quốc. 
Xét về mặt nội dung và nghệ thuật, các bài thơ trữ tình trung đại này có 
nhiều điểm tương đồng. Các tác phẩm đều phản ánh một cách toàn diện xã hội 
đương thời, thể hiện quan niệm nhận thức, tâm tư, tình cảm của con người một 
cách sâu sắc. Nội dung phong phú được thể hiện bằng hình thức thơ hoàn mỹ. Đặc 
biệt là các bài thơ Đường, đó là sự kế thừa và phát triển cao độ của thơ ca cổ điển 
Trung Quốc mà những phương diện của thi pháp thơ cổ điển của Trung Quốc vốn 
rất tiêu biểu. Các tác phẩm thi ca Việt Nam thời kì này cũng chịu ảnh hưởng mạnh 
mẽ bởi nghệ thuật của thơ Đường, thi pháp thơ rất đa dạng, phong phú, phức tạp và 
sâu sắc: ngôn ngữ rất hàm súc, nói ít gợi nhiều, ý tại ngôn ngoại, vừa có tính ước 
lệ, cổ kính, trang nghiêm, vừa có tính chặt chẽ niêm luật của thể loại. Hiểu được 
các bài thơ này một cách thấu đáo đã là khó, việc giảng dạy như thế nào để học 
sinh cảm thụ được còn khó khăn hơn rất nhiều. Thiết nghĩ, đó là vấn đề mà rất 
nhiều giáo viên đứng lớp rất trăn trở. 
Trước tình hình ấy, để khắc phục những khó khăn đó và đáp ứng yêu cầu 
giảng dạy, giáo viên phải tìm hiểu kĩ chương trình, bổ sung thêm kiến thức từ các 
sách nghiên cứu, đi sâu tìm hiểu, lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp ,vừa 
sức với học sinh, giúp các em vượt qua những khó khăn trên để cảm nhận được cái 
hay, cái đẹp của tác phẩm thơ này. Tiếp nhận thơ trữ tình trung đại đối với lứa tuổi 
học sinh trung học cơ sở, đặc biệt học sinh lớp 7 quả là điều không hề đơn giản. 
Chính vì vậy người giáo viên phải là chiếc cầu nối giúp các em cảm nhận được thơ 
ca trung đại, đặc biệt thơ Đường - một thành tựu của thơ ca nhân loại. 
Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” 
 Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 4 
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: 
a. Mục tiêu: 
 Chương trình Ngữ văn 7 kì I có một số lượng tương đối lớn các văn bản 
thuộc thể loại thơ trữ tình trung đại. Đó là các văn bản nghệ thuật được các nhà thơ 
Trung Hoa và Việt Nam sáng tác trong thời kì phong kiến. Các tác giả của các bài 
thơ trữ tình trung đại phần nhiều là những thi nhân nổi tiếng, tâm hồn nặng những 
nỗi đời. Làm thơ với họ là mượn cảnh, mượn việc để kí thác tâm sự, bày tỏ nỗi 
lòng nhân thế... 
Đối tượng để cảm và hiểu cái hay cái đẹp của các tác phẩm này lại là các 
học sinh lớp 7, có thể trong số đó, có một số em mê văn song để nắm được cái thần 
của bài thơ, hiểu được ý nghĩa sâu xa của bài thơ quả là rất khó. 
 Nhiều học sinh tỏ ra ngại học phần thơ trữ tình trung đại, không hứng thú... 
