Sáng kiến kinh nghiệm Tạo môi trường học tốt hơn cho trẻ có cá tính mạnh
Hơn lúc nào hết ngành Giáo dục đang đứng trước nhiều thách thức. Chúng ta
đang thực sự được quan tâm sâu sắc, thậm chí là soi xét kỹ lưỡng của toàn xã
hội về các vấn đề của ngành giáo dục, trong đó phải kể đến là các vấn đề mang
tính chất “sự cố”.
Không như các ngành nghề khác trong xã hội, ngành giáo dục là một ngành
nghề đặc biệt mà sản phẩm của chúng ta là những con người, những sản phẩm
có giá trị hơn bất cứ sản phẩm tiên tiến hiện đại nào khác hiện nay. Tuy nhiên
những người thầy, người cô, những nhà giáo đang gặp rất nhiều khó khăn nảy
sinh mà nếu không thực sự linh hoạt sẽ không theo kịp sự vận động, thay đổi của
xã hội hiện tại.
Xã hội có sự thay đổi, tư duy con người có sự thay đổi. Nếu như trước đây
người thầy được coi là cha là mẹ thì giờ đây người thầy đóng vai trò như một sứ
giả tri thức, một người định hướng, thậm chí là một người bạn.
Nếu trước đây người thầy chỉ dạy học theo sách vở, giáo trình thì người thầy
bây giờ là người vừa phải tuân thủ kiến thức chuẩn, kỹ năng chuẩn, vừa không
ngừng cập nhật, chọn lọc những thông tin, sự vận động của xã hội để đưa vào
giảng dạy, nếu không sẽ lạc hậu, sẽ nhàm chán, sẽ không phát huy được tính tích
cực của học sinh.
Nếu trước đây khi trò sai, người thầy được nghiêm khắc phê bình, được xử
phạt, được sự ủng hộ hoàn toàn từ xã hội, phụ huynh, được sự nể và sợ của học
trò.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Tạo môi trường học tốt hơn cho trẻ có cá tính mạnh
1 PHẦN THỨ NHẤT MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Hơn lúc nào hết ngành Giáo dục đang đứng trước nhiều thách thức. Chúng ta đang thực sự được quan tâm sâu sắc, thậm chí là soi xét kỹ lưỡng của toàn xã hội về các vấn đề của ngành giáo dục, trong đó phải kể đến là các vấn đề mang tính chất “sự cố”. Không như các ngành nghề khác trong xã hội, ngành giáo dục là một ngành nghề đặc biệt mà sản phẩm của chúng ta là những con người, những sản phẩm có giá trị hơn bất cứ sản phẩm tiên tiến hiện đại nào khác hiện nay. Tuy nhiên những người thầy, người cô, những nhà giáo đang gặp rất nhiều khó khăn nảy sinh mà nếu không thực sự linh hoạt sẽ không theo kịp sự vận động, thay đổi của xã hội hiện tại. Xã hội có sự thay đổi, tư duy con người có sự thay đổi. Nếu như trước đây người thầy được coi là cha là mẹ thì giờ đây người thầy đóng vai trò như một sứ giả tri thức, một người định hướng, thậm chí là một người bạn. Nếu trước đây người thầy chỉ dạy học theo sách vở, giáo trình thì người thầy bây giờ là người vừa phải tuân thủ kiến thức chuẩn, kỹ năng chuẩn, vừa không ngừng cập nhật, chọn lọc những thông tin, sự vận động của xã hội để đưa vào giảng dạy, nếu không sẽ lạc hậu, sẽ nhàm chán, sẽ không phát huy được tính tích cực của học sinh. Nếu trước đây khi trò sai, người thầy được nghiêm khắc phê bình, được xử phạt, được sự ủng hộ hoàn toàn từ xã hội, phụ huynh, được sự nể và sợ của học trò. Thì hiện nay, trước sự phát triển ồ ạt của thông tin đại chúng, của mạng xã hội, của những ý kiến số đông nhưng chưa hẳn đã khách quan, trước mọi sự việc được coi là sự cố nghề nghiệp thì người thầy luôn là người bị chỉ trích đầu tiên, người thầy luôn là người nhận những hậu quả nặng nề sau cùng. 2 Dư luận luôn chĩa mũi nhọn, những câu hỏi Tại sao..., Do đâu...mà thầy cô lại để xảy ra sự việc đáng tiếc đó mà không hiểu rằng cùng với sự phát triển của xã hội mà quyền con người, quyền của học sinh và phụ huynh quá cao, đã hình thành nên những nhóm phụ huynh phó mặc việc