Siêu âm đánh giá thể tích bàng quang nhằm kiểm soát di lệch cơ quan đích trong xạ trị điều biến cường độ ung thư cổ tử cung
Mục đích: Khảo sát sự thay đổi của thể tích bàng quang qua các lần xạ trị bằng phương tiện siêu âm
cầm tay và cone beam CT, đồng thời đánh giá sự di lệch của vị trí đáy tử cung qua các lần xạ trị và tương
quan của di lệch này với thể tích bàng quang.
Đối tượng và phương pháp: Hồi cứu mô tả 40 trường hợp bệnh nhân được chẩn đoán xác định ung
thư cổ tử cung và được xạ trị kỹ thuật IMRT tại bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh từ 01/01/2019
đến 31/12/2019.
Kết quả: Trên siêu âm siêu âm cầm tay, kích thước bàng quang theo chiều trước - sau là
6,2 ± 1,3cm, theo chiều trên-dưới là 7,1 ± 1,0cm và theo chiều trái - phải là 7,8 ± 1,0cm, các kích thước này
tương đối hằng định trong quá trình xạ trị. Trên CT, kích thước bàng quang trung bình theo chiều trước -
sau là 7,4 ± 1,5cm; theo chiều trên - dưới là 7,0 ± 2,4cm và theo chiều trái-phải là 9,3 ± 1,3cm. Kích thước
bàng quang trên CT lớn nhất lúc mô phỏng và lần xạ trị đầu tiên, giảm dần qua các lần xạ trị tiếp theo. Các
kích thước bàng quang trên siêu âm không tương quan với các kích thước tương ứng trên CT.
Di lệch của điểm đáy tử cung so với CT mô phỏng tính gộp theo chiều trước - sau là 3,1 ± 9,6mm; theo
chiều trên-dưới là -6,7 ± 14,3mm; theo chiều trái-phải là -0,3 ± 7,0mm. Di lệch của điểm đáy tử cung tương
quan với kích thước bàng quang trên cone beam CT. Đáy tử cung có xu hướng di lệch ra trước và xuống
dưới phù hợp với các kích thước bàng quang giảm dần trong quá trình xạ trị. Di lệch của điểm đáy tử cung
không tương quan với các kích thước bàng quang đo được trên siêu âm.
Kết luận: Siêu âm cầm tay là giúp phân biệt nhanh các bệnh nhân có đủ thể tích nước tiểu trong bàng
quang trước khi chụp cone beam CT trong quá trình xạ trị điều biến cường độ ung thư cổ tử cung nhưng
chưa thể thay thế được cone beam CT để kiểm soát di lệch cơ quan đích trong quá trình xạ trị hàng ngày.
Vì vậy, việc chụp cone beam CT kiểm tra trước điều trị vẫn cần được thực hiện một cách thường quy.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Siêu âm đánh giá thể tích bàng quang nhằm kiểm soát di lệch cơ quan đích trong xạ trị điều biến cường độ ung thư cổ tử cung
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 17 NHI - PHỤ KHOA – NIỆU SIÊU ÂM ĐÁNH GIÁ THỂ TÍCH BÀNG QUANG NHẰM KIỂM SOÁT DI LỆCH CƠ QUAN ĐÍCH TRONG XẠ TRỊ ĐIỀU BIẾN CƯỜNG ĐỘ UNG THƯ CỔ TỬ CUNG TRẦN ĐẶNG NGỌC LINH1, ĐOÀN THÁI CANG2, NGUYỄN HUY LỘC3, NGUYỄN THẾ HIỂN3 Địa chỉ liên hệ: Trần Đặng Ngọc Linh Email: tranlinhub04@yahoo.com Ngày nhận bài: 09/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 TS.BS. Trưởng Khoa Xạ trị phụ khoa - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM Trưởng Bộ Môn Ung thư Đại học Y Dược TP. HCM 2 Bác sĩ nội trú Bộ môn Ung thư Đại học Y Dược TP. HCM 3 BS. Khoa Xạ trị Phụ khoa - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM ĐẶT VẤN ĐỀ Xạ trị điều biến cường độ (IMRT) là kỹ thuật xạ trị tiên tiến giúp đưa đúng liều xạ vào thể tích mô đích có hình dạng phức