Nhiều học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu khám phá bài học, còn thờ ơ 
với tác phẩm văn chương, nhất là thơ. Đối với nhiều em, thế giới thơ còn là một 
thế giới xa lạ. Nếu có ai hỏi các em về những bài thơ hay mà các em thích, thường 
khi hiểu biết của các em quanh quẩn cũng không ngoài các bài thơ đã học trong 
sách giáo khoa và sở dĩ các em thấy hay vì có in trong sách giáo khoa và thầy giáo 
bảo vậy. Cá biệt không phải không có em “sợ” thơ, bởi vì có những bài thơ có 
phiên âm chữ Hán, từ ngữ khó hiểu, điển cố nặng nề gây cho các em nhiều mệt 
nhọc, mà cách giảng của người thầy nhiều lúc cũng chưa làm cho các em hiểu rõ 
và thấy hay thêm được chút nào. Từ đó học sinh mất hứng thú khi học văn và kéo 
theo chất lượng học văn ngày càng sa sút 
Với những văn bản thơ chữ Hán, một số giáo viên khi phân tích chủ yếu 
hướng dẫn các em phần nhiều bám vào bản dịch thơ mà sao nhãng hoặc quên lãng 
bản phiên âm (bản gốc), học sinh không thể nhớ nổi một từ hay một câu thơ hay 
trong bản gốc 
 Bên cạnh đó, thế kỉ 21 Hội nhập toàn cầu, đời sống kinh tế xã hội phát triển, 
những môn học thời thượng (Toán, Lý, Hoá, Tin học, Ngoại ngữ) quan trọng 
hơn bao giờ hết thì văn chương không có tính năng ứng dụng, tương lai người học 
không được đảm bảo, học sinh ngày càng xa rời văn chương. Đặc biệt, một thực tại 
mà giáo viên nào cũng nhận thấy: Sách tham khảo, sách hướng dẫn để học tốt, sách 
Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” 
 Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 5 
chuẩn kiến thức, những bài văn mẫu quá nhiều, vô hình dung đã làm cho học 
sinh bỏ rơi sách giáo khoa. 
Còn có nhiều ý kiến trao đổi về việc dạy thơ trữ t ... mái tóc đã thay đổi. Phép 
đối càng làm nổi bật tình cảm, tâm trạng của nhân vật trữ tình: cho dù thời gian có 
làm cho mái tóc thay đổi nhưng tình cảm với quê hương không hề đổi thay, trước 
sau như một, vẫn nguyên vẹn, thắm thiết, bền chặt. 
 Phân tích tác phẩm phải gắn liền với thân thế, phong cách tác giả và hoàn 
cảnh xã hội nảy sinh tác phẩm, điều đó sẽ giúp học sinh hiểu tác phẩm một cách 
đúng đắn, sâu sắc hơn. 
 Chẳng hạn, phong cách thơ Lý Bạch là phong cách của một thi tiên. Ông là 
người thông minh, biết làm thơ từ thuở nhỏ, giao du rộng rãi. Từ trẻ ông đã xa gia 
đình đi du ngoạn tìm đường lập công danh sự nghiệp. Chính vì điều đó đã ảnh 
hưởng không nhỏ đến phong cách thơ của ông, ảnh hưởng đến các tác phẩm của 
ông. Vì vậy , dạy thơ ông, giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh cảm nhận theo 
hướng trên ,chẳng hạn trong 2 câu thơ : 
Phi lưu trực há tam thiên xích 
Nghi thị ngân hà lạc cửư thiên 
 ( Vọng Lư Sơn bộc bố ) 
 Dịch thơ : Nước bay thẳng xuống ba ngàn thước 
 Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây. 
 Lý Bạch đã xây dựng một hình tượng thiên nhiên kì vĩ và diệu xảo nhờ trí 
tưởng tượng mạnh mẽ, kì lạ, đạt đến mức điêu luyện. Chính sự lãng mạn, phóng 
túng ấy đã tạo nên nét riêng trong thơ Lý Bạch. 
Dạy thơ nói chung đã khó, dạy thơ tiếng nước ngoài qua bản dịch ( đặc biệt 
là thơ chữ Hán ) lại càng khó hơn. Bởi lẽ một thực tế , giữa nguyên tác và bản dịch 
vẫn có độ chênh: Hao hụt hoặc sai lệch ít nhiều  Vì lẽ đó, khi dạy những tác 
Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” 
 Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 14
phẩm loại này, giáo viên thường gặp rất nhiều lúng túng. Cho học sinh cảm nhận 
theo hướng nào ? Phân tích bài thơ ra sao ? Bắt đầu khai thác từ đâu ? ... Kết quả là 
không ít giáo viên khi dạy mảng văn thơ dịch mới chỉ đưa học sinh vào những 
hướng cảm thụ một cách sơ sài, đôi khi còn chưa sát ý. 
