Phác thảo hành trình của lí thuyết chấn thương trong lịch sử tư tưởng phương tây
Bài viết phác thảo lịch sử nghiên cứu, phê bình lí thuyết chấn thương – một trường phái lí
thuyết xuất hiện ở Hoa Kì vào những năm 90 của thế kỉ XX, có đời sống vô cùng năng động ở phương
Tây cho đến thời điểm này. Với nỗ lực khái quát những xu hướng nghiên cứu lí thuyết chấn thương
qua từng thời kì, bài viết mô tả sự vận hành từ quan niệm về chấn thương cho đến việc xây dựng mô
hình chấn thương trong văn học của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Những khảo cứu này sẽ góp
phần làm đầy đặn thêm mảng tư liệu về một lí thuyết vốn chưa được tổng thuật, cập nhật một cách
hệ thống ở Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Phác thảo hành trình của lí thuyết chấn thương trong lịch sử tư tưởng phương tây", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phác thảo hành trình của lí thuyết chấn thương trong lịch sử tư tưởng phương tây
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH Tập 18, Số 4 (2021): 657-668 HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION JOURNAL OF SCIENCE Vol. 18, No. 4 (2021): 657-668 ISSN: 2734-9918 Website: 657 Bài báo nghiên cứu* PHÁC THẢO HÀNH TRÌNH CỦA LÍ THUYẾT CHẤN THƯƠNG TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG PHƯƠNG TÂY Đặng Hoàng Oanh Viện Sư phạm Xã hội, Trường Đại học Vinh, Việt Nam Tác giả liên hệ: Đặng Hoàng Oanh – Email: danghoangoanh86@gmail.com Ngày nhận bài: 27-3-2021; ngày nhận bài sửa: 05-4-2021; ngày duyệt đăng: 15-4-2021 TÓM TẮT Bài viết phác thảo lịch sử nghiên cứu, phê bình lí thuyết chấn thương – một trường phái lí thuyết xuất hiện ở Hoa Kì vào những năm 90 của thế kỉ XX, có đời sống vô cùng năng động ở phương Tây cho đến thời điểm này. Với nỗ lực khái quát những xu hướng nghiên cứu lí thuyết chấn thương qua từng thời kì, bài viết mô tả sự vận hành từ quan niệm về chấn thương cho đến việc xây dựng mô hình chấn thương trong văn học của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Những khảo cứu này sẽ góp phần làm đầy đặn thêm mảng tư liệu về một lí thuyết vốn chưa được tổng thuật, cập nhật một cách hệ thống ở Việt Nam. Từ khóa: khái niệm chấn thương; lí thuyết chấn thương; mô hình chấn thương; lịch sử tư tưởng phương Tây 1. Mở đầu Đầu những năm 90 của thế kỉ XX, lí thuyết chấn thương trỗi dậy như một điểm nhấn đáng chú ý trong bối cảnh học thuật Hoa Kì. Nó trở thành khuynh hướng lí luận phê bình nổi bật, nơi “ngưng tụ nhiều vấn đề khác nhau” (Geoffrey Hartman). Ngoài “cảm giác mang tính đương đại” như Geoffrey Hartman đã nói, sự phát triển của phê bình chấn thương còn chạm đến nỗi bất an sâu xa nhất của nhân loại: nó cảnh báo về những trạng thái bạo lực luôn âm ỉ, có nguy cơ bùng phát và đe dọa sự tồn sinh của con người. Người ta nhận ra rằng, sự bất ổn có thể tồn tại trong bất kì chiều kích không – thời gian nào, từ đời sống cá nhân cho đến đời sống của cộng đồng, dân tộc. Bởi có một thực tế, lịch sử nhân loại đã từng đi qua biết bao những cơn chấn động khủng khiếp: những cuộc chiến tranh xóa sổ cả một dân tộc, xung đột sắc tộc, tôn giáo, diệt chủng, thảm họa môi trường, dịch bệnh Lịch sử đau thương đó đã góp phần đóng dấu kí ức tập thể vào tiềm thức của mỗi cá nhân, khiến không ít người cho rằng: chính nỗi đau mới thực sự là trạng thái hiện hữu đích thực của cá nhân con người trong cuộc đời này. Từ góc nhìn đó, rõ ràng lí thuyết chấn thương mang giá trị nhân bản sâu Cite this article as: Dang Hoang Oanh (2021). An outline history of trauma theory in Western thoughts. Ho Chi Minh City University of Education Journal of Science, 18(4), 657-668. Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 18, Số 4 (2021): 657-668 658 sắc. Thẩm thấu những nỗi đau từ quá khứ giúp con người nhạy cảm hơn trước tình trạng chông chênh, bất ổn của cuộc sống hiện tại. Sự hình thành và phát triển năng động của lí thuyết chấn thương, một mặt, xuất phát từ nhu cầu con người muốn nhận thức lại những kinh nghiệm lịch sử khủng khiếp, tàn bạo mà những tác động của chúng luôn có thể di căn sang hiện tại; mặt khác, do thực tế xã hội nhiều bạo động, áp lực, tạo điều kiện cho các chấn thương trong hình thức cũ và mới tiếp tục làm tổn hại con người cả về tinh thần lẫn thể chất. Nói lí thuyết chấn thương nằm trong cái gọi là khúc ngoặt đạo đức của lí thuyết đương đại là vì thế. Nó khắc phục được nhược điểm của những lí thuyết “không có khuôn mặt con người” của giai đoạn trước, như cách nói của một số học giả. Với những chuyên luận được xuất bản, giới thiệu trong môi trường học thuật Hoa Kì và một số nước châu Âu hơn ba thập kỉ đến nay (chưa kể những công trình ứng dụng lí thuyết chấn thương trong nghiên cứu văn học trên khắp thế giới), chúng tôi hoàn toàn ý thức được rằng còn xa mới có thể khái quát đầy đủ tình hình nghiên cứu một lí thuyết vốn có đời sống vô cùng năng động này. Nỗ lực tạo lập một cái nhìn hệ thống và liền mạch đối với lí thuyết chấn thương, bài viết, sẽ phác thảo hành trình và các khuynh hướng nghiên cứu lí thuyết chấn thương trên thế giới, đồng thời đưa ra những dự đoán về tính khả dụng của một lối đọc dựa trên các thuật ngữ và thao tác phân tích được gợi ý từ các lí thuyết gia của khuynh hướng này. 2. Nội dung Từ khi ra đời đến nay, lí thuyết chấn thương đã có một diễn trình phát triển rất năng động trong bối cảnh học thuật của Hoa Kì và châu Âu. Bắt nguồn từ một thuật ngữ được sử dụng trong lĩnh vực y học, được nhận diện thông qua hàng loạt triệu chứng về thể chất và thần kinh, “chấn thương” trở thành một khái niệm nổi bật trong ngành nghiên cứu nhân văn. Ba giai đoạn dưới đây của lí thuyết chấn thương sẽ phần nào đưa lại những hình dung tổng quan về sức sống, khả năng ứng dụng của một lí thuyết vốn đã trở thành một hệ hình trong đời sống văn hóa phương Tây. 2.1. Chặng thứ nhất: Thời kì manh nha của lí thuyết chấn thương Những ý niệm ban đầu của con người về chấn thương được nhận diện trong ý nghĩa y học của thuật ngữ này. Chấn thương được định nghĩa như là một vết thương hay một tổn thương ngoài cơ thể nói chung. Tuy nhiên, đến nửa sau thế kỉ XIX, đặc biệt tại Anh, dưới thời Victoria, thuật ngữ “chấn thương” chuyển nội hàm từ vết thương thân thể, vết thương vật lí sang chấn thương tâm lí. Bước ngoặt ý nghĩa đó bắt nguồn từ những sự kiện tai nạn tàu hỏa khủng khiếp mà nạn nhân của những tai nạn đó phải chịu cả vết thương về thể xác lẫn những ám ảnh về tinh thần. Người ta nhận ra rằng, dẫu vết thương thân thể được chữa lành hoàn toàn, nhưng những ấn tượng kinh hoàng trở thành nỗi đau dai dẳng kéo dài mãi về sau. Năm 1860, John Ericsson – một bác sĩ người Anh đã ghi nhận một mô hình phản ứng tâm lí của bệnh nhân có liên quan đến tai nạn đường sắt (dẫn theo Sutton, 2002, p.24). Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Đặng Hoàng Oanh 659 Ericsson đưa ra giả thuyết rằng nguyên nhân vật lí trực tiếp cho hiện tượng này bắt nguồn từ cú sốc cột sống (spine shock). Th ... tay lí thuyết chấn thương (A companion to Literary Theory, 2018), Michelle Balaev tiếp tục khẳng định vai trò của lí thuyết đa trong nghiên cứu văn học chấn thương. Sự chuyển dịch ra khỏi trung tâm của mô hình cổ điển cũng đồng nghĩa với việc mở rộng tiềm năng diễn giải của lí thuyết chấn thương thông qua sự soi chiếu dưới ánh sáng của tâm lí học xã hội, nghiên cứu văn hóa, phân tâm học, hậu thuộc địa, nữ quyền, chủng tộc, hay thậm chí những động hướng mới hơn như các lí thuyết về cảm xúc. Sự đa dạng hóa về phương pháp luận càng có ý nghĩa hơn khi tiếp cận soi sáng các hiện tượng văn chương độc đáo trong dòng chảy văn học đương đại. Bởi, như quan niệm về bản chất của văn chương được Balaev xác lập trong bài viết: “Một khái niệm duy nhất có vẻ như không bao giờ phù hợp với số đông, thường là mâu thuẫn trong miêu tả về chấn thương trong văn học bởi văn bản nuôi dưỡng nhiều giá trị có khả năng tiết lộ những hiểu biết về cá nhân và văn hóa, kí ức và xã hội” (Balaev, 2014, p.8). Một trong những điểm đáng lưu ý của phê bình chấn thương giai đoạn này, theo chúng tôi, đó là nhìn ra được nhiều kiểu chấn thương và các cơ chế gây chấn thương. Chấn thương quan tâm sâu sắc đến các quan điểm triết học về bạo lực. Bạo lực không chỉ tồn tại dưới hình thức của các thảm họa, biến cố, ngược lại, nó lại tồn tại theo cơ chế rất tinh vi, len lỏi trong mọi diễn biến của đời sống thường nhật. Chấn thương trong đời thường đẩy con người vào những khủng hoảng hiện sinh. Đó cũng chính là lí do mà nhiều nhà nghiên cứu chấn thương giai đoạn này truy tìm nguồn gốc của chấn thương trong mọi cơ chế, phương diện của đời sống, từ đó hình thành cái nhìn đa dạng hóa trong việc nhận diện nguồn gốc chấn thương. Từ chỗ kiến tạo về mặt văn hóa (như quan điểm của Michelle Balaev), phê bình chấn thương giai đoạn này nghiên cứu chấn thương như một diễn ngôn, và chính bước ngoặt diễn ngôn Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Đặng Hoàng Oanh 665 đó khiến người ta buộc phải chất vấn: “Trong điều kiện nào thì trải nghiệm của con người được coi là chấn thương? Nếu các kí ức được truyền thông chính thống tạo dựng nên ngày càng trở thành một câu chuyện đơn nhất, những đại tự sự, rõ ràng quyền lực và tri thức – nền tảng của những đại tự sự đó có tính trấn áp, che mờ tiếng nói của cá nhân. Một loạt những bài viết của phê bình chấn thương giai đoạn này đã kháng cự lại tính tự sự đơn nhất của các câu chuyện về cộng đồng. Nó đi sâu vào các diễn ngôn chấn thương, lí giải, phân tích những chất vấn tự sự đầy nhức nhối về các vấn đề sắc tộc, về giới, về chấn thương tình dục như: Đọc Câu chuyện cưỡng dâm: chất liệu tu từ và chấn thương của sự biểu đạt (Reading Rape stories: Material Rhetoric and The Trauma of Representation, Wendy S. Hesford, 1999), Chấn thương và giới (Trauma and Gender, Puleng Segalo, 2015). Nhu cầu đổi thay mô hình nghiên cứu chấn thương thực ra đã từng được nhen nhóm trong trong bài tiểu luận Sự pha trộn kí ức và ham muốn: Phân tâm học, tâm lí học và lí thuyết chấn thương (Mixing memory and desire: Psychoanalysis, psychology, and trauma theory) của Roger Luckhurst. Ông đã từng thực hiện một hành trình mô tả về lí thuyết chấn thương một cách khá toàn diện, từ điểm khởi đầu của nó trong y khoa thế kỉ XIX, qua những bước ngoặt của phân tâm học, đến sự chuyển dịch từ giải cấu trúc sang phê bình chấn thương của một loạt những nhà phê bình của Yale – đại diện trường phái nghiên cứu chấn thương kinh điển, và cuối cùng, tiến đến