Phân hạng thị trường chứng khoán Việt Nam - Những vấn đề đặt ra trong thời gian tới
Phân hạng thị trường là cách thức sắp xếp các thị trường chứng khoán (TTCK) vào
các nhóm phù hợp về các tiêu chí cơ bản như mức độ phát triển của nền kinh tế,
sự ổn định về chính trị, quy mô và tính thanh khoản của thị trường, hiệu quả vận
hành của thị trường, khả năng lưu chuyển dòng vốn Việc nghiên cứu và phân
hạng TTCK trên thế giới, ngoài mục tiêu xác định rõ vị trí của từng thị trường trong
bức tranh tổng thể, còn giúp xác định các điều kiện để các thị trường định hướng
phát triển trong tương lai, tiến tới nâng hạng thị trường nhằm thu hút nguồn vốn
đầu tư nước ngoài, tăng tính thanh khoản của thị trường và cuối cùng là thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Tính đến thời điểm hiện tại, cả ba tổ chức đánh giá phân hạng
thị trường gồm MSCI, FTSE và S&P đều xếp hạng Việt Nam ở mức thị trường cận
biên. Tuy nhiên, ở một số tiêu chí xếp hạng, TTCK Việt Nam đã có những cải thiện
đáng kể bên cạnh những tiêu chí chưa đủ đánh giá nâng hạng. Bài viết làm rõ về độ
mở và mức độ tiếp cận thông tin của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng
khoán Việt Nam cũng như các hạn chế về quy và thanh khoản thị trường nhằm đưa
ra những vấn đề cần chú trọng trong thời gian tới để TTCK Việt Nam đạt được mục
tiêu nâng hạng
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân hạng thị trường chứng khoán Việt Nam - Những vấn đề đặt ra trong thời gian tới
36 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 219- Tháng 8. 2020 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Phân hạng thị trường chứng khoán Việt Nam- Những vấn đề đặt ra trong thời gian tới Trần Thị Xuân Anh Phạm Tiến Mạnh Trần Anh Tuấn Ngày nhận: 11/02/2020 Ngày nhận bản sửa: 21/02/2020 Ngày duyệt đăng: 17/03/2020 Phân hạng thị trường là cách thức sắp xếp các thị trường chứng khoán (TTCK) vào các nhóm phù hợp về các tiêu chí cơ bản như mức độ phát triển của nền kinh tế, sự ổn định về chính trị, quy mô và tính thanh khoản của thị trường, hiệu quả vận hành của thị trường, khả năng lưu chuyển dòng vốn Việc nghiên cứu và phân hạng TTCK trên thế giới, ngoài mục tiêu xác định rõ vị trí của từng thị trường trong bức tranh tổng thể, còn giúp xác định các điều kiện để các thị trường định hướng phát triển trong tương lai, tiến tới nâng hạng thị trường nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tăng tính thanh khoản của thị trường và cuối cùng là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tính đến thời điểm hiện tại, cả ba tổ chức đánh giá phân hạng thị trường gồm MSCI, FTSE và S&P đều xếp hạng Việt Nam ở mức thị trường cận biên. Tuy nhiên, ở một số tiêu chí xếp hạng, TTCK Việt Nam đã có những cải thiện Vietnam stock market classification- Issues raised in the near future Abstract: Market classification is method of arranging a stock market into a suitable group which is based on basic criteria such as the level of economics development, political stability, scale and liquidity of market as well as performance and capital flow of the market. The purposes of market research and classification market are realizing the current positions of the markets to help them upgrade in a higher market classification, attracting foreign capital, enhancing market liquidity and improving economy in the future. Up to now, MSCI, FTSE and S&P have ranked Vietnam at frontier market. However, in Vietnam stock market, some important criteria have been significantly improved recently, beside others