Những ngã tư và những cột đèn của trần dần và vụ án của franz kafka: Từ góc nhìn hiện sinh
Xuất bản năm 2011, tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần gây ấn tượng đáng
kinh ngạc bởi thi pháp trần thuật hiện đại. Tác phẩm gặp gỡ tiểu thuyết Vụ án (1914) của Franz
Kafka ở nhiều phương diện. Trong bài viết này, chúng tôi tiếp cận hai tác phẩm từ góc độ cảm thức
hiện sinh, một cách để khẳng định giá trị nhân văn của tác phẩm và mối tương liên vượt biên giới
giữa những nghệ sĩ lớn
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Những ngã tư và những cột đèn của trần dần và vụ án của franz kafka: Từ góc nhìn hiện sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Những ngã tư và những cột đèn của trần dần và vụ án của franz kafka: Từ góc nhìn hiện sinh
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 4 26 NHỮNG NGÃ TƯ VÀ NHỮNG CỘT ĐÈN CỦA TRẦN DẦN VÀ VỤ ÁN CỦA FRANZ KAFKA: TỪ GÓC NHÌN HIỆN SINH Lê Thị Gấm Trường Đại học Văn Lang lehoanghainhu@gmai.com Nhận bài ngày: 6/6/2019; Ngày duyệt đăng: 27/08/2019 Tóm tắt Xuất bản năm 2011, tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần gây ấn tượng đáng kinh ngạc bởi thi pháp trần thuật hiện đại. Tác phẩm gặp gỡ tiểu thuyết Vụ án (1914) của Franz Kafka ở nhiều phương diện. Trong bài viết này, chúng tôi tiếp cận hai tác phẩm từ góc độ cảm thức hiện sinh, một cách để khẳng định giá trị nhân văn của tác phẩm và mối tương liên vượt biên giới giữa những nghệ sĩ lớn. Từ khóa: Trần Dần, Những ngã tư và những cột đèn, Vụ án, Franz Kafka, chủ nghĩa hiện sinh. Tran Dan’s Crossroads and Lampposts and Franz Kafka’s The Trial: in the light of existentialism Abstract Published in 2011, Tran Dan’s Crossroads and Lampposts is a special novel with modern narrative style. It connects Franz Kafka’s The Trial (1914) on many aspects. In this article, two works from an existential perspective to emphasize their humanistic values and the connection between Tran Dan and Franz Kafka are approached. Keywords: Tran Dan, Crossroads and Lampposts, The Trial, Franz Kafka, existentialism. 1. Đặt vấn đề Những ngã tư và những cột đèn (1966) của Trần Dần là thiên tiểu thuyết có số phận đặc biệt: trải qua hành trình gần nửa thế kỷ (44 năm) mới đến tay bạn đọc (1966-2010). Tác phẩm mang tới một ấn tượng đáng kinh ngạc bởi tính hiện đại vượt khỏi khung khổ đương thời của văn học Việt Nam, bắt nhịp thi pháp cùng tư tưởng nhân sinh sâu sắc của văn học hiện đại thế giới. Nếu đặt Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần bên cạnh Vụ án của Franz Kafka chúng ta sẽ không khỏi ngạc nhiên bởi những điểm tương đồng của hai tác phẩm, nhìn từ góc độ cảm thức hiện sinh. Cảm thức này chi phối kiến tạo không gian, cấu trúc nghệ thuật cũng như những trăn trở, ám ảnh hiện sinh trong cả hai tác phẩm. 2. Không gian tâm tưởng và cấu trúc truyện giả trinh thám 2.1. Không gian tâm tưởng như là