một kết luận tương tự: “Chấn thương thực chất là đa ngành: nếu ngành phê bình này có tương lai, nó cần phải thay thế các mô hình cũ hơn và tham gia vào các cấu hình mới của kiến thức văn hóa” (Waugh ed., 2006, p.506). Quan điểm của Balaev và Luckhusrt đã phần nào khái quát được thực tế nghiên cứu của lí thuyết chấn thương trong văn học, đặc biệt trong quãng thời gian hai thập niên trở lại đây. Thậm chí, vượt xa nhận định của Roger Luckhurst4, phê bình chấn thương dần rời khỏi địa hạt trung tâm của nó là cảm thức và bản sắc phương Tây, tiến gần tới nhiều vùng văn hóa ngoại vi, mở rộng kho dữ liệu các case study. Theo quan sát của chúng tôi, trong hai thập kỉ gần đây, văn học châu Á và châu Phi đang cung cấp những ngữ liệu sinh động cho nghiên cứu chấn thương. Có thể kể đến những công trình như: Chấn thương và lịch sử trong tiểu thuyết Ailen: Sự quy hồi của cái chết (Trauma and History in Irish Novel: The return of the Dead, Robert F. Garratt); Tiếp cận chứng nhân: Tự sự về chấn thương trong văn học và điện ảnh châu Phi thuộc Pháp ngữ hạ vùng Sahara (Approaching the Witness: Narratives of Trauma in Sub- Saharan Francophone African Literature and Film – luận án tiến sĩ của George Stevens Macleod), Viết về chấn thương: tiếng nói của nhân chứng trong văn học chứng nhân của phụ nữ Rwandan (Writing trauma: the voice of the witness in Rwandan women's testimonial 4 “Chấn thương đã trở thành một hệ hình bởi vì nó đã chuyển thành một danh mục của những câu chuyện hấp dẫn về sự bí ẩn của bản sắc, kí ức và bản ngã vốn dĩ đã bão hòa đời sống văn hóa phương Tây” (Trauma has become a paradigm because it has been turned into a repertoire of compelling stories about the enigmas of identity, memory and selfhood that have saturated Western cultural life - Roger Luckurst – The Trauma Question) Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 18, Số 4 (2021): 657-668 666 literature, Catherine GilBert), hoặc bài tiểu luận Từ Hiroshima đến Fukushima: Truyện tranh và hoạt hình như tác nhân lật đổ của kí ức ở Nhật Bản (From Hiroshima to Fukushima: Comics and Animation as Subversive Agents of Memory in Japan, Ory Bartal, 2016) Thực tế bộn bề và phức tạp của lí thuyết chấn thương cùng sự đa dạng của các case study đặt ra không ít thử thách đối với các nhà nghiên cứu, thách thức nỗ lực khái quát và phân loại. Năm 2018, Cambridge University Press xuất bản cuốn sách Chấn thương và văn học (Trauma and Literature) được biên tập bởi J. Roger Kurtz. Đây có thể xem là một trong những công trình dày dặn và công phu nhất về lí thuyết chấn thương. Với gần 400 trang, gồm 21 bài tiểu luận, công trình đã đưa lại một cái nhìn tổng quan về nguồn gốc, sự phát triển và ứng dụng của chấn thương trong nghiên cứu văn học. Trauma and Literature có cấu trúc ba phần tương ứng với ba giai đoạn phát triển của lí thuyết chấn thương. Phần 1 (Nguồn gốc/Origins) tập hợp những bài viết đi vào phân tích cội nguồn phân tâm học của khái niệm chấn thương, mối quan hệ giữa chấn thương và giải cấu trúc, sự kiện Holocaust và cách nó định hình cách hiểu của chúng ta về chấn thương cá nhân và tập thể. Phần 2 (Phát triển/Development), đi sâu và mối quan hệ giữa chấn thương và khả năng biểu đạt của nó trong tự sự. Theo Roger Kurtz, “một trong những tuyên bố cơ bản của lí thuyết chấn thương, đó là ngôn ngữ văn chương, trong bản chất của nó, cung cấp một phương tiện hiệu quả mang tính độc nhất biểu đạt cho kinh nghiệm chấn thương theo cách ngôn ngữ thông thường không thể” (Kurtz, 2018, p.8). Vì thế, các bài viết tập hợp trong phần 2 đã cung cấp những cách hiểu đa chiều xung quanh các khía cạnh như vết thương và ngôn ngữ, kí ức, cảm xúc... Phần 3, như tiêu đề của nó, Ứng dụng, chấn thương được khảo sát, phân tích trong nhiều ngữ cảnh, không gian, nối kết với nhiều khái niệm, nhiều vấn đề mang tính thời sự. Chẳng hạn “Chấn thương và văn học chiến tranh” (Gerd Bayer), “Chấn thương và bạo lực tình dục” (Emma V. Miller), “Chấn thương hậu thuộc địa” (Jennifer Yusin), “Chấn thương và nghệ thuật thị giác” (Marie Kruger), “Chủ nghĩa khủng bố” (Michael Richardson) Như vậy, qua ba giai đoạn phát triển của lí thuyết chấn thương, chúng tôi tóm tắt thành những điểm lớn sau đây: Thứ nhất, chấn thương là hệ quả của một sự kiện gây hại đến con người về thể chất và đặc biệt là tinh thần. Sự kiện chấn thương này làm toàn bộ trạng thái tinh thần của con người đổ vỡ, phân mảnh, rối loạn, trầm uất Thứ hai, cơ chế hoạt động của chấn thương rất đặc biệt, nó nằm sâu trong tiềm thức, không được nhận thức tại thời điểm xảy ra chấn thương mà thường quay trở lại ám ảnh ở giai đoạn sau qua những kí ức, khiến con người rơi vào những trạng thái không thể nói nên lời, bị kìm nén. Thứ ba, phê bình chấn thương thực ra cũng là một cái nhìn mang tính phê phán đối với lịch sử, đối với các cơ chế văn hóa cho phép sự kiện chấn thương xảy ra, thậm chí được duy trì (đây cũng là điểm rõ nhất cho thấy phê bình chấn thương đi xa hơn cách tiếp cận tâm lí trị liệu; tâm lí là việc xử lí theo từng trường hợp bệnh lí, nó thiếu tính phê phán). Thứ tư, nó chỉ rõ được tiêu điểm của phê bình Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Đặng Hoàng Oanh 667 chấn thương không phải ở vào sự kiện gây ra chấn thương hay ngữ cảnh khiến cho sự kiện đó xảy ra, mà chính là vào sự chịu đựng hay sự phản kháng của con người trước chấn thương. 3. Kết luận Phần tổng thuật ở trên đã cho phép chúng tôi khái quát rằng: chấn thương là một khái niệm mang tính liên ngành. Chấn thương vốn là một khái niệm xuất hiện lần đầu tiên trong lĩnh vực y học, tâm lí học, sau đó trở thành đối tượng nghiên cứu của khoa học nhân văn, và là một khía cạnh quan trọng của văn chương. Một khi có nội hàm rộng như vậy, nó tiệm cận và giao thoa với nhiều lí thuyết đương đại. Là một trạng thái phổ quát của con người, chấn thương được nhìn từ nhiều góc. Ý nghĩa ban đầu của khái niệm chấn thương được minh định bởi Freud, nhưng khi tồn tại với tư cách một lí thuyết, nó phát triển trên nền tảng của hậu cấu trúc. Tuy nhiên, trên thực tế, lí thuyết chấn thương, không đơn thuần là một lí thuyết tâm lí, và phê bình chấn thương, hay nói như Trần Ngọc Hiếu, “không đơn thuần là cách đọc văn bản từ cái nhìn bệnh học” (Caruth, 1996). Nó trả lời cho nhiều vấn đề liên quan đến sự vận hành của các cơ quan mang tính quyền lực trong xã hội chứ không chỉ lí giải nỗi đau của cá thể. Lí thuyết chấn thương, ở một phương diện sâu xa hơn, còn kết nối chấn thương của cá nhân và cộng đồng, thấy được nguy cơ tiềm tại của các cơ chế bạo lực trong đời sống hiện đại, có thể gọi dậy những vết thương tưởng chừng đã ngủ quên trong quá khứ. Đặc biệt, nó gợi nhắc con người bạo lực luôn có nguy cơ tái diễn bất cứ lúc nào. Rõ ràng, việc khảo sát thực tiễn nghiên cứu lí thuyết chấn thương trên thế giới không chỉ cho thấy được hành trình và xu hướng của một trong những lí thuyết mang tính đương đại, mà còn thấy được cách thức các nhà nghiên cứu ứng dụng lí