giáo dục con em mình cho nhà trường thầy cô, hình thành những nhóm học sinh còn thiếu hiểu biết và cư sử sai nhưng vẫn được bênh vực bảo vệ. Chúng ta là những người làm giáo dục, chúng ta không có quyền từ chối những học sinh chưa ngoan, chưa giỏi mà chúng ta phải xác định đó mới là nhiệm vụ giáo dục quan trọng hiện nay, giúp giáo dục hình thành nhân cách sống, uốn nắn và xây dựng xã hội của những công dân tương lai tốt. Vậy chúng ta phải làm thế nào khi trong lớp học đa số học sinh có ý thức học thì có một vài học sinh đặc biệt, cách suy nghĩ, hành sử còn chưa đúng? Việc dạy các em học sinh đó như các bạn khác là rất khó, thậm chí còn ảnh hưởng xấu với nhóm học sinh đa số đó, lại càng không thể bỏ qua, hay dọa phạt liên tục với các em này. Trong suốt thời gian ra trường thực dạy, đứng trên bục giảng trải nghiệm 10 năm thực tế, tôi luôn gặp những học sinh đặc biệt này, hầu như ở lớp nào cũng có, với những mức độ đặc biệt khác nhau. Nhưng điều đáng nói là hầu hết các em học sinh này đều rất nhanh nhẹn và thông minh, khác hẳn với các em học sinh bị khiếm khuyết về thần kinh hay còn gọi là bệnh lí, các em học sinh này đều khá năng động, chủ động mà tôi gọi là những em học sinh có cá tính mạnh. Đối với những học sinh này nếu dạy học theo cách thông thường là rất khó, việc các em khó ngồi yên nghe giảng, thường quậy phá bạn bè, thầy cố, thường nghĩ ra nhiều chiêu trò và it quan tâm đến vấn đề thầy cô giảng, hay gây khó khăn cho thầy cố giáo và các bạn trong các giờ học thông thường. Tôi nghĩ chúng ta có thể đã lãng phí những nhân tố đặc biệt cho những cách giáo dục đại trà, cần có cách giáo dục đặc biệt phù hợp, một môi trường học phù hợp với các em, vì vậy tôi mạnh dạn viết và đề cập đến vấn đề : “Tạo môi trường học tốt hơn cho trẻ có cá tính mạnh” trong sáng kiến kinh nghiệm 3 của mình, để việc học đối với các em có kết quả tốt hơn, và cũng tránh các sự cố không mong muốn đối với các học sinh này trong các giờ học. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Mục tiêu của giáo dục hiện nay cũng như bất cứ giai đoạn phát triển nào của xã hội là giáo dục học sinh toàn diện về các mặt: Học lực, hạnh kiểm, văn, thể, mĩ và kĩ năng cơ bản của con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Đó là tạo ra những con người hữu ích cho xã hội, những con người và thế hệ có tư cách đạo đức, có kiến thức và kĩ năng, những con người có sức khoẻ, tinh thần học tập cầu tiến, tính năng động sáng tạo trong công việc. Người ta ai cũng có một tiềm năng to lớn. Nhưng có người suốt cả đời không biết phát huy tiềm năng của mình bắt đầu từ đâu để nó đưa đến thành công. Cho nên họ đành bỏ phí, để trôi đi biết bao nhiêu điều tốt đẹp trong đời. Nhiệm vụ của giáo dục là giúp con người ta phát huy những tiềm năng của họ, người thầy không những định hướng, giúp đỡ học sinh phát huy tiềm năng sẵn có còn phát hiện, khơi gợi, động viên nhưng giá trị tiềm ẩn mà thực tế nhiều khi bản thân người học chưa nhận thấy. Hiện nay, phát triển bền vững được xác định là chiến lược ưu tiên hàng đầu của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Một trong những cơ sở, nền tảng quan trọng nhất để thực hiện chiến lược phát triển đó là nguồn lực con người. Lịch sử phát triển xã hội đã chứng minh rằng, trong mọi giai đoạn, con người là yếu tố đóng vai trò quyết định sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã hoàn toàn đúng khi khẳng định rằng, sự phát triển của xã hội không phải do bất kỳ một lực lượng siêu nhiên nào, mà chính con người đã sáng tạo nên lịch sử của