không gian hiện sinh Hiện sinh thường được biết đến là một trào lưu triết – mỹ học phương Tây, nửa sau thế kỷ XX, với tinh thần khẳng định nhân vị. Theo đó, con người ý thức bản thể của mình và ý thức mình là một chủ thể; dấn thân tìm kiếm, khẳng định sự tự do, tạo lập ý nghĩa tồn tại người trong “cõi nhân gian bé tí”. Mặc dù triết – mỹ học hiện sinh chỉ thực sự khởi xướng và nở rộ ở phương Tây những năm thập niên 1950-1960, rồi nhanh chóng lan sang các nước phương Đông, song có thể nói tinh thần hiện sinh với ý nghĩa là những trăn trở, ưu tư về bản thân, về thân phận người thì trước đó từ lâu đã được xem như hạt nhân của giá trị nhân văn mà nghệ thuật chân chính hướng tới. Trước những va chạm, biến đổi không ngờ của đời sống xã hội hiện đại, một bộ phận văn học đi vào khám phá con người không phải là hiện thân của khối tập thể gắn kết, mang trên vai lý tưởng xã hội và trách nhiệm cộng đồng, mà là những cá thể với chiều sâu tâm hồn thăm thẳm, nặng ưu tư phận người. Những tác phẩm nghệ thuật theo chiều hướng hiện sinh thường khám phá con người trong quan hệ xung TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 4 27 đột với môi trường sống. Trong trường hợp này, môi trường – không gian hiện sinh thực tại giữ vai trò cản trở cá thể. Hệ quả là nhân vật hướng nội, tạo dựng không gian tâm tưởng như một cách tự vệ. Ở đó, nhân vật lục lọi bản sắc, lý giải tồn tại thế giới, lý giải thân phận, bản sắc cá nhân, những vênh lệch, sự xung đột giữa bản thân với môi trường xã hội. Không gian tâm tưởng trở thành không gian hiện sinh, nơi nhân vật tự do tạo lập thế giới của riêng mình, thăm dò và thực thi quyền lựa chọn ứng xử với bản thân và với thế giới. Nói cách khác, con người hiện sinh không sống cho và chỉ ở không gian bên ngoài. Bao giờ trong anh ta cũng có một không gian tâm tưởng như là thành trì hóa giải, đồng thời nuôi dưỡng tinh thần hiện sinh. Hoàn cảnh sống càng xung đột, ngăn trở bản sắc cá thể, không gian tâm tưởng càng tạo lập vững chắc. Độc giả Việt Nam được biết đến tiểu thuyết Vụ án của Franz Kafka – nhà văn Do Thái vĩ đại – từ những năm cuối thập niên 80 thế kỷ trước qua bản dịch từ tiếng Anh của Phùng Văn Tửu (1989) và mới đây là bản dịch từ tiếng Đức của Lê Chu Cầu (2015). Buổi sáng ngày sinh nhật thứ 30, nhân vật Josef K. – một cán bộ ngân hàng mẫn cán – bị tòa án bắt ngay tại giường ngủ của mình vì một tội danh nào đó mà anh không rõ. Mười chương sách là hành trình nhân vật chính tìm mọi cách thăm dò tội danh của mình và biện minh với tòa án – cơ quan quyền lực. Trên hành trình ấy, nhiều người lạ và quen xuất hiện, hứa hẹn giúp đỡ nhưng thực chất là thăm dò, cô lập, mỉa mai, đẩy bi kịch của anh lên kịch điểm. Vốn là người thông minh, có học thức, K. quyết định không nhờ cậy người khác giúp đỡ và thụ động đợi lệnh tòa án, thay vào đó tự dấn thân vào hành trình tìm kiếm chứng cứ, thảo đơn nguyện. Kết quả mọi nỗ lực của anh đều vô ích. Bộ máy quyền lực tuy đã tha hóa, nhưng gọng kìm của nó mỗi ngày một siết chặt sinh quyển. Cuối cùng, K. chấp nhận bị xử tử như là chức năng cuối cùng cần thiết để kết thúc chuỗi vận hành của thiết chế quyền lực ấy đối với sự sinh tồn của một kiếp người. Cuốn tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi bởi các tầng nghĩa đan cài, xếp chồng. Bất luận đứng ở góc độ nào để nhìn nhận (hiện đại chủ nghĩa, hiện sinh chủ nghĩa hay hậu hiện đại,), chúng ta cũng thấy rằng vấn đề sinh tồn của con người hiện đại trong sinh quyển đặc thù của nó là vấn đề cơ bản, then chốt của cuốn tiểu thuyết (cũng như nhiều tác phẩm khác của Kafka). Vụ án của Kafka và Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần có nhiều điểm tương đồng thú vị. Cả hai cuốn tiểu thuyết đều lấy bối cảnh là không gian đô thị hiện đại ... bên là câu chuyện về cái phi lý có tính bản chất vĩnh cửu của tội trạng (kiểu Eva và Adam) và bộ máy quyền lực (mang tính biểu trưng); một bên là cái phi lý của thành kiến mang tính nhất thời của bối cảnh, nhưng cả hai tác phẩm đều bộc lộ rõ nét cảm thức hiện sinh, theo nghĩa hiện sinh là tâm thế sống cho hiện tại, là sự trăn trở về đời sống, thân phận người. Cả Vụ án và Những ngã tư và những cột đèn đều đặt ra vấn đề tồn tại người trong xã hội chuyên chế (có sự chuyển giao quyền lực). Khu văn phòng tòa án trên các tầng áp mái, văn phòng luật sư, giáo đường (thuộc về tòa án) là những không gian tập thể. Chúng có xu hướng bóp nghẹt, xóa nhòa cá thể đơn lẻ. Ở đấy, K. cảm thấy ngột ngạt, chao đảo mặt mày như có ngàn con sóng xô tới. Ngược lại, anh cảm thấy tâm hồn thênh thang mỗi khi được bước trên đường lớn, hít thở bầu không khí thoáng mát và cũng chỉ mong mỏi được dồn tâm sức hoàn thành tốt công việc quản lý ở ngân hàng. Một con người làm việc tích cực, yêu đương chân thành (với Elsa) làm sao lại có tội? K. vô tội. Anh khẳng định điều ấy là hiển nhiên và cật vấn linh mục: “Đó là một sự nhầm lẫn. Vả lại, làm sao một con người lại có tội được chứ? Ở đây chúng ta đều là con người cả, ai cũng như ai?” (Kafka, 1925: 246). Giờ phút cuối cùng của cuộc đời, anh mới hiểu: tội của anh là “cứ luôn muốn xông vào đời với hai mươi bàn tay, hơn nữa không phải vì một mục đích đáng khen ngợi”, tức là khác với cung cách của những người xung quanh (Kafka, 1925: 263). Dù thế, K. vẫn không thỏa hiệp: “Chẳng lẽ sau khi mình giã từ thế gian người ta lại có quyền nói rằng VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 4 30 khi vụ án bắt đầu mình muốn kết thúc nó, còn bây giờ nó kết thúc, mình muốn nó bắt đầu trở lại? Mình không muốn người ta nói thế” (Kafka, 1925: 264). Còn Dưỡng, trong kiếp nạn tù tội, anh sinh ra nỗi ám ảnh về thời gian, day dứt về con người, về số kiếp bản thân. Anh băn khoăn có lẽ nào con người sống với thú vui của mình là có tội: “ừ thì Thằng, ừ thì Tôi, ừ thì Mày, phải đâu vì mê mải