tạp đồng thời giảm tối đa liều xạ lên cơ quan lành xung quanh. Tuy nhiên, việc điều trị bằng kỹ thuật này cũng đi kèm với nguy cơ thất bại hình học, nghĩa là các thể tích đích điều trị bị di lệch ra khỏi trường chiếu khi xạ trị. Cùng với trực tràng, thể tích bàng quang có ảnh hưởng lớn đến vị trí của cổ cũng như thân tử cung. Sự thay đổi đáng kể về thể tích bàng quang có thể dẫn đến nhiều sai TÓM TẮT Mục đích: Khảo sát sự thay đổi của thể tích bàng quang qua các lần xạ trị bằng phương tiện siêu âm cầm tay và cone beam CT, đồng thời đánh giá sự di lệch của vị trí đáy tử cung qua các lần xạ trị và tương quan của di lệch này với thể tích bàng quang. Đối tượng và phương pháp: Hồi cứu mô tả 40 trường hợp bệnh nhân được chẩn đoán xác định ung thư cổ tử cung và được xạ trị kỹ thuật IMRT tại bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh từ 01/01/2019 đến 31/12/2019. Kết quả: Trên siêu âm siêu âm cầm tay, kích thước bàng quang theo chiều trước - sau là 6,2 ± 1,3cm, theo chiều trên-dưới là 7,1 ± 1,0cm và theo chiều trái - phải là 7,8 ± 1,0cm, các kích thước này tương đối hằng định trong quá trình xạ trị. Trên CT, kích thước bàng quang trung bình theo chiều trước - sau là 7,4 ± 1,5cm; theo chiều trên - dưới là 7,0 ± 2,4cm và theo chiều trái-phải là 9,3 ± 1,3cm. Kích thước bàng quang trên CT lớn nhất lúc mô phỏng và lần xạ trị đầu tiên, giảm dần qua các lần xạ trị tiếp theo. Các kích thước bàng quang trên siêu âm không tương quan với các kích thước tương ứng trên CT. Di lệch của điểm đáy tử cung so với CT mô phỏng tính gộp theo chiều trước - sau là 3,1 ± 9,6mm; theo chiều trên-dưới là -6,7 ± 14,3mm; theo chiều trái-phải là -0,3 ± 7,0mm. Di lệch của điểm đáy tử cung tương quan với kích thước bàng quang trên cone beam CT. Đáy tử cung có xu hướng di lệch ra trước và xuống dưới phù hợp với các kích thước bàng quang giảm dần trong quá trình xạ trị. Di lệch của điểm đáy tử cung không tương quan với các kích thước bàng quang đo được trên siêu âm. Kết luận: Siêu âm cầm tay là giúp phân biệt nhanh các bệnh nhân có đủ thể tích nước tiểu trong bàng quang trước khi chụp cone beam CT trong quá trình xạ trị điều biến cường độ ung thư cổ tử cung nhưng chưa thể thay thế được cone beam CT để kiểm soát di lệch cơ quan đích trong quá trình xạ trị hàng ngày. Vì vậy, việc chụp cone beam CT kiểm tra trước điều trị vẫn cần được thực hiện một cách thường quy. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2) Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 18 lệch trong quá trình xạ trị như thiếu liều ở bướu hay quá liều ở cơ quan lành xung quanh. Việc duy trì một thể tích bàng quang hằng định qua mỗi lần xạ trị đóng vai trò quan trọng trong việc đem lại một cuộc xạ trị thành công. Cone beam CT được sử dụng phổ biến để kiểm tra kế hoạch điều trị của bệnh nhân trước mỗi lần xạ trị, tuy nhiên, nhược điểm của cone beam CT là bệnh nhân cần phải lên bàn điều trị, cố định và xác lập tư thế giống như khi mô phỏng khiến thời gian thực hiện khá lâu. Trong khi đó siêu âm là một phương pháp tiện lợi, chi phí thấp, có thể nhanh chóng xác định các kích thước bàng quang