thuyết chấn thương để đọc văn bản văn học. Đặc biệt, lí thuyết chấn thương đã được đặt trong đời sống văn chương vô cùng sinh động và phong phú. Cụ thể, chấn thương được soi chiếu qua những ngữ cảnh độc đáo, như bi kịch Hi Lạp cổ đại, tiểu thuyết hậu thuộc địa, tiểu thuyết của Malaysia, thơ ca nô lệ Anh, văn học Pháp đương đại Nhìn rộng hơn, dường như trong giới nghiên cứu văn học đang hình thành một lối “đọc” chấn thương dựa trên mô hình của Cathy Caruth, và những thể nghiệm táo bạo của các nhà phê bình chấn thương giai đoạn sau này. Tuyên bố về quyền lợi: Tác giả xác nhận hoàn toàn không có xung đột về quyền lợi. TÀI LIỆU THAM KHẢO Balaev, M. (2014). Literary Trauma theory reconsidered, Contemporary Approaches in Literary Trauma Theory. Retrieved from https://books.google.com.vn Caruth, C. (1996). Unclaimed Experience: Trauma and The possibility of Hisory [Kinh nghiem khong duoc khang dinh, chan thuong va nhung kha nang cua lich su] (Translated by Tran Ngoc Hieu). Retrieved from https://hieutn1979.wordpress.com/2013/03/29/cathy-caruth-nhung- Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 18, Số 4 (2021): 657-668 668 kinh-nghiem-khong-duoc-khang-dinh-chan-thuong-va-nhung-kha-nang-cua-lich-su/, posted on March 29, 2013. Caruth, C. (1995), Trauma, Explorations In Memory. Retrieved from https://mycourses.aalto.fi/pluginfile.php/579642/mod_resource/content/1/cathy-caruth- trauma-explorations-in-memory-2.pdf Felman, S; Laub, D. (1992), Testimony, Crises of Witnessing in Literature, Psychoanalysis and History, Published in Great Britain by Routledge. Kurtz, J. R (2018). Trauma and Literature. Cambridge University Press. Retrieved from https://libro.eb20.net/Reader/rdr.aspx?b=95946580. Matus, J. L. “The art of medicine, Psychological trauma Victorian style: from perpetrators to victims”. Retrieved from https://www.thelancet.com/journal/lancet/article/PIIS0140- 6736(10)61211-1/fulltext) Owen, S; Dambrosch, D. & Thornber, K. (2016). Literary Theories and their application – Lectures and reading (Lectures and References) [Li thuyet va ung dung li thuyet trong nghien cuu van hoc (Tap bai giang va tai lieu tham khao)]. Edited by Tran Hai Yen. Hanoi: Social Science Publishing House. Pater, D. H (ed.) (2018). A companion to literary theory. Wiley Blackwell Sutton, J. P. (ed.) Music, Music Therapy and Trauma, United Kingdom: Jessica Kingsley Publishers. Waugh, P. [ed.] (2006). Literary Theory and Criticsm. An Oxford Guide. Oxford University Press. AN OUTLINE HISTORY OF TRAUMA THEORY IN WESTERN THOUGHTS Dang Hoang Oanh School of Social Science of Education, Vinh University, Vietnam Corresponding author: Dang Hoang Oanh – Email: danghoangoanh86@gmail.com Received: March 27, 2021; Revised: April 05, 2021; Accepted: April 15, 2021 ABSTRACT The article sheds light on the history of trauma theory – a school of thought emerged in the US during the 1990s and has been exuding a lot of dynamism in Western countries up to now. In an effort to generalize the trauma theory through different periods, the article focus on discussing the concept of trauma theory and modelling the archetype of trauma theory in world literature. The research findings will help to enrich the domain of theory which has not been extensively reviewed and updated in Vietnam. Keywords: the concept of trauma; trauma theory; trauma model; Western thoughts
File đính kèm:
- phac_thao_hanh_trinh_cua_li_thuyet_chan_thuong_trong_lich_su.pdf