mình - lịch sử xã hội loài người. Nhận thức rõ vai trò to lớn của nguồn lực con người, trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn 4 mạnh đến nguồn lực con nguời, coi đó là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất cho sự phát triển nhanh và bền vữ ... một môi trường học tập này cái khó khăn nhất đối với mô hình trường , lớp “chuyên tiếp nhận học sinh cá biệt” là trình độ học sinh không đồng đều, thường các em bị mất kiến thức cơ bản ở những lớp dưới, khả năng tự học, tư duy kém hơn các học sinh khác. Hơn nữa, hiện có tỉ lệ khá cao học sinh nhóm này là con nhà nghèo, khó khăn, trong đó có 3-4% học sinh chịu cảnh li tán. Đó là mặt trái của kinh tế thị trường, theo đó tỉ lệ học sinh thôi học cao hơn nhiều so với cac trường trong thành phố. Thực chất hiện giờ có thể nói nghề giáo là một nghề nguy hiểm, nếu làm một phép so nhỏ với ngành Y: số học sinh mà mỗi giáo viên tiếp xúc hàng ngày trung bình 3 tiết/ buổi tương đương khoảng 120 học sinh, thời gian làm việc ngoài ở trường còn cần rất nhiều thời gian mang công việc về nhà giải quyết. Đối tượng tiếp xúc của các y bác sĩ là những người bệnh yếu ốm, còn đối tượng 19 tiếp xúc và phục vụ của giáo viên là những người khỏe mạnh, những học sinh đang phát triển, tâm sinh lí phức tạp, thậm chí luôn dư năng lượng để nghĩ ra những trò nghịch ngợm nông nổi. Bên cạnh đó thu nhập của ngành giáo dục còn rất hạn chế nhưng việc làm thêm chính đáng thì luôn bị phân biệt đối xử so với các ngành khác, thậm chí còn bị coi đó là sai trái và bị cấm đoán. Điều này đã làm ảnh hưởng không ít đến tâm lí nghề nghiệp của những người làm sư phạm. 1.3.2 Về thực trạng học của học sinh: Nếu như trước đây môi trường xã hội trong lành, sạch sẽ, ít có tác động xấu đến trẻ thì nay lại diễn biến phức tạp, cái ác, cái xấu nảy sinh ngày càng nhiều, những tiêu cực, mặt trái của cơ chế thị trường ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành nhân cách, đạo đức thanh thiếu niên, học sinh. Ai cũng phải thừa nhận rằng, bây giờ làm công tác giáo dục đạo đức học sinh ở trường trở nên phức tạp, nhiều khó khăn, thử thách. Bản thân học sinh cũng là đối tượng gặp khó khăn trước những cám dỗ phức tạp của xã hội. Đặc biệt với những trẻ năng động, tò mò thích tìm hiểu như những trẻ có cá tính mạnh lại đang trong độ tuổi phát triển, luôn tò mò thích khám phá. Hơn nữa vai trò, trách nhiệm, sự phối hợp trong việc giáo dục con cái của nhiều phụ huynh đang có nhiều “vấn đề”. Phụ huynh mải làm việc, mải kiếm tiền nên ít có thời gian chăm sóc, quan tâm tới những diễn biến tâm lý, nắm bắt tính cách cũng như sự thay đổi bất thường của con cái. Không ít gia đình đã khoán việc giáo dục con cái của họ cho nhà trường. Hơn nữa, thời nay, mỗi gia đình đều ít con, chỉ từ 1-2 con nên nhiều phụ huynh thương con, chiều chuộng con quá mức, coi con là “cục vàng”, muốn gì được đó đã khiến trẻ hư hỏng, coi thường mọi thứ. Phương pháp giáo dục hiện đại để định hướng con cái đi theo chiều tự do thì con cái, học sinh làm loạn xã hội, làm khổ nhà trường là điều rõ ràng. 20 CHƯƠNG 2 NHỮNG GIẢI PHÁP THỰC HIỆN VIỆC XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG HỌC TẬP TỐT HƠN CHO TRẺ CÓ CÁ TÍNH MẠNH 1. ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN Bước 1: Phải đổi mới cách soạn bài có định hướng phát triển năng lực cho học sinh. Giáo án được xem là bản kế hoạch dạy học của giáo viên, được trình bày bằng những đề mục, câu chữ ngắn gọn, rõ ràng theo một trình tự hợp lí và hình thức đặc trưng của giáo án, bao gồm cả hoạt động của giáo viên và học sinh. Vì vậy trong giáo án phải chú trọng thiết kế các hoạt động học tập của học sinh, tăng cường tổ chức các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ, chuẩn bị phiếu học tập. Tăng cường giao tiếp giữa thầy và trò, huy động vốn hiểu biết, kinh nghiệm của từng học sinh và các lớp để xây dựng bài soạn. Lựa chọn nội dung thích hợp: Những nội dung đưa vào chương trình phổ thông được chọn lọc từ khối lượng tri thức khổng lồ của khoa học, đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn, tính giáo dục, tính phổ thông của chương trình. Tuy nhiên, khối lượng tri thức phong phú nhưng thời gian lại có hạn (45 phút), nhưng yêu cầu đảm bảo tính khoa học, tính chính xác là cần thiết và phải đảm bảo tính vừa sức với học sinh. Vì vậy: Phải đặt ra những câu hỏi có tính kích thích sự tò mò, ham hiểu biết, có nhiều ý nghĩa về thực tế, đặt ra vấn đề học tập dưới dạng mâu thuẩn, giữa các học sinh đã biết và học sinh chưa biết. Tiêu chuẩn trường học giảng dạy có hiệu quả theo mô hình tiên tiến thế giới, từ đó có tiêu chuẩn riêng để giáo viên có cách dạy phù hợp với học sinh của mình. Từ những đặc thù riêng trên, nhà trường cố gắng tập trung làm tốt nhiệm vụ giúp học sinh biết cách tự học (giúp học sinh thích học, giúp học sinh biết cách học, giúp học sinh có nề nếp học, giúp các em học có hiệu quả). Đó là những phương pháp giáo dục để tạo động lực cho học sinh. Môi trường giáo dục thuận lợi sẽ là điều kiện quyết định phát triển nhân cách học trò. Những nhân cách này được tổng hợp thành các nguyên tắc ứng xử riêng của học sinh 21 nhà trường, trong đó nhấn mạnh tới việc nhà sư phạm phải biết đưa ra yêu cầu, giúp cho học sinh thực hiện dần từng bước một, chứ không phải thực hiện luôn 100%. Để xây dựng một môi trường học trở thành địa chỉ tin cậy của nhiều gia đình có con cá biệt theo học. Triết lí của nhà trường được xã hội đồng tình cần làm được những điều quan trọng cho học sinh cá biệt, để giúp cho học sinh tự thay đổi mình. Trong đó khuyến khích học sinh chia sẻ, có quyền biện hộ cho những việc làm của mình, nhưng đồng thời cũng đặt lại vấn đề như vậy thì làm thế nào để thay đổi. Ngoài ra cần thường xuyên giáo dục học sinh để tạo nên một thói quen tốt, đưa chương trình giá trị sống và kĩ năng sống vào nhà trường. Ngoài kỉ luật mang tính áp đặt thì trường cũng áp dụng kỉ luật tự giác để mong các em phát triển nhân cách một cách bền vững hơn. Bước 2: Cần tách riêng đối tượng học sinh nghịch ngợm ra khỏi lớp học thông thường, trong trường hợp học sinh đó không thể ngồi yên để học tập, luôn gây rối lớp học cần có một phòng học riêng, cử giáo viên trực ( theo phân công tiết trực đủ định biên 19 tiết) để quản lí, nhắc nhở và giáo dục về thái độ ý thức, cần chọn những giáo viên có trách nhiệm uy tín nhất để thường xuyên trực lớp này, để chuyên nhận học sinh mất trật tự, gây rối, không chú ý học bài sau nhiều lần nhắc nhở của thầy cô giáo bộ môn đang giảng dạy mà học sinh không ổn định được. Trước mắt đó là để không làm ảnh hưởng đến các học sinh khác học tập, sau là nhắc nhở dạy dỗ giáo dục về thái độ ý thức theo kiểu mưa dầm thấm lâu. Bước 3: Cần tính đến một môi trường học nghiêm túc thực sự phù hợp với đối tượng học sinh này, với những giáo trình dạy học đặc trưng theo hướng như : Tăng cường các môn học năng khiếu, các môn học thể chất, các môn học tự chọn hoặc ngay cả các môn học theo định hướng nghề nghiệp. 