để quyết định bệnh nhân nào có thể tiến hành xạ trị, bệnh nhân nào cần nhịn tiểu thêm nhằm duy trì được thể tích bàng quang giống như lúc mô phỏng. Nhờ đó cũng có thể tránh được việc cơ quan đích bị di lệch ra ngoài trường chiếu xạ trong quá trình xạ trị do biến thiên của thể tích bàng quang. Siêu âm cầm tay đánh giá nhanh kích thước bàng quang nhằm lựa chọn bệnh nhân có thể tích bàng quang phù hợp trước xạ trị đã được ứng dụng tại bệnh viện Ung bướu thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu này đánh giá vai trò của siêu âm kích thước bàng quang trong kiểm soát di lệch cơ quan đích trong quá trình xạ trị điều biến cường độ ung thư cổ tử cung. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán xác định ung thư cổ tử cung và được xạ trị kỹ thuật IMRT tại bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh từ 01/01/2019 đến 31/12/2019. Tiêu chuẩn chọn bệnh Bệnh nhân được chẩn đoán xác định ung thư cổ tử cung. Bệnh nhân được điều trị triệt để: xạ trị (hóa xạ trị) triệt để bằng kỹ thuật IMRT. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân đã được phẫu thuật cắt tử cung. Bệnh nhân không có khả năng nhịn tiểu. Bệnh nhân không hoàn tất quá trình xạ trị. Bệnh nhân có dị tật bàng quang hoặc từng phẫu thuật bàng quang trước đây. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu hồi cứu, mô tả loạt ca. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Từ tháng 01/2020 đến tháng 06/2020 tại bệnh viện Ung bướu TP. HCM. Chuẩn bị bệnh nhân Mỗi bệnh nhân được yêu cầu chuẩn bị bàng quang theo tiêu chuẩn: đi tiểu sạch nước tiểu trong bàng quang sau đó uống 500ml nước lọc rồi nhịn tiểu trong 60 phút trước khi chụp CT mô phỏng và trước khi tiến hành xạ trị mỗi ngày. Về trực tràng, các bệnh nhân được hướng dẫn thụt tháo trực tràng, uống đủ 2,5 - 3 lít nước mỗi ngày, ăn thức ăn nhiều chất xơ: Rau xanh, trái cây, các loại hạt Thực hiện chụp CT mô phỏng Bệnh nhân nằm trên hệ th ... trước - sau, trên-dưới, trái-phải. D, E, F: Tương quan giữa di lệch của đáy tử cung và kích thước bàng quang trên cone beam CT lần lượt theo chiều trước-sau, trên - dưới, trái - phải). BÀN LUẬN Kích thước bàng quang Đặc điểm kích thước bàng quang đánh giá trên siêu âm và CT Trong nghiên cứu của chúng tôi, kích thước bàng quang trung bình trên siêu âm theo chiều trước-sau là 6,2 ± 1,3cm, theo chiều trên-dưới là 7,1 ± 1,0cm và theo chiều trái-phải là 7,8 ± 1,0cm. Trên CT, các kích thước này lần lượt là 7,4 ± 1,5 cm; 7,0 ± 2,4cm; 9,3 ± 1,3cm. Các kích thước trước- sau và trái-phải của bàng quang lớn hơn trên CT lớn hơn có ý nghĩa thống kê so với các kích thước tương ứng trên siêu âm (p <0,001) trong khi kích thước trên-dưới của bàng quang trên CT và siêu âm tương đương nhau (p = 0,196). Điều có thể do giới hạn của lát cắt ngang trên siêu âm không thấy được phần bàng quang nằm dưới xương mu trong khi phần lớn thể tích bàng quang có thể nằm ở vị trí này trong một số trường hợp. Bảng 5. So sánh các kích thước trung bình bàng quang trên siêu âm và cone beam CT Kích thước bàng quang Siêu âm CT p Trước-sau (cm) 6,2 ± 1,3 7,4 ± 1,5 <0,001 Trên-dưới (cm) 7,1 ± 