thú vui quả đất mà thằng nào cũng là Mày, thằng nhọ tàu bò, thằng dằn di, dâm ô đồi trụy lạc, chỉ đớp hít, giở trò cao bồi ngụy quân mất dạy gì gì nữa cũng là Mày, Mày còn là thằng-vài-nghìn-thằng chứ gì, Tôi biết cả rồi, ừ thì cứ cho là thằng-vài-nghìn-thằng, bây giờ còn thiếu một thằng-phát-súng nữa, nhưng đừng tàn đời, Mày là thằng người dẫu có là thằng- vài-nghìn-thằng thì Mày vẫn là thằng người” (Trần Dần, 2011: 69); nhưng rồi lại cảm thấy bế tắc, tù đọng: “Chiều nay là một buổi chiều cuối hạ, vậy mà tôi cảm giác lúc này, là ngày không mùa, là lúc không giờ, là giờ ngoài đồng hồ, là ngày ngoài quyển lịch” (Trần Dần, 2011: 104). Anh thấy mình như viên gạo vỡ bị kẹt lại trong rá: “Như mẻ gạo đổ vào nồi, đổ khéo vẫn sót lại, trong rá, vài hạt. Thường là hạt vỡ bị kẹt lại. Liệu tôi có bị tai nạn éo le, như hạt gạo vỡ, tôi chờ kết luận”; không ngừng băn khoăn, tiếc nuối cuộc sống: “Nhưng nếu không có tôi, đời vẫn không sao, các nồi cơm vẫn chín và thơm phức, nội ngoại thành vẫn làm lụng, đi lại và ăn uống vui vẻ. Nếu không có tôi, thì buồn lắm, tôi sẽ kẹt lại trong trại giam nào, buồn như hạt gạo vỡ” (Trần Dần, 2011: 107). Những ngày tự trừng phạt ấy là quãng thời gian khủng khiếp với Dưỡng. Anh phải tự soi vào sâu thẳm cái tôi lấy ra những sở thích trước đây để đay nghiến, xỉ vả. Hành động ghi lại nhật ký cho thấy Dưỡng đau khổ, cô đơn tột cùng. Anh muốn ghi lại những ngày tự trừng phạt ấy, nghĩa là muốn bộc lộ thái độ tích cực với hiện tại, vĩnh cửu hóa nó: “Đúng là tôi viết nhật kí, để đưa hiện tại của tôi ra khỏi thời gian, để ngày hôm nay được tồn tại, vĩnh viễn” (Trần Dần, 2011: 111). Vì sao Dưỡng muốn lưu lại vĩnh cửu cái hiện tại ê chề, “bú dù” ấy? Phải chăng vì tận cùng đau đớn cũng là khoái cảm. Một lúc nào đấy như anh nói, anh đều có thể lật xem nhật ký để nó lại là hiện tại, để sống mãi với cảm giác những ngày nhiều đớn đau, sầu muộn. Nhưng rồi anh xé đi 2 tuần sau buổi chiều phát súng. Tập bản thảo bị thương. Nỗi đau quá lớn. Anh muốn xóa đi mãi mãi những ngày nhọ, bởi: “Sự vĩnh cửu giống như vũng nước tù, càng vĩnh cửu càng hôi thối, càng lắm kí sinh trùng” (Trần Dần, 2011: 111); “Đã 3 mùa trôi qua, mà hiện tại của tôi ngày một tệ hại Người tôi rã rời Đêm ngủ đầy ác mộng. Tôi xé nhật kí, viết rồi xé, chưa viết xong, cũng xé, mà hiện tại vẫn hủi” (Trần Dần, 2011: 111, 112). Dẫu thế thì cuộc đời vẫn cần níu giữ: “Tôi sẽ cứ là người đứng cuối cùng hạng ngôi thứ xã hội không vì con gà hơn nhau tiếng gáy, không vì hơn nhau một chút đau thương, Tôi biết Mày vẫn rất muốn còn trong đời, tất nhiên Tôi cũng muốn còn lại trong đời, không dưng Tôi tự xóa Tôi làm gì, vì đời dù sao vẫn đẹp” (Trần Dần, 2011: 70). 