22 2. ĐỐI VỚI PHỤ HUYNH VÀ BẢN THÂN HỌC SINH Bản thân phụ huynh cẩn hiểu và ủng hộ việc tạo một môi trường học tập phù hợp nhất với khả năng tính cách con em mình, phụ huynh thực sự được thấy môi trường học tập mới này là môi trường học tập dành cho trẻ có cá tính mạnh, nhanh nhẹn và có tính độc lập, cao chứ hoàn toàn không phải mô hình giáo dục hà khắc như mô hình giáo dục kiểu giáo dưỡng hay trung tâm giáo dục thường xuyên. Thay vì cứ cho các con ngồi học theo cách truyền thống mà các em không thích, không học làm lãng phí thời gian, công sức tiền bạc và cả trí tuệ cho những định hướng khác tốt hơn 3. KẾT QUẢ Có nội dung phiếu điều tra kèm theo. CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM Thực nghiệm sư phạm là phương pháp thu nhận thông tin về sự thay đổi số lượng và chất lượng trong nhận thức và hành vi của các đối tượng giáo dục do người nghiên cứu tác động đến chúng bằng một số tác nhân điều khiển và đã được kiểm tra. Thực nghiệm sư phạm được dùng khi đã có kết quả điều tra, quan sát các hiện tượng giáo dục, cần khẳng định lại cho chắc chắn các kết luận đã được rút ra. Thực nghiệm sư phạm cũng là phương pháp được dùng để kiểm nghiệm khi nhà khoa học sư phạm, nhà nghiên cứu, đề ra một giải pháp về phương pháp giáo dục, một phương pháp dạy học mới, một nội dung giáo dục hay dạy học mới, một cách tổ chức dạy học mới, một phương tiện dạy học mới.... Thực nghiệm sư phạm là so sánh kết quả tác động của nhà khoa học lên một nhóm lớp - gọi là nhóm thực nghiệm - với một nhóm lớp tương đương không được tác động - gọi là nhóm đối chứng. Ðể có kết quả thuyết phục hơn, 23 sau một đợt nghiên cứu, nhà nghiên cứu có thể đổi vai trò của hai nhóm lớp cho nhau, nghĩa là, các nhóm thực nghiệm trở thành các nhóm đối chứng và ngược lại. Vì là thực nghiệm trên con người nên từ việc tổ chức đến cách thực hiện phương pháp và lấy kết quả đều mang tính phức tạp của nó. Thực nghiệm khoa học được tiến hành xuất phát từ một giả thuyết (từ thực tế) hay một phán đoán (bằng tư duy) về một hiện tượng giáo dục để khẳng định hoặc bác bỏ chúng.. Thực nghiệm được tiến hành để kiểm tra, để chứng minh tính chân thực của giả thuyết vừa nêu. Như vậy, thực nghiệm thành công sẽ góp phần tạo nên một lý thuyết mới, qui luật mới hoặc một sự phát triển mới trong giáo dục Kế hoạch thực nghiệm đòi hỏi phải miêu tả hệ thống các biến số quy định diễn biến của hiện tượng giáo dục theo một chương trình. Đây là những biến số độc lập, có thể điều khiển được và kiểm tra được. Biến số độc lập là những nhân tố thực nghiệm, nhờ có chúng mà những sự kiện diễn ra khác trước. Sự diễn biến khác trước do các biến số độc lập quy định gọi là biến số phụ thuộc, đó là hệ quả sau tác động thực nghiệm. Theo mục đích kiểm tra giả thiết, các nghiệm thể được chia làm hai nhóm: nhóm thực nghiệm và nhóm kiểm chứng (đối chứng). Nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng được lựa chọn ngẫu nhiên có số lượng, trình độ ngang nhau và được kiểm tra chất lượng ban đầu để khẳng định điều đó. Nhóm thực nghiệm sẽ được tổ chức thực nghiệm bằng tác động của những biến số độc lập hay gọi là nhân tố thực nghiệm, để xem xét sự diễn biến của hiện tượng có theo đúng giả thuyết hay không? Nhóm đối chứng là nhóm không thay đổi bất cứ một điều gì khác thường, nó là cơ sở để so sánh kiểm chứng hiệu quả những thay đổi ở nhóm bên. Nhờ có nó mà ta có cơ sở để khẳng định hay phủ định giả thuyết của thực nghiệm. Với đề tài này nhóm nhóm đối chứng là nhóm học sinh nghịch ngợm có cá tính mạnh nhưng không tác động phương pháp nghiên cứu nào, và nhận thấy 24 ngày này qua ngày khác các em vẫn ngồi trên ghế nhà trường mà không định hướng được mình sẽ tiếp tục học như thế nào cho hiệu quả. Nhóm thực nghiệm là nhóm các học sinh thường xuyên được tách ra để áp dụng các phương pháp tác động. Từ đó có sự so sánh và kết quả có sự khác biệt khá lớn. PHẦN THỨ BA KẾT LUẬN CHUNG VÀ ĐỀ XUẤT 1. KẾT LUẬN CHUNG Sáng kiến này mới chỉ dừng lại ở bước 2 của phương pháp thực hiện, tuy nhiên với những học sinh thường xuyên được tách riêng và nhắc nhở sẽ giúp bản thân lớp học, tiết học đối với giáo viên bộ môn và các bạn học sinh khác được tập trung hơn, không bị phân tâm bởi những trò nghịch quậy của các bạn nói trên. Bản thân các bạn học sinh được tách riêng, thầy cô gặp gỡ nhắc nhở nhẹ nhang, phân tích trái phải, ban đầu học sinh còn bảo thủ, nhưng dẫn dần đã hiểu hơn và có sự thay đổi thái độ cá nhân tích cực. Kết quả phiếu điều tra: Số phiếu phát ra: 60 Số phiếu thu lại: 58 Trong đó đáng chú ý là 92% số học sinh được hỏi trả lời : Thích học nhưng chưa có phương pháp học hiệu quả. Và 73% ý kiến cho rằng chưa xác định được mục đích học tập rõ ràng, không biết học để làm gì. Trong các giờ học khi không tập trung được các em thường nói chuyện hoặc ngủ. 25 2. ĐỀ XUẤT 1. Về phía nhà trường: BGH cho quy hoạch một phòng học riêng đặc biệt để chuyên nhận các học sinh ở các lớp còn chưa tập trung, gây mất trật tự xuống. Phòng học này đầy đủ bàn ghế và có giáo viên trực, phòng học này không chú trọng học môn nào mà trước hết chỉ với mục đích tách học sinh cá tính mạnh ra để lớp học tập trung được, bản thân giáo viên trực chính là các giáo viên được phân công trực theo quy định 19 tiết/tuần. Giáo viên trực có thời gian tâm sự, hỏi han, nhắc nhở, giáo dục tư tưởng cho học sinh. 2. Về phía nghành giáo dục: Quan tâm hơn nữa đến đời sống vật chất, tinh thần của đội ngũ nhà giáo. Xây dựng môi trường học có dạng mô hình chất lượng cao, nó khác trường chất lượng cao là không quá chú trọng đến chất lượng giáo dục mũi nhọn, khác mô hình trung tâm giáo dưỡng ở chỗ thực sự đánh giá cao các em, các em chưa phải là đối tượng hư hỏng cần áp dụng các biện pháp mạnh mà chủ yếu áp dụng liệu pháp tâm lí. Có thể là một khoa đặc biệt trong mô hình trường chất lượng cao Thanh Xuân, với đầy đủ tiện ích, chất lượng học tập tốt nhất về cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên, đặc biệt chú trọng môn thể thao, thể chất, kỹ năng sống và hướng nghiệp. 3. Về phía phụ huynh học sinh: Để xây dựng một môi trường đặc biệt cho những đối tượng đặc biệt thì phụ huynh học sinh không thể đứng ngoài cuộc, bản thân phụ huynh phải ý thức được việc đầu tư cho con em mình ngay từ bây giờ là có lợi hơn cả cho gia đình và xã hội, một môi trường học hiện đại có quy củ nhưng có tính định hướng tương lai một cách chuyên nghiệp, học và vận động ngang nhau để có môi trường tốt nhất cho các em sử dụng năng lượng dồi dào của mình vào những môn học, trò chơi bổ ích. 26 3. MỤC LỤC Phần Nội dung Trang 1 MỞ ĐẦU 1- Lí do chọn đề tài 2- Mục đích nghiên cứu 3- Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4- Giả thuyết khoa học 5- Phương pháp nghiên cứu 6- Cơ sở, phạm vi, thời gian nghiên cứu 1 3 4 5 6 6 2 QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu 1.1. Sơ lược lịch sử của vấn đề nghiên cứu 1.2. Cơ sở lí luận của đề tài 1.3. Thực trạng dạy học ở trường THCS 1.3.1 Thực trạng dạy học ở trường trung học cơ sở 1.3.2 Về thực trạng học của học sinh: Chương 2: Giải pháp thực hiện Chương 3: Thực nghiệm sư phạm 8 8 9 18 20 22 3 KẾT LUẬN CHUNG VÀ ĐỀ XUẤT 24 27
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_tao_moi_truong_hoc_tot_hon_cho_tre_co.pdf