1,0 7,0 ± 2,4 0,196 Trái-phải (cm) 7,8 ± 1,0 9,3 ± 1,3 <0,001 Thể tích ước tính (ml) 245,2 ± 90,2 379,4 ± 201,1 <0,001 Thể tích trung bình của bàng quang trên siêu âm của các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu là 254,2ml ± 90,2ml thấp hơn so với thể tích trung bình của bàng quang trên CT là 379,4ml ± 201,1ml (p <0,001) điều này phù hợp với việc ghi nhận các kích thước trước-sau và trái-phải của bàng quang trên siêu âm thấp hơn các kích thước tương ứng trên CT. Khi phân tích sự thay đổi của các kích thước bàng quang theo số lần xạ, siêu âm cho thấy các kích thước bàng quang tương đối hằng định hoặc tăng nhẹ, còn CT cho thấy các kích thước bàng quang cao nhất trong lúc mô phỏng và lần xạ đầu tiên, sau đó giảm dần trong các lần còn lại. Sự giảm thể thể tích bàng quang trong quá trình xạ trị đã Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 23 được nhiều tác giả ghi nhận[1],[3],[4], nguyên nhân được cho rằng do tình trạng viêm bàng quang xuất hiện trong quá trình xạ trị làm tăng kích thích bàng quang khiến bệnh nhân khó nhịn tiểu được. Như vậy, việc áp dụng siêu âm trong nghiên cứu của chúng tôi cũng không giúp tránh được tình trạng bàng quang giảm thể tích trong quá trình xạ trị. Tương quan giữa siêu âm và CT Nghiên cứu của chúng tôi không tìm thấy sự tương quan giữa các kích thước bàng quang đo được trên siêu âm so với các kích thước tương ứng trên cone beam CT. Cụ thể, hệ số tương quan về kích thước trước-sau của siêu âm và CT là r = 0,118, về kích thước trên-dưới là r = 0,119, về kích thước trái-phải là r = 0,176. Có nhiều nguyên nhân có thể giải thích cho kết quả này. Thứ nhất, nghiên cứu sử dụng thiết bị siêu âm cầm tay Vscan của hãng GE, không phải là thiết bị chuyên dụng để đánh giá bàng quang, máy không có chức năng tính thể tích, do đó các kích thước bàng quang được đánh giá theo ba chiều trên chế độ B-mode có thể dẫn đến nhiều sai số trong quá trình đo đạc. Thực tế, các nghiên cứu về siêu âm bàng quang cho kết quả tương quan cao với CT đều sử dụng thiết bị đo thể tích bàng quang chuyên dụng BladderScan của hãng Verathon[1],[7]. Thứ hai, từ lúc bệnh nhân được siêu âm đánh giá bàng quang đến khi chụp cone beam CT phải trải qua bước đặt bệnh để tái tạo lại tư thế bệnh nhân lúc mô phỏng, quá trình này có thể dài ngắn khác nhau tùy thuộc mỗi bệnh nhân và có thể kéo dài đến vài chục phút, do đó cũng có thể làm tạo ra sự sai lệch giữa siêu âm và cone beam CT. Thứ ba, nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu là những bệnh nhân đầu tiên được kỹ thuật siêu âm đánh giá bàng quang trước xạ trị điều biến cường độ ung thư cổ tử cung tại bệnh viện Ung bướu thành phố Hồ Chí Minh, các kỹ thuật viên thực hiện siêu âm chưa có kinh nghiệm siêu âm trước đây nên có thể gặp một số khó khăn trong quá trình đo đạc như sử dụng máy chưa thành thạo, vị trí siêu âm chưa chính xác, hai mặt cắt chưa vuông góc... Cuối cùng, cũng vì là kỹ thuật mới, việc ghi nhận kết quả chưa thực sự thống nhất giữa các kỹ thuật viên. Phân tích biểu đồ phân tán cho thấy nhiều giá trị kích thước bàng quang tập trung nhiều ở các giá trị chẵn