Việc đối chiếu phần dịch nghĩa và dịch thơ với nguyên âm trong quá trình 
giảng văn là một thao tác hết sức cần thiết để giải mã tác phẩm một cách có hiệu 
quả. Để tiến hành, trong quá trình dạy giáo viên cần định hướng cho học sinh vào 
với không khí của sự so sánh, đối chiếu. 
Chẳng hạn, dạy bài "Vọng Lư Sơn bộc bố" ( Xa ngắm thác núi Lư ) của Lí 
Bạch, giáo viên cần đưa ra cho học sinh các câu hỏi dạng như: 
- Ở mỗi câu trong phần dịch thơ có gì khác với bản phiên âm? 
- Từ nào, ý nào đã bị mất trong bản phiên âm đã bị mất khi chuyển sang bản dịch 
thơ ? 
Câu 1 - Phiên âm: Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên 
 - Dịch nghĩa: Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khóii tía 
 - Dịch thơ: Nắng rọi Hương Lô khói tía bay 
 Chủ thể của hai động từ "chiếu" và "sinh" là mặt trời . Do đó, quan hệ giữa 2 
vế câu là quan hệ nhân - quả. Nghĩa là mặt trời chiếu ánh nắng vào hơi nước trên 
đỉnh Hương Lô làm cho hơi nước biến thành màu tía. Tác giả đem đến cho nó một 
vẻ đẹp mới: vẻ đẹp dưới ánh nắng mặt trời. Câu thơ vẽ lên một cảnh tượng thiên 
nhiên kì vĩ, vừa rực rỡ ,vừa huyền ảo. Trong bản dịch thơ bỏ mất từ "sinh" làm cho 
quan hệ nhân- quả này bị phá vỡ, chủ thể là khói tía. Cho nên cảnh tượng kì vĩ trên 
cũng bị giảm đi phần nhiều. 
Từ những dẫn chứng cụ thể trên , chúng ta rất dễ dàng nhận thấy là giữa bản 
phiên âm và bản dịch thơ đôi khi còn có sự chênh lệch khá xa. Nếu chỉ chú trọng 
đến việc phân tích bản dịch thơ mà quên đi nguyên tác e rằng học sinh chỉ hiểu 
được cái hay trong văn bản thơ của dịch giả mà không hiểu hết những nét riêng, 
những thông điệp mà nhà thơ muốn gửi tới độc giả qua sáng tạo nghệ thuật của 
mình. 
Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” 
 Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 15
- Chú ý đến cảnh và tình được thể hiện trong tác phẩm: các thi nhân xưa 
thường tức cảnh sinh tình, nhìn cảnh mà nghĩ đến mình, cảnh là cái cớ để bộc lộ 
tình cảm trong lòng, tâm cảnh chi phối cái nhìn ngoại cảnh. Cảnh và tình có liên hệ 
mật thiết với nhau, vì vậy, khi khai thác, giáo viên cần bám chắc vào đặc trưng 
này. 
Dạy bài “Qua Đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan, cần chú ý hai bức 
tranh ngoại cảnh và tâm cảnh song song: ẩn bên trong bức tranh một Đèo Ngang 
hoang sơ, hiu hắt, vắng lặng khi chiều tà là nỗi lòng nhớ nước thương nhà của một 
con người cô đơn, nặng lòng hoài cổ. 
+ Cuối cùng một trong những biểu hiện tích cực của đổi mới phương 
pháp dạy học trong giờ học thơ trữ tình là giảng bình. 
Những lời bình giảng, phân tích của giáo viên trong giờ là rất cần thiết, 
quan trọng góp phần làm nên dư vị ngọt ngào, khơi gợi cảm xúc của học sinh khi 
tiếp nhận các giá trị văn chương. Và có một thực tế là những giáo viên có những 
lời bình hay, độc đáo sẽ được học sinh nhớ mãi, ấn tượng mãi. 