needs to upgrade. This paper is going to insightful analyzed these current situations to find out the issues which are needed to be focused to improvement in near future to enhance Vietnam stock market classification. Keywords: market classification, stock market, frontier market, emerging market Anh Thi Xuan Tran Email: anhttx@hvnh.edu.vn Manh Tien Pham Email: manhpham@hvnh.edu.vn Tuan Anh Tran Email: trantuan@hvnh.edu.vn Organization of all: Faculty of Finance, Banking Academy of Vietnam Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng TRẦN THỊ XUÂN ANH - PHẠM TIẾN MẠNH - TRẦN ANH TUẤN 37Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng đáng kể bên cạnh những tiêu chí chưa đủ đánh giá nâng hạng. Bài viết làm rõ về độ mở và mức độ tiếp cận thông tin của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như các hạn chế về quy và thanh khoản thị trường nhằm đưa ra những vấn đề cần chú trọng trong thời gian tới để TTCK Việt Nam đạt được mục tiêu nâng hạng. Từ khoá: phân hạng thị trường, thị trường chứng khoán, thị trường cận biên, thị trường mới nổi 1. Đặt vấn đề Việc phân hạng thị trường chứng khoán (TTCK) trên thế giới hiện nay được thực hiện bởi ba tổ chức tài chính lớn gồm MSCI, FTSE Russell, S&P Down Jone. Đây là những tổ chức chuyên xây dựng các bộ chỉ số về TTCK với mục đích hỗ trợ các nhà đầu tư trên thế giới đánh giá các cơ hội đầu tư trên thị trường quốc tế. Các tổ chức này thường phân chia thị trường thành ba nhóm chính, đó là nhóm thị trường phát triển; thị trường mới nổi và thị trường cận biên. Mỗi một tổ chức lại dựa trên các cơ sở, quan điểm, phương pháp luận riêng biệt khi đưa ra các tiêu chí phân loại thị trường của mình, nhưng nhìn chung có một số tiêu chí chung trong phân hạng thị trường được các tổ chức này sử dụng, đó là: (1) Quy mô thị trường; (2) Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài; (3) Khả năng tự do chuyển đổi ngoại tệ; (4) Phương thức thanh toán sau giao dịch; và (5) Giao dịch bán khống và cho vay chứng khoán trên thị trường. Việc phân hạng thị trường của từng tổ chức luôn có ý nghĩa nhất định đối với từng chủ thể tham gia thị trường trong việc theo đuổi và thực hiện các mục tiêu của mình. TTCK phát triển thường thuộc về các quốc gia đã phát triển. Đối với thị trường này, các điều kiện tài chính rất lý tưởng như có tính thanh khoản rất cao; hành lang pháp lý chặt chẽ, đầy đủ; quy mô thị trường vốn lớn; đặc biệt là người dân có mức thu nhập bình quân rất cao. Các quốc gia điển hình có TTCK được xếp hạng là phát triển như Mỹ, Canada, Đức, Anh, Australia, New Zealand, Nhật Bản Tuy nhiên trên thực tế, mỗi một quốc gia lại có những đặc thù TTCK riêng biệt, do đó trong một số trường hợp, một quốc gia có thể vừa được xếp hạng là thị trường phát triển, đồng thời được xếp hạng là thị trường mới nổi. Ví dụ, năm 2010 Hàn Quốc được xếp hạng là quốc gia có TTCK phát triển theo tiêu chuẩn của MSCI; nhưng nếu xét theo quy chuẩn của FTSE, quốc gia này lại được xếp vào TTCK mới nổi. Đối với TTCK mới nổi và thị trường cận biên, tiêu chuẩn để phân biệt có phần phức tạp hơn. Quốc gia có TTCK mới nổi, được hiểu là quốc gia đang trong quá trình tăng trưởng và phát triển nhanh, nhưng có mức thu nhập bình quân đầu người và mức độ phát triển của thị trường thấp hơn so với các quốc gia phát triển. Ví dụ như các nước trong nhóm BRICs, Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc. Thị trường cận biên được hiểu là thị trường bên trong (các tiêu chuẩn nhỏ hơn) của thị trường mới nổi. Có thể hiểu đơn giản, thị trường cận biên có thể là thị trường mới nổi, hoặc sắp trở thành thị trường mới nổi, nhưng thị trường mới nổi không thể là thị trường cận biên. Cụ thể hơn, thị trường cận biên có quy mô thị trường nhỏ hơn, có mức độ thanh khoản nhỏ hơn, có mức thu nhập bình quân đầu người thấp hơn so với Phân hạng thị trường chứng khoán Việt Nam- Những vấn đề đ ... n song vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra có thể ảnh hưởng tiêu cực đến cơ hội nâng hạng thị trường trong thời gian tới. Một là, mức độ mở cửa của TTCK Việt Nam chưa tương xứng với quy mô thị trường và còn khá thấp so với các nước trong khu vực. Nhóm nghiên cứu Trần Thị Xuân Anh (2019) khảo sát về mức độ mở cửa hội nhập của TTCK Việt Nam với các thị trường trong khu vực ASEAN và Châu Á, trong đó thị trường Thái Lan được chọn là benchmark cho khu vực ASEAN và thị trường Nhật Bản là benchmark cho khu vực Châu Á khi tính hệ số beta (beta coefficient) và beta hội tụ (beta convergence). Kết quả cho thấy thước đo hệ số beta (beta coefficient) là thước đo được kỳ vọng có giá trị ước lượng xấp xỉ 1 thể hiện mức độ mở cửa hội nhập cao của thị trường trái phiếu quốc gia nghiên cứu với thị trường khu vực, tuy nhiên hệ số beta ước lượng được cho các quốc gia được khảo sát, gồm cả Việt Nam, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan, chỉ đạt từ -0,5 tới 0,6 hàm ý mức độ mở cửa hội nhập ở mức thấp và trung bình (Biểu đồ 1). Mặc dù vậy, kể từ năm 2014, sau một giai đoạn (2011- 2013) duy trì ổn định quanh ngưỡng hội nhập thấp (-0,5 tới 0,2), mức độ mở cửa hội nhập thị trường trái phiếu của các quốc gia đã thể hiện xu hướng tăng rõ rệt, thể hiện triển vọng về giai đoạn hội nhập sâu rộng hơn của thị trường trái phiếu khu vực. Biểu đồ 1 cho thấy giá trị ước lượng hệ số beta của Việt Nam giai đoạn 2014- 2018 duy trì quanh ngưỡng 0 và 0,2, cho thấy mức độ mở cửa hội nhập tài chính với khu vực ở khía cạnh thị trường trái phiếu tương đối yếu và thấp nhất trong số các quốc gia nghiên cứu. Thậm chí, đánh giá mức độ mở cửa hội nhập của thị trường trái phiếu Việt Nam với thị trường Châu Á (đại diện bởi thị trường trái phiếu Nhật Bản) không đem lại kết quả có ý nghĩa thống kê, nghĩa là gần như không có sự liên kết với thị trường Châu Á. Kết quả ước lượng về hệ số beta và beta hội tụ cho thấy thị trường cổ phiếu của các nước Đông Nam Á (Indonesia, Malaysia, Phân hạng thị trường chứng khoán Việt Nam- Những vấn đề đặt ra trong thời gian tới 44 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020 Philippines, Thái Lan, Singapore, Việt Nam) trong nghiên cứu có mức độ mở cửa hội nhập, nhìn chung khả quan hơn mức độ mở cửa hội nhập của thị trường trái phiếu, ở mức trung bình tới cao so với thị trường cổ phiếu khu vực Châu Á và thế giới (Biểu đồ 2 & 3). Với trường hợp của Việt Nam, mặc dù thị trường cổ phiếu Việt Nam đạt được mức độ hội nhập so với thị trường khu vực và thị trường thế giới cao hơn tương đối so với mức độ hội nhập của thị trường trái phiếu, mức độ hội nhập thị trường cổ phiếu Việt Nam vẫn ở mức thấp hơn nhiều so với các thị trường khác trong khu vực. Ngoài ra, xét trong khung hội nhập của Quinn, Schindler và Toyoda (2011), Việt Nam thuộc về “nhóm quốc gia có chính sách mở cửa tài chính (thể hiện qua chỉ số KAOPEN) tuy nhiên lượng vốn luân chuyển thực tế thấp”. Đây cũng chính là đặc thù của các quốc gia kém phát triển với cơ sở hạ tầng kinh tế- tài chính chưa đủ mạnh để hấp thụ hiệu quả lợi ích của việc mở cửa hội nhập thị trường tài chính. Chính vì vậy, việc duy trì ổn định các cân đối vĩ mô