tròn hoặc lẻ 0,5 trong khi máy siêu âm cho kết quả tới giá trị milimet gợi ý có sự làm tròn số ở một số trường hợp siêu âm. Ngoài ra, ghi nhận các bệnh nhân chỉ được thực hiện tổng cộng 838 lần siêu âm trên 1000 lần xạ trị cho thấy có nhiều trường hợp bệnh nhân được xạ trị nhưng không đánh giá bàng quang trước đó. Di lệch của đáy tử cung Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng điểm tham chiếu là điểm đáy tử cung để xác định mức độ di lệch. Điểm này được nhiều nghiên cứu trên thế giới sử dụng và cho thấy mức độ tương quan cao nhất với biến thiên của thể tích bàng quang[4],[9]. Một số nghiên cứu khác sử dụng điểm cổ tử cung hoặc kênh tử cung tuy nhiên đa phần sử dụng phương tiện hình ảnh học là MRI hoặc CT có hướng dẫn của các hạt đánh dấu gắn vào các vị trí nhất định để định vị[5],[8]. Nếu chỉ dùng cone beam CT đơn thuần rất khó thể xác định vị trí của cổ tử cung vì độ tương phản kém với mô xung quanh. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy di lệch của điểm đáy tử cung so với CT mô phỏng trung bình theo hướng trước, sau, trên, dưới, trái, phải lần lượt là 8; 6; 8; 1,5; 5; 6mm. Di lệch tối đa của đáy tử cung theo các hướng này lần lượt là 39, 26, 38, 50, 12 và 18 mm. Di lệch tính gộp theo chiều trước-sau là 3,1 ± 9,6mm; theo chiều trên-dưới là -6,7 ± 14,3mm; theo chiều trái-phải là -0,3 ± 7,0mm. Độ di lệch này phù hợp với ghi nhận thể tích bàng quang giảm dần trong quá trình điều trị khiến đáy tử cung di lệch dần ra trước và xuống dưới, trong khi sự di lệch sang hai bên là tương đối nhỏ. Bảng 6. Di lệch đáy tử cung trong một số nghiên cứu Nghiên cứu Phương tiện Tần suất thực hiện Di lệch trung bình (mm) Trước-sau Trên-dưới Trái-phải Taylor và cs[8] MRI 2 ngày 7 ± 9 7,1 ± 6,8 0,8 ± 1,3 Wang và cs[9] CT 4D Tuần 1, 3, 5 14,2 ± 10,5 9,5 ± 6,6 6,5 ± 4,8 Chan và cs[3] MRI Mỗi tuần -4,6 ± 14,5 7,8 ± 24,4 NR Collen và cs[4] MVCT Mỗi ngày Trước: 3,3 ± 11,9 Sau: 0,3 ± 11,7 Trên: 6,1 ± 11,6 Dưới: 5 ± 11,2 NR Lee và cs[6] CT Mỗi tuần Trước:-2 ± 11,3 Sau: -5,5 ± 12,1 Trên: -7,7 ± 18,7 Dưới: NR Trái: -3 ± 12,5 Phải: -2,9 ± 10,2 Nghiên cứu này CBCT Mỗi ngày 3,1 ± 9,6 -6,7 ± 18,3 -0,3 ± 7 (NR: nghiên cứu không báo cáo số liệu này) Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2) Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 24 Rất khó để so sánh độ di lệch tử cung trong nghiên cứu này với các nghiên cứu khác trên thế giới vì các nhóm tác giả sử dụng các phương tiện hình ảnh khác nhau để khảo sát độ di lệch. Hơn nữa, tần suất thực hiện hình ảnh học và cách thống kê số liệu của các nghiên cứu này cũng không giống nhau. Mặc dù vậy, nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy đặc điểm di lệch chung của đáy tử cung là có biên độ lớn theo hướng trước-sau và trên - dưới trong khi di lệch theo hướng trái-phải có giá trị tương đối nhỏ, kết quả này được ghi nhận trong nhiều nghiên cứu trên thế giới (bảng 4.2). Về tương quan với thể tích bàng quang, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy giá trị di lệch của đáy tử cung chỉ tương quan với các kích thước bàng quang trên CT mà không tương quan với kích