Cũng có khi bình về tư tưởng, nội dung của bài thơ để thấy được cái hay của 
tác phẩm đặt trong hoàn cảnh xã hội đương thời. Có nhiều cách bình, có thể trực 
tiếp bình về cách sử dụng ngôn từ trong tác phẩm, có thể so sánh điểm tương đồng 
với các tác phẩm khác để thấy được nét đọc đáo riêng của tác phẩm...Tuy nhiên dù 
cách nào cũng vậy lời bình phải phù hợp với lời giảng trước hoặc sau đó, giảng có 
sâu sắc thì lời bình mới tâm đắc. Nếu giảng hời hợt, chưa tới, dù có bình tâm huyết 
đến mấy cũng sẽ thiếu sức thuyết phục, người đọc sẽ không tin vào những lời bình 
rộng như thế. Thêm nữa, lời bình thể hiện rõ nhất ở giọng điệu, cảm xúc, thái độ. 
Cho nên nó mang dấu ấn cá nhân người viết rất đậm. Và qua lời bình ấy, học sinh 
mới cảm nhận được cái hay của tác phẩm, nâng cao hiệu quả của giờ học văn. 
* Khi hướng dẫn học sinh phân tích, cần chú ý xây dựng hệ thống câu 
hỏi hợp lí để khai thác nghệ thuật và nội dung của bài: 
 - Các câu hỏi đàm thoại ngoài tính chất xác định rõ ràng, phải có màu sắc 
văn học, có khả năng khêu gợi tình cảm, cảm xúc cho học sinh. 
Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” 
 Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 16
- Câu hỏi phải vừa sức học sinh, thích hợp với khuôn khổ một giờ học trên 
lớp, vừa phải có khả năng “gợi vấn đề” suy nghĩ tìm tòi sáng tạo cho học sinh. 
- Câu hỏi phải được xây dựng thành một hệ thống lôgíc, giúp học sinh từng 
bước đi sâu vào tác phẩm như một chính thể. 
- Khi đặt câu hỏi, chúng ta có thể thực hiện một số giải pháp: 
- Suy nghĩ thật kĩ vấn đề mình sắp dạy: 
- Tham khảo các câu hỏi gợi ý trong SGK, SGV, sách bài soạn. Xây dựng hệ 
thống câu hỏi riêng của mình cho bài soạn. 
- Cố gắng sử dụng nhiều hình thức diễn đạt khác nhau để hỏi về cùng một 
nội dung; 
- Chú ý đón bắt, khơi gợi những ý tưởng mới mẻ của học sinh, từ thực tế trả 
lời của các em, điều chỉnh lại cách hỏi cho phù hợp. 
* Vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy - học: 
 Việc chuyển đổi sách giáo khoa Ngữ văn ở trường THCS theo hướng tích 
hợp là một yêu cầu mới trong việc giáo dục đào tạo của bộ môn. Đây là sự chuyển 
biến có ý nghĩa thời đại chắc chắn sẽ đưa đến chất lượng dạy và học được nâng 
lên. Tuy nhiên, việc vận dụng quan điểm tích hợp vào việc dạy - học Thơ trữ tình 
trung đại là một vấn đề không dễ dàng và không phải lúc nào cũng làm được. 
 Trong khi tiến hành tổ chức học sinh tiếp cận văn bản, đặc biệt những bài 
thơ có phiên âm chữ Hán, giáo viên có thể khéo léo phá bỏ hàng rào ngôn ngữ ấy 
bằng việc tổ chức học sinh vận dụng những kiến thức về "nghĩa của từ" (lớp 6 ) 
"Từ đồng nghĩa" "từ trái nghĩa" , từ "Hán Việt" (lớp 7) tạo ra một con đường mới 
mà học sinh có thể dễ dàng cảm nhận được văn bản Thơ chữ Hán một cách chủ 
động sáng tạo. 
 Ví dụ: Với văn bản: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh (Lý Bạch). 
1. Bài thơ làm theo thể thơ nào ? Giống với thể thơ bài thơ nào trong phần 
thơ Đường luật của các tác giả Việt Nam ? (Tích hợp thơ Đường luật Việt Nam đã 
học trước đó, văn bản "Phò giá về kinh"). 