đang được Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) thực hiện tốt, giúp tạo niềm tin cho cộng đồng đầu tư quốc tế. Quan trọng hơn, thị trường ngoại hối cần được tổ chức linh hoạt hơn để đáp ứng nhu cầu lưu chuyển dòng vốn của nhà đầu tư ra vào lãnh thổ Việt Nam, từ đó góp phần tăng cường độ mở TTCK. Hai là, khả năng tiếp cận TTCK Việt Nam -.6 -.4 -.2 .0 .2 .4 .6 I II III IV I II III IV I II III IV I II III IV I II III IV I II III 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Beta_Malaysia_Indonesia Beta_Philippines_Indonesia Beta_Singapore_Indonesia1 Beta_Thailand_Indonesia Beta_Vietnam_Indonesia Nguồn: Trần Thị Xuân Anh và cộng sự (2019) Biểu đồ 1. Hệ số beta (Beta Coefficient): Hội nhập thị trường trái phiếu khu vực TRẦN THỊ XUÂN ANH - PHẠM TIẾN MẠNH - TRẦN ANH TUẤN 45Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng đối với nhà đầu tư nước ngoài. Theo MSCI (2019), thị trường Việt Nam dù đã có cải thiện nhưng vẫn còn nhiều hạn chế đối với khả năng thâm nhập và tiếp cận thị trường dành cho khối ngoại. Hiện tại nhà đầu tư nước ngoài đã có thể tìm kiếm thông tin về TTCK, các quy định giao dịch và thông tin trên trang web của VSD bằng ngôn ngữ tiếng Anh. Bên cạnh đó, các báo cáo quan trọng như báo cáo tài chính, báo cáo thường niên, công bố thông tin giao dịch của doanh nghiệp bằng tiếng Anh cũng đã được nhiều doanh nghiệp chú trọng hơn. Tuy vậy, số lượng doanh nghiệp tuân thủ việc công bố các văn bản bằng tiếng Anh vẫn chưa thể gọi là nhiều. Trong năm 2017, số lượng doanh nghiệp niêm yết công bố báo cáo thường niên bằng tiếng Anh đạt 40 doanh nghiệp, tăng trưởng mạnh so với các năm trước đó. Dù vậy con số này vẫn còn khá ít nếu so với quy mô thị trường Việt Nam hiện tại. Nhằm cải thiện yếu tố này, thị trường Việt Nam đã có nhiều sự thay đổi lớn chỉ trong thời gian qua. Có thể kể đến như việc gia tăng khả năng tiếp cận cơ hội đầu tư dành cho khối ngoại thông qua kênh sản phẩm đầu tư Chứng quyền có bảo đảm giúp khối ngoại không bị giới hạn room nắm giữ chứng quyền trên tài sản cơ sở là các cổ phiếu thuộc nhóm Bluechip VN30. Điều này tạo ra lợi thế đầu tư so với nắm giữ cổ phiếu vốn bị giới hạn bởi quy định room ngoại. Sự ra đời của thị trường phái sinh trong tháng 8/2019 với sản phẩm đầu tư -0.4 -0.2 0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0 1.2 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Beta_China_MSCIAsia Beta_Indonesia_MSCIAsia Beta_S.Korea_MSCIAsia Beta_Malaysia_MSCIAsia Beta_Philippines_MSCIAsia Beta_Singapore_MSCIAsia Beta_Thailand_MSCIAsia Beta_Vietnam(HNX)_MSCIAsia Beta_Vietnam(VNI)_MSCIWorld Biểu đồ 2. Hệ số beta: Hội nhập thị trường cổ phiếu khu vực Nguồn: Trần Thị Xuân Anh và cộng sự (2019) Phân hạng thị trường chứng khoán Việt Nam- Những vấn đề đặt ra trong thời gian tới 46 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020 đầu tiên là Hợp đồng tương lai trên chỉ số cổ phiếu VN30-Index đã chính thức tạo cơ hội cho nhà đầu tư kiếm lời theo chiều giá giảm. Tuy nhiên quy mô của thị trường phái sinh vẫn còn rất hạn chế, do đó trong thời gian tới cần tiếp tục phát triển đa dạng thêm các sản phẩm phái sinh nhằm tăng sức hút của thị trường cũng như tạo các cơ hội để nhà đầu tư trong và ngoài nước thực hiện các chiến lược đầu tư khác nhau. Ba là, vấn đề về thanh toán bù trừ. Hiện nay Việt Nam vẫn là thị trường tiền mặt, nghĩa là phải có tiền trong tài khoản mới được giao dịch (pre-funding). Theo FTSE Russell, Việt Nam cần theo thông lệ quốc tế là thực hiện nhận cổ phiếu thì trả tiền (Delivery vs Payment - DvP), tức là chỉ cần kiểm tra số dư tiền vào ngày T+2 rồi thực hiện chuyển giao cổ phiếu và thanh toán, thay vì việc kiểm tra tài khoản và trừ tiền ngay tại thời điểm T+0. Nếu thay đổi được điểm này, TTCK Việt Nam sẽ tiến gần hơn tới thông lệ quốc tế. Bốn là, vấn đề quy mô và thanh khoản thị trường. Theo số liệu từ VSD, tổng số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán tại Việt Nam hiện nay vào khoảng hơn 2,23 triệu tài khoản, chỉ chiếm khoảng 2% dân số, đây được coi là tỷ lệ khá khiêm tốn. Bên cạnh đó, hiện nay số lượng các tài khoản do các nhà đầu tư cá nhân chiếm đa số (lên đến 99,4%, tính đến tháng 01/2019), sự tham gia của các nhà đầu tư cổ chức, đặc biệt là các quỹ đầu tư mạo hiểm còn hạn chế (Phạm Tiến Mạnh, 2019). Một điều đáng lưu tâm đó là tỷ trọng giao dịch của các -0.2 0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Beta_Indonesia_S&PGlobal100 Beta_Malaysia_S&PGlobal100 Beta_Philippines_S&PGlobal100 Beta_Singapore_S&PGlobal100 Beta_Thailand_S&PGlobal100 Beta_Vietnam(HNX)_S&PGlobal100 Beta_Vietnam(VNI)_S&PGlobal100 Biểu đồ 3. Hệ số beta: Hội nhập thị trường cổ phiếu thế giới Nguồn: Trần Thị Xuân Anh và cộng sự (2019) TRẦN THỊ XUÂN ANH - PHẠM TIẾN MẠNH - TRẦN ANH TUẤN 47Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng nhà đầu tư nước ngoài luôn thấp hơn rất nhiều so với toàn bộ thị trường. Đơn cử số liệu giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HOSE), tại năm 2011 tỷ lệ khối lượng mua chỉ đạt 13,68% (tương đương 23,37% giá trị), tỷ lệ khối lượng bán chỉ đạt 9,22% (tương đương 22,36% về giá trị); trong khi đó tỷ lệ mua-bán tương ứng tại HNX là 1,26% khối lượng mua (tương ứng 1,29% giá trị) và 1,23% khối lượng bán (tương ứng 1,28% giá trị); tại UPCOM là 1,08% khối lượng mua (tương ứng 2,03% giá trị) và 1,53% khối lượng bán (tương ứng 2,24% giá trị). Đến năm 2018, tại HOSE tỷ lệ khối lượng mua chỉ đạt 10,18% (tương đương 19,1% giá trị), tỷ lệ khối lượng bán chỉ đạt 6,77% (tương đương 19,44% về giá trị); trong khi đó tỷ lệ mua- bán tương ứng tại HNX là 2,45% khối lượng mua (tương ứng 3,79% giá trị) và 3,78% khối lượng bán (tương ứng 4,44% giá trị); tại UPCOM 6,99% khối lượng mua (tương ứng 15,64% giá trị) và 9,09% khối lượng bán (tương ứng 15,36% giá trị). Như vậy trong giai đoạn từ 2010- 2018, tỷ lệ về khối lượng và giá trị giao dịch của các nhà đầu tư nước ngoài tại TTCK Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn, vì thế vấn đề cần thiết đặt ra là thu hút hơn nữa được đối tượng nhà đầu tư nước ngoài, nhằm nâng cao tính thanh khoản của TTCK Việt Nam. Đối với vấn đề quy mô thị trường, theo số liệu từ World Bank, tỷ lệ vốn hoá TTCK Việt Nam so với GDP có sự tăng trưởng khá nhanh qua các năm, từ mức 19,15% năm 2011, đã tăng lên 54,1% năm 2018, Biểu đồ 4. Tỷ trọng mua-bán của nhà đầu tư nước ngoài so với toàn thị trường tại HOSE Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp Biểu đồ 5. Tỷ lệ vốn hóa thị trường chứng khoán so với GDP (%) của Việt Nam1 Nguồn: Data.worldbank.org (2020) 1 Số liệu do WB thống kê chỉ bao gồm giá trị vốn hóa thị trường của những công ty nội địa đang niêm yết trên SGDCK Phân hạng thị trường chứng khoán Việt Nam- Những vấn đề đặt ra trong thời gian tới 48 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020 và 78,6% năm 2019. Tuy nhiên, so với các quốc gia khác, tỷ lệ vốn hóa thị trường so với GDP ở Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn; ví dụ tại Malaysia là 160,25% năm 2010, 127,1% năm 2015 và 111% năm 2018; tại Ấn Độ, vốn hóa thị