thước bàng quang đo được trên siêu âm. Như vậy, siêu âm chưa phải là phương tiện tin cậy để kiểm soát di lệch của cơ quan đích khi tiến hành xạ trị ung thư cổ tử cung. Hình 2. Di lệch đáy tử cung và sự thay đổi của thể tích bàng quang trên cone beam CT (Bệnh nhân Đỗ Thị Trúc M. số hồ sơ: 0017694/19, lần xạ trị thứ 3. Viền đỏ: tử cung lúc mô phỏng. Viền vàng: bàng quang lúc mô phỏng. Diện tích tô đỏ: Tử cung lúc chụp cone beam CT. Diện tích tô vàng: bàng quang lúc chụp cone beam CT) Trong thực hành lâm sàng, khi lập kế hoạch điều trị, khuyến cáo hiện nay là tử cung sẽ được cộng biên 15mm, chu cung sẽ được cộng biên độ 1 mm còn hạch chậu được cộng biên 7mm theo mọi hướng để đảm bảo các thể tích đích này không bị di lệch ra khỏi trường chiếu nhằm tránh thất bại hình học. Nghiên cứu này cho thấy, so với kết quả di lệch trung bình thì hoàn toàn đạt yêu cầu nhưng đối với di lệch tối đa thì giá trị biên cộng thêm này vẫn chưa đủ. Do đó, kiểm soát di lệch bằng hình ảnh trong quá trình điều trị là rất quan trọng để đảm bảo tránh thất bại hình học. Như vậy, mặc dù siêu âm giúp lựa chọn nhanh bệnh nhân phù hợp để vô phòng điều trị nhưng chỉ có cone beam CT mới đủ tin cậy và chính xác để đánh giá tổng thể về hình học vùng chậu bao gồm thể tích bàng quang, trực tràng và di lệch của các thể tích điều trị nhằm đảm bảo cuộc điều trị thành công. KẾT LUẬN Vai trò hiện tại của siêu âm cầm tay là giúp phân biệt nhanh các bệnh nhân có đủ thể tích nước tiểu trong bàng quang trước khi chụp cone beam CT trong quá trình xạ trị điều biến cường độ ung thư cổ tử cung. Siêu âm cầm tay chưa thể thay thế được cone beam CT để kiểm soát di lệch cơ quan đích trong quá trình xạ trị hàng ngày. Vì vậy, việc chụp cone beam CT kiểm tra trước điều trị vẫn cần được thực hiện một cách thường quy. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ahmad R., Hoogeman M. S., Quint S., et al. (2008), "Inter-fraction bladder filling variations and time trends for cervical cancer patients assessed with a portable 3-dimensional ultrasound bladder scanner", Radiother Oncol, 89 (2), 172 - 9. 2. Bih L. I., Ho C. C., Tsai S. J., et al. (1998), "Bladder shape impact on the accuracy of ultrasonic estimation of bladder volume", Arch Phys Med Rehabil, 79 (12), 1553 - 6. 3. Chan P., Dinniwell R., Haider M. A., et al. (2008), "Inter- and intrafractional tumor and organ movement in patients with cervical cancer undergoing radiotherapy: a cinematic-MRI point- of-interest study", Int J Radiat Oncol Biol Phys, 70 (5), 1507 - 15. 4. Collen C., Engels B., Duchateau M., et al. (2010), "Volumetric imaging by megavoltage computed tomography for assessment of internal organ motion during radiotherapy for cervical cancer", Int J Radiat Oncol Biol Phys, 77 (5), 1590 - 5. 5. Latifi K, Forster KM, Harris EE (2010), "Assessment of organ motion in intact cervix cancer patients treated with intensity modulated radiation therapy", International Journal of Radiation Oncology• Biology• Physics, 78 (3), S719. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 25 6. Lee C. M., Shrieve D. C., Gaffney D. K. (2004), "Rapid involution and mobility of carcinoma of the cervix", Int J Radiat Oncol Biol Phys, 58 (2), 625 - 30. 