Nhóm từ chỉ mùi hương trong Truyện Kiều

Trong “Truyện Kiều” mùi-hương được thể hiện rất phong phú so với các tác phẩm văn học

cổ điển Việt Nam khác. Tuy nhiên hương, thơm, mùi, hơi có sự khác nhau khá rõ. Có những

sự vật, những loại người có hương mà không có mùi, và ngược lại. Ý nghĩa biểu cảm của

mùi-hương rất khác nhau, được thể hiện theo những lý tưởng thẩm mỹ, những nguyên tắc

nghệ thuật khác nhau. Bài viết này muốn đi sâu vào tìm hiểu vấn đề ấy. Đó cũng là một

cách để khám phá, khẳng định thiên tài nghệ thuật của Nguyễn Du.

Nhóm từ chỉ mùi hương trong Truyện Kiều trang 1

Trang 1

Nhóm từ chỉ mùi hương trong Truyện Kiều trang 2

Trang 2

Nhóm từ chỉ mùi hương trong Truyện Kiều trang 3

Trang 3

Nhóm từ chỉ mùi hương trong Truyện Kiều trang 4

Trang 4

Nhóm từ chỉ mùi hương trong Truyện Kiều trang 5

Trang 5

Nhóm từ chỉ mùi hương trong Truyện Kiều trang 6

Trang 6

Nhóm từ chỉ mùi hương trong Truyện Kiều trang 7

Trang 7

Nhóm từ chỉ mùi hương trong Truyện Kiều trang 8

Trang 8

Nhóm từ chỉ mùi hương trong Truyện Kiều trang 9

Trang 9

Nhóm từ chỉ mùi hương trong Truyện Kiều trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 15 trang minhkhanh 10200
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Nhóm từ chỉ mùi hương trong Truyện Kiều", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhóm từ chỉ mùi hương trong Truyện Kiều

Nhóm từ chỉ mùi hương trong Truyện Kiều
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT Tập 11, Số 2, 2021 113-127 
113 
NHÓM TỪ CHỈ MÙI HƢƠNG TRONG TRUYỆN KIỀU 
Nguyễn Thị Quốc Minha* 
aKhoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, 
Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam 
*Tác giả liên hệ: Email: ntquocminh1212@gmail.com 
Lịch sử bài báo 
Nhận ngày 29 tháng 12 năm 2020 
Chỉnh sửa ngày 08 tháng 02 năm 2021 | Chấp nhận đăng ngày 23 tháng 02 năm 2021 
Xuất bản trực tuyến ngày 16 tháng 4 năm 2021 
Tóm tắt 
Trong “Truyện Kiều” mùi-hương được thể hiện rất phong phú so với các tác phẩm văn học 
cổ điển Việt Nam khác. Tuy nhiên hương, thơm, mùi, hơi có sự khác nhau khá rõ. Có những 
sự vật, những loại người có hương mà không có mùi, và ngược lại. Ý nghĩa biểu cảm của 
mùi-hương rất khác nhau, được thể hiện theo những lý tưởng thẩm mỹ, những nguyên tắc 
nghệ thuật khác nhau. Bài viết này muốn đi sâu vào tìm hiểu vấn đề ấy. Đó cũng là một 
cách để khám phá, khẳng định thiên tài nghệ thuật của Nguyễn Du. 
Từ khóa: Mùi hương; Nguyễn Du; Truyện Kiều. 
DOI:  
Loại bài báo: Bài báo nghiên cứu gốc có bình duyệt 
Bản quyền © 2021 (Các) Tác giả. 
Cấp phép: Bài báo này được cấp phép theo CC BY-NC 4.0 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 
114 
WORDS FOR SCENT AND FRAGRANCE IN THE TALE OF KIEU 
Nguyen Thi Quoc Minh
a*
a
The Faculty of Literature, University of Social Sciences and Humanities, 
Vietnam National University Ho Chi Minh City, Ho Chi Minh City, Vietnam 
*
Corresponding author: Email: ntquocminh1212@gmail.com 
Article history 
Received: December 29
th
, 2020 
Received in revised form: February 8
th
, 2021 | Accepted: February 23
rd
, 2021 
Available online: April 16
th
, 2021 
Abstract 
Words for scent and fragrance appear in more abundance in “The Tale of Kieu” than in 
any other classical Vietnamese literary work. However, scent, aroma, smell, and fragrance 
are quite different. There are things and people who have a fragrance without a smell and 
vice versa. The expressive meanings of scent are very different and are expressed 
according to different aesthetic ideals and artistic principles. This article gives an in-depth 
exploration and understanding into such matters. This is also a way to discover and assert 
that Nguyen Du was an artistic genius. 
Keywords: Fragrance; Nguyen Du; The Tale of Kieu. 
DOI:  
Article type: (peer-reviewed) Full-length research article 
Copyright © 2021 The author(s). 
Licensing: This article is licensed under a CC BY-NC 4.0 
Nguyễn Thị Quốc Minh 
115 
1. DẪN NHẬP 
Trong Truyện Kiều, mùi-hương được thể hiện rất phong phú: hương hoa, hương 
khói, hương lửa, mùi hương của người, hương của đất trời, hương của thời gian, mùi ca 
ngâm, mùi nhớ, mùi đắng cay tạo thành một trường từ vựng về sự cảm nhận thế giới 
bằng khứu giác. Không có một tác phẩm văn học cổ điển nào của nước ta có sự thể hiện 
mùi hương một cách phong phú, tinh tế như thế. Tuy nhiên hương, thơm, mùi, hơi có sự 
khác nhau khá rõ. Có những sự vật, những loại người có hương mà không có mùi, và 
ngược lại. Ý nghĩa biểu cảm của mùi-hương rất khác nhau, được thể hiện theo những lý 
tưởng thẩm mỹ, những nguyên tắc nghệ thuật khác nhau. Bài viết này muốn đi sâu vào 
tìm hiểu vấn đề ấy. Đó cũng là một cách để khám phá, khẳng định thiên tài nghệ thuật 
của Nguyễn Du. 
2. NỘI DUNG 
2.1. Hƣơng - từ chỉ vật dụng trở thành từ chỉ tình yêu nam nữ 
Chữ hương và nhóm từ vựng chỉ sự cảm nhận đời sống bằng khứu giác: mùi, 
thơm, hơi, nức, sực nức, hôi được Nguyễn Du sử dụng rất phong phú, trong đó chữ 
hương với nghĩa là mùi (không phải “hương” trong “quê hương” là từ đồng âm) được 
Nguyễn Du sử dụng đến 57 lần, hơn hẳn các từ khác. 
Chữ hương trong Truyện Kiều có nhiều nghĩa, trước hết nó