2. Em có nhận xét gì về nghĩa cặp từ: " Đê - Cử" ? (Tích hợp từ trái nghĩa). 
3. Nhìn trăng nhớ quê, nhà thơ đã thể hiện đề tài nào quen thuộc trong thơ 
cổ ? (Vọng nguyệt hoài hương). (Tích hợp đọc). 
Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” 
 Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 17
4. Văn bản này là sự kết hợp của những phương thức biểu đạt nào ? 
* Kết hợp với sử dụng công nghệ thông tin trong tiết dạy như: chiếu chân 
dung tác giả, tên các tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác tác phẩm, những ý kiến bình 
luận về tác phẩm, những trò chơi sáng tạo, đơn giản sẽ góp phần làm cho giờ học 
hấp dẫn, sinh động. 
* Đối với phần hướng dẫn về nhà: 
- Giáo viên có thể yêu cầu HS sưu tầm các câu thơ, bài thơ cùng chủ đề của 
chính tác giả đó hoặc của những tác giả khác, cùng thời hoặc khác thời để mở rộng 
kiến thức về tác phẩm đã học, phần sưu tầm cần ghi riêng vào một quyển sổ tay 
văn học 
- Cho học sinh sưu tầm những ý kiến nhận xét về tác phẩm. 
- Yêu cầu học sinh viết đoạn văn cảm thụ về một chi tiết, hình ảnh hay nội 
dung tư tưởng trong tác phẩm. 
- Hướng dẫn HS soạn kĩ bài sau. 
* Kết luận: Để giờ dạy tác phẩm thơ trữ tình trung đại lớp 7 đạt hiệu quả 
cao, đòi hỏi người giáo viên cần áp dụng các phương pháp giảng dạy linh hoạt với 
từng đối tượng học sinh, với từng bài dạy; bản thân người giáo viên cần tích cực 
đọc, tìm tòi, nghiên cứu tài liệu để có cái nhìn sâu rộng về tác phẩm, trên cơ sở đó 
từng bước hướng dẫn học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc cảm thụ, đi 
tìm cái đẹp, cái hay của tác phẩm văn học. Thành công của một giờ dạy là không 
chỉ rèn cho học sinh năng lực cảm thụ văn học, mà quan trọng hơn, những tác 
phẩm văn học ấy đã có sự tác động sâu sắc đến tâm hồn, tình cảm của học sinh. 
 c. Điều kiện thực hiện các giải pháp, biện pháp. 
 - Đối với giáo viên: 
 + Thường xuyên trau dồi chuyên môn, tham khảo tài liệu. 
 + Cập nhật thường xuyên thông tin và sưu tầm các nguồn tài liệu. 
 + Lên kế hoạch bồi dưỡng nghiêm túc và hiệu quả. 
 + Phải tâm huyết và trách nhiệm với công tác mà mình đảm trách nhiệm. 
 + Thường xuyên phối hợp trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp. 
 - Đối với học sinh: 
Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” 
 Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 18
 + Yêu thích môn học, có tư chất tốt. 
 + Thường xuyên tham khảo tài liệu. 
 d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp. 
 Như chúng ta đã biết để cho học sinh biết cảm thụ và yêu thích môn học là 
một nhiệm vụ rất quan trọng . Vì vậy người thầy cần phải có năng lực, uy tín 
trách nhiệm đưa ra các giải pháp, biện pháp để có hiệu quả. Những giải pháp tôi 
đưa ra có mối quan hệ mật thiết logic với nhau. Vì vậy các biện pháp, giải pháp 
đều có mối quan hệ biện chứng không thể tách rời. 
 e. Kết quả khảo nghiệm các vấn đề nghiên cứu. 
 Với đề tài này tôi đã nghiên cứu và áp dụng trong năm học 2016-2017 đã 
được sự ủng hộ của Ban giam hiệu, của đồng nghiệp. Đặc biệt là sự ủng của các 
em trong lớp tôi đảm nhiệm. Tôi nhận thấy rằng các em nắm bài nhanh hơn, phát 
huy được năng lực cảm thụ văn học. Tôi đọc được trong trong ánh mắt của các 
em sự hài lòng về phương pháp của mình. 