7. Luo Huanli, Jin Fu, Yang Dingyi, et al. (2016), "Interfractional variation in bladder volume and its impact on cervical cancer radiotherapy: Clinical significance of portable bladder scanner", Medical Physics, 43 (7), 4412 - 4419. 8. Taylor A., Powell M. E. (2008), "An assessment of interfractional uterine and cervical motion: implications for radiotherapy target volume definition in gynaecological cancer", Radiother Oncol, 88 (2), 250 - 7. 9. Wang Q, Lang J, Song Y, et al. (2012), "Evaluation of intra-and interfraction movement of the cervix and the uterine body during intensity modulated radiation therapy", International Journal of Radiation Oncology• Biology• Physics, 84 (3), S446. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 26 ABSTRACT Portable ultrasound assessment of bladder volume to control target organ displacement in intensity modulated radiotherapy of cevical cancer Purpose: Investigate the interfraction change in bladder volume through radiotherapy with portable ultrasound and cone beam CT, and evaluate the displacement of the base of the uterus through radiation therapy and its correlation with the deviation of bladder volume. Materials and Methods: Retrospective study 40 cases of patients diagnosed with cervical cancer and received IMRT treatment at Ho Chi Minh City Oncology Hospital from January 1, 2019 to December 31, 2019. Results: On portable ultrasound, the bladder dimensions were 7.1 ± 1.0cm (anterior-posterior); 6.2 ± 1.3cm (superior-inferior); 7.8 ± 1.0cm (left-right). These dimentions are relatively constant during radiotherapy. On cone beam CT, the mean bladder dimensions were 7.4 ± 1.5cm (anterior-posterior); 7.0 ± 2.4 cm (superior-inferior); 9.3 ± 1.3cm (left-right). Bladder size on CT scan was largest at simulation and first radiation therapy fraction, decreasing with subsequent radiation therapy. The bladder dimensions on ultrasound did not correlate with corresponding dimensions on CT. The deviation of the base of the uterus compared to the simulated CT pooled for the anterior-posterior direction was 3.1 ± 9.6mm; on the superior-inferior direction is -6.7 ± 14.3mm; to the left- right direction is -0.3 ± 7.0mm. Deviation of the uterine base point correlated with bladder size on CT cone beam. The base of the uterus tends to move forward and downward, consistent with the decreasing bladder dimensions during radiation therapy. Deviation of the base of the uterus did not correlate with bladder sizes measured on ultrasound Conclusions: The current role of portable ultrasound is to quickly distinguish patients with sufficient bladder volume before cone beam CT scans in intensity modulation radiotherapy of cervical cancer. Portable ultrasound is not able to replace cone beam CT to control target organ displacement during daily radiation therapy. Therefore, the pre-treatment check cone beam CT still needs to be done routinely.
File đính kèm:
- sieu_am_danh_gia_the_tich_bang_quang_nham_kiem_soat_di_lech.pdf