3.2. Con người hiện sinh và bi kịch lựa chọn Hệ quả của những trăn trở hiện sinh là bi kịch lựa chọn. Nếu Vụ án là câu chuyện phi lý bởi tính chất mù mịt, mơ hồ, có cuối không có đầu, thì Những ngã tư và những cột đèn được trần thuật rõ ràng: có đầu, có cuối. Với Vụ án người đọc không biết quá khứ của K. như thế nào, giao du với những ai, chỉ biết hiện tại anh là nhân viên giỏi ở một ngân hàng. K. không biết mình phạm tội gì. Còn Dưỡng, người đọc biết rõ về quá khứ và tính cách của anh. Nỗi hàm oan của anh có tên gọi, diễn biến cụ thể. Dưỡng đi tìm kẻ phạm tội thực sự để gỡ mối oan. Tuy biết mình không phải là kẻ bắn bộ đội, nhưng thái độ kỳ thị, mỉa mai của bà con khu phố cũng đã là một sự trừng phạt. Không chấp nhận cái phi lý: có phạt mà không có tội, Dưỡng lục lọi trong sọ, tìm ra một tội danh: tội là thằng tàu bò (từng đi lính ngụy) và tự trừng phạt bản thân bằng những day dứt, dằn vặt, xỉ vả nhân cách. K. thì khác. K. đi tìm kẻ kết tội mình và tìm tội danh bị quy kết, nhưng bất thành. K. từ chối những lựa chọn nhằm trì hoãn, kéo dài vụ án (do luật sư Huld và họa sĩ Titorelli gợi ý). Anh nôn nóng giải quyết sòng phẳng, triệt để mọi vấn đề nên chọn cách đấu tranh không nhân nhượng. K. bị xử tử không phải vì phạm tội mà vì trước sau không thừa nhận (và cũng không biết) tội danh, cũng đồng nghĩa không thừa nhận, không thỏa hiệp với TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 4 31 quyền lực thiết chế. Sự phi lý được đẩy lên kịch cùng. Còn gì phi lý hơn là việc một tội nhân chưa kịp nhận thức tội danh đã bị xử tử chỉ vì nôn nóng muốn làm sáng tỏ vụ việc! K. chọn cái chết “Như một con chó!”. Có một số ý kiến cho rằng K. là biểu tượng bảo thủ. Theo tôi, việc anh lựa chọn để tòa án xử tử mình một cách thầm lặng trong đêm tối cũng là cách biểu thị sự kháng cự của nhân vật với quyền lực toàn trị. Bởi anh biết “nỗi nhục sẽ sống lâu hơn anh”, để đời thêm nhức nhối. Khác với K., Dưỡng tìm được lối ra. Vụ án được giải quyết, xét trong mối liên hệ với Dưỡng. Anh hòa vào cộng đồng trong công cuộc xây dựng xã hội mới và chống Mỹ. Nhưng Dưỡng của mười 11 năm sau đã trở thành một người khác, cũng có nghĩa anh đã đánh đổi bản sắc cá nhân lấy một đời sống thông thường: “Tôi định nhân dịp này, kể với anh câu định nghĩa bất hủ về thời gian, của người Hi Lạp, nhưng lại thôi. Bởi vì trước mặt tôi lúc ấy, là một anh Dưỡng đã từ giã thú vui uống cà phê buổi sáng, và xa lạ với những day dứt của nhật kí” (Trần Dần, 2011: 75). K. và Dưỡng đều là ở độ tuổi xuân trẻ, có học thức, cùng gặp một tình huống éo le: bị kết tội không do bản thân gây ra, nỗ lực dùng tri thức để biện hộ, truy tìm vấn đề. Trong quá trình đó, họ cô đơn, bị mắc kẹt ở thực tại. K. tìm cách chống cự đến cùng mà vẫn không tìm được lối ra. Kết quả là anh bị xóa tên khỏi bản đồ sống của nhân loại. Dưỡng chống cự (ngầm) và tìm được lối thoát, nhưng lại mất mát nhiều thứ khác. Bước ra khỏi tấn bi kịch, Dưỡng chấp nhận hòa nhập cộng đồng, tham gia guồng quay thời đại, trở thành một biểu tượng trong một rừng biểu tượng, không còn day dứt về biểu đồ thời gian, thậm chí xa lạ với nhật ký của chính mình. Nhân vật xưng tôi – nhà văn biên lại câu chuyện đời Dưỡng – cũng là một người trí thức có cùng mối đồng cảm với Dưỡng về dòng thời gian, về lẽ tồn tại của đời người, về những ngã tư, những lựa chọn, Dưỡng đã chọn một ngã: ngã rẽ vào đại lộ. Còn tôi? Nhân vật nhà văn nhận ra đường của mình không có ngã tư, chỉ là ngõ cụt với một hướng về đại lộ. Phố vắng lặng. Buồn trống rỗng dâng ngập hồn. Hóa ra đời nhiều ngã tư và đời không ngã tư đều bi kịch như nhau. 4. Kết luận Dịch giả Phùng Văn Tửu trong lời giới thiệu Vụ án năm 1989 thừa nhận ở những lần đọc đầu tiên ông không đọc với tâm thế K. là cái bóng của Kafka như nhiều người nhận định, nhưng rồi ông cũng nhìn thấy bóng dáng của nhà văn. Phải chăng đấy là tòa án lương tâm của chính Kafka trong những biến cố cuộc đời vì mong muốn rời bỏ ràng buộc hôn nhân, tôn giáo, đảng phái, thậm chí cả nguồn gốc xuất thân để được tự do sống và làm việc mình yêu thích: viết văn? Người đọc Việt Nam cũng có thể nhìn thấy bóng dáng cuộc đời Trần Dần qua những trang nhật ký của Dưỡng và nỗi buồn sinh kiếp của nhân vật tôi – nhà văn – về thời gian hiện tại, về những ngã tư, về đại lộ. Thực ra, ngã tư từ trước đó rất lâu đã là biểu tượng trong hầu hết tác phẩm của Trần Dần. Vấn đề không phải là con đường nào đúng đắn, con đường nào sai lầm, mà là sự lựa chọn. Đời ông nhiều ngã tư. Nhưng cũng như Dưỡng, ông “đâu có biết, ngã tư nào lưu manh, ngã tư nào đọa lạc, ngã tư nào gian dối” (Trần Dần, 2011: 304), để rồi đôi lần “lường một đằng, thực tế giằng một nẻo” (Trần Dần, 2011: 288). Dẫu vậy, đời người vẫn cần có những lựa chọn và quyền được lựa chọn. Nhà thơ Lê Đạt khi viết: “Các đấng cứu thế có một thiếu sót đáng trách là dẫn dắt đám đông đến thiên đường mà quên không hỏi ý kiến của họ”, hẳn đã thấu cảm trăn trở của bạn văn, Trần Dần. Cả hai tác phẩm đều thể hiện tinh thần bất tín đại tự sự (chân lý xã hội, niềm tin tôn giáo), cho thấy dấu hiệu vượt ngưỡng khung khổ tư duy thời đại. Mặc dù yếu tố tôn giáo không phải là điểm nổi bật trong tiểu thuyết của Trần Dần, nhưng người đọc có thể nhận thấy giọng điệu giễu cợt trong ngôn ngữ nhật ký của Dưỡng. Anh thường xuyên cảm thán “A di đà bụt!” và đùa cợt câu chuyện của mình bằng những lý lẽ “i như trong thánh kinh”. Trong Vụ án, nhà văn dành hẳn một chương để thuật cuộc đối thoại bất đắc dĩ của K. với linh mục Nhà Thờ Lớn. Đấy không còn là cuộc trò chuyện tôn giáo, mà là một phiên tòa thăm dò thái độ, tra xét và kết án. Mọi cách diễn giải câu chuyện dụ ngôn về nhân viên gác cổng Pháp Luật và lão nông dân (trong Thánh kinh) mà vị linh mục kể đều không thể VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 4 32 thuyết phục K. thừa nhận bản chất cố hữu, toàn trị của thiết chế quyền lực. Anh phủ nhận ý kiến cho rằng nhân viên gác cổng Pháp Luật đã làm đúng. Linh mục nói: “không nhất thiết phải tin mọi điều hắn nói là xác thực, chỉ cần