trường của những công ty trong nước niêm yết trên TTCK đã đạt 72,08% GDP vào năm 2015, tăng lên 76,63% năm 2018. Như vậy, muốn gia tăng vốn hóa thị trường, Việt Nam cần thiết khuyến khích, thúc đẩy các công ty niêm yết trên TTCK, đặc biệt cần đẩy nhanh và mạnh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, như Agribank, Vinachem, Mobifone, Viecm, Genco 1, Genco 2 Như vậy, trong thời gian qua, mặc dù TTCK Việt Nam đã có sự cố gắng rất nhiều trong việc cải thiện các chỉ số với mục đích nâng hạng từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi; tuy nhiên thực tế cho thấy, TTCK Việt Nam vẫn còn rất nhiều vấn đề cần phải lưu tâm, có thể kể đến đó là mức độ hội nhập về cổ phiếu của Việt Nam còn thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia trong khu vực; lượng vốn luân chuyển vẫn còn thấp, trong khi đó thị trường ngoại hối vẫn chưa cho thấy mức độ sôi động cần thiết khi so sánh với các quốc gia đã đạt được mức thị trường mới nổi. Ngoài ra, mức độ tiếp cận của nhà đầu tư nước ngoài đối với thị trường còn hạn chế, đặc biệt vấn đề tiếp cận thông tin về công ty niêm yết về ngôn ngữ tiếng Anh. Bên cạnh đó, TTCK Việt Nam còn nhiều hạn chế đối với thị trường phái sinh, khi sản phẩm còn chưa phong phú, đa dạng, chưa thực sự trở thành một kênh phòng chống rủi ro cho các nhà đầu tư; quy mô của thị trường và tính thanh khoản, đặc biệt là sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài so với tổng chung toàn thị trường vẫn còn nhiều hạn chế ■ Tài liệu tham khảo 1. Burnham, Gakidis, Wurgler- Investing in the Presence of Massive Flows: The case of MSCI Country Reclassifications- NBER Working Papers 2017 2. Databank.worldbank.org/source/world-development-indicators# 3. Dulieu.mbs.com.vn/vi/TransactionsForeign 4. FTSE Russell (2018)- FTSE Country Classification Process- March 2018 5. FTSE Russel (2019), FTSE Equity Country Classification Process 6. MSCI (2010) - MSCI Global Investable Market Indices Methodology – May 2010 7. MSCI (2015-2019) Global Market Accessibility Review 8. FTSE Russel (2017-2019), FTSE Equity Country Classification, Annual Report 9. MSCI (2019) Market Classification Framework 10. Nguyễn Quang Long (2015), Xếp hạng thị trường chứng khoán và giải pháp nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ủy Ban, Ủy Ban chứng khoán Nhà nước. 11. Pham Tien Manh (2019), Venture Capital Worldwide and Policy Implication for Vietnam, International Journal of Advanced Engineering and Management Research, 4(02), pp. 39-45. 12. S&P Dow Jones Indicates (2017), S&P Dow Jones Indicates’ 2017 Country Classification Consultant Results 13. S&P Dow Jones Indicates (2018), S&P Dow Jones Indicates’ 2018 Country Classification Consultant Results 14. S&P Dow Jones Indicates (2019), Country Classification Methodology 15. S&P Dow Jones Indicates (2019), S&P Dow Jones Indicates’ 2019 Country Classification Consultant Results 16. S&P Dow Jones Indicates (2019), S&P Emerging Markets Core Index Methodology 17. S&P Dow Jones Indicates (2020), S&P Frontier Indicates Methodology 18. Saidi, Prasad, Naik- From frontier to emerging: Does market reclassification matter- SSRN Electric Journal 2010 19. Standard &Poor’s- Country Classification Methodology- August 2019 20. Trần Thị Xuân Anh và cộng sự (2019), Đánh giá định lượng mức độ hội nhập của thị trường tài chính Việt Nam và hàm ý chính sách giai đoạn 2017-2020, Đề tài cấp ngành ĐTNN 012/18, NHNN
File đính kèm:
- phan_hang_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_nhung_van_de_dat_r.pdf