 II.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: 
 Khi áp dụng phương pháp này, qua kiểm tra chất lượng bài 15 phút và 45 
phút ở học kì I, tôi thu được kết quả như sau: (Lớp 7A1 áp dụng còn 7A5 không áp 
dụng phương pháp dạy trên). 
Lớp 
Tổng 
số HS 
Xếp loại 
( số lượng và tỉ lệ %) 
Giỏi Khá T. bình Yếu Kém 
7A1 33 4=12,1% 9=27,3% 20=60,6% 0=0% 0=0% 
7A5 33 0= 0% 7=21,2% 20=60,6% 6=18,2% 0=0% 
 III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
 III.1. Kết luận: 
Dạy học thơ trữ tình trung trung đại đòi hỏi một cách tiếp cận riêng khác với 
dạy văn bản tự sự hay miêu tả. Cái khó nhất là với mỗi bài thơ, làm sao để học sinh 
nắm được cái hồn thơ, nhận ra được vẻ đẹp của nội dung bài. Vì vậy mà trong quá 
trình khai thác, giáo viên cần biết nên hướng dẫn học sinh tìm hiểu theo bố cục thể 
loại, theo mạch cảm xúc, trật tự các từ trong câu, biện pháp tu từ...là điều có ý 
Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” 
 Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 19
nghĩa rất quan trọng. Mỗi nhà thơ có cách nói riêng, vẻ đẹp trong mỗi bài như mỗi 
bông hoa mang hương sắc riêng. Có bài đẹp ở tứ, có bài đẹp ở tình, có bài đẹp ở 
câu, ở lời, ở giọng điệu... Việc giáo viên hướng dẫn học sinh tiếp cận cần phải hết 
sức linh hoạt để mang lại giờ học đạt kết quả cao. 
 Do những hạn chế về kinh nghiệm của bản thân, cũng như thời gian nghiên 
cứu đề tài chưa nhiều nên không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót, tôi rất mong nhận 
được những ý kiến đóng góp của đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn. 
 III.2. Kiến nghị: 
Thư viện nhà trường nên bổ sung nguồn tài liệu mới giới thiệu về cuộc đời, 
sự nghiệp của các tác giả thơ trữ tình trung đại Việt Nam . 
Các tài liệu văn học giới thiệu về các giai đoạn phát triển của văn học nước 
nhà gắn với các giai đoạn lịch sử của dân tộc. 
 IV: KẾT LUẬN CHUNG: 
Tiến hành nghiên cứu đề tài này, tôi không có tham vọng nhiều mà chỉ mong 
học sinh của tôi có niềm đam mê học văn nói chung và có kĩ năng cảm thụ thơ trữ 
tình Trung đại nói riêng để từ đó chất lượng học văn ngày càng được nâng lên. 
 Căn cứ vào kinh nghiệm và hiểu biết còn ít ỏi của mình, tôi cố gắng tìm 
hiểu phương pháp giảng dạy thơ trữ tình, đó là chú ý đến đặc trưng của thơ. Đặc 
biệt về mặt loại thể, thơ trữ tình giảng theo trình tự trữ tình, khai thác hình tượng, 
tâm tư của tác giả hay của nhân vật trữ tình. Hình tượng thơ hình thành trong một 
cấu tạo ngôn ngữ đặc biệt khác với ngôn ngữ bình thường. Trong khi giảng, người 
giáo viên phải làm cho học sinh vừa hình dung được hình ảnh bài thơ gợi lên vừa 
cảm thụ được nhạc điệu của bài thơ mang đến. Nắm được đặc trưng đó, chúng ta sẽ 
có một phương hướng chung để đi vào nắm được quy luật chung, tìm ra phương 
pháp cơ bản nhất của việc giảng dạy thơ. 
 CưM gar, ngày 12 tháng 3 năm 2018 
 Người viết 
Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” 
 Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 20
 Nguyễn Ngọc Khải 

File đính kèm:

  • pdfskkn_mot_so_kinh_nghiem_day_hoc_tho_tru_tinh_trung_dai_ngu_v.pdf