chấp nhận chúng là tất yếu”. K. mỉa mai: “Một kết luận đáng buồn. Nó biến sự dối trá thành phương châm xử thế của thế gian” (Trần Dần, 2011: 257). Đây có thể coi là tinh thần bất tín đại tự sự – một trong nhiều dấu hiệu hậu hiện đại của hai tiểu thuyết này. Bất tín tôn giáo xuất phát từ niềm tin lấy con người làm trung tâm, nền tảng nhân văn. Vụ án của K., vụ án của Dưỡng không phải là vấn đề ban phạt của đấng toàn năng, mà là vấn đề ứng xử giữa những con người với nhau, giữa con người với thời đại của anh ta. Viết Vụ án, Kafka hẳn mang nỗi ám ảnh nguồn gốc Do Thái và đạo Do Thái – những thứ sinh thời ông nhiều lần phủ nhận ảnh hưởng. Sự ghẻ lạnh của cộng đồng, tội vô tội (guiltless guitl) mà K. mang phải chăng là tội tổ tông: tội được Chúa lựa chọn hứng chịu đau khổ bất công thay nhân loại, như đức tin của người Do Thái? Vẫn biết chúng ta có thể đọc Kafka theo nhiều cách, nhưng cách nào rồi cũng thấy thấp thoáng bóng dáng của chính ông. Còn Trần Dần, với Những ngã tư và những cột đèn, bằng hình thức “nhật ký hóa tiểu thuyết”, ông đã nói “tiếng nói của cái tôi bị chấn thương” (Nguyễn Thành Thi, 2011), tiếng nói của người nghệ sĩ ham muốn sáng tạo tột bậc phải đi qua ngã tư đời lằng nhằng, chọn một ngã rẽ “kháng cự với mênh mông”, để rồi cô đơn đến xót xa: “cô trời xanh cô đơn trời tía/ Cô đơn nắng đào cô đơn mưa tái nhợt đầu ô”, và rồi âm thầm “trữ đủ đau thương/Cho mãn hạn làm người” (Cổng tỉnh, 1960). Sáng tác từ những năm 1965-1966, tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần gặp gỡ tiểu thuyết Vụ án của Franz Kafka trên nhiều phương diện nghệ thuật, bộc lộ cảm thức hiện sinh sâu sắc. Việc so sánh hai cuốn tiểu thuyết cho ta hiểu thêm về Trần Dần – một tài năng lớn, một “văn cách” (chữ dùng của nhà văn Phạm Thị Hoài) đáng trọng của nền văn học hiện đại Việt Nam, nhưng phải chịu nhiều thăng trầm. Những điểm tương đồng giữa Vụ án và Những ngã tư và những cột đèn đã minh chứng: dù ở đâu, thời đại nào, người nghệ sĩ chân chính vẫn luôn là người trăn trở không phải về hướng xoay vần của thời cuộc, mà về cuộc sinh tồn và những ngã rẽ của đời người. Tài liệu tham khảo Trần Dần (2011). Những ngã tư và những cột đèn. Tp. HCM, Nxb Hội Nhà văn. Trần Dần (2008). Thơ. Tp. HCM, Nxb Đà Nẵng. Kayka, F. (1925). Der Prozess. Lê Chu Cầu (dịch) (2015). Hà Nội, Nxb Văn học. Phạm Thị Phương (2011). Cuộc vượt biên hệ hình nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa của Trần Dần trong tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn. Kỷ yếu hội thảo quốc tế: Những lằn ranh văn học, Đại học Sư phạm Tp. HCM, tr. 950-987. Nguyễn Thành Thi (2011). Tiếng nói của “Cái tôi bị chấn thương” và tính khả dụng của yếu tố nhật ký, trinh thám trong tiểu thuyết. Kỷ yếu hội thảo quốc tế: Những lằn ranh văn học, Đại học Sư phạm Tp. HCM, tr. 227-249.
File đính kèm:
- nhung_nga_tu_va_nhung_cot_den_cua_tran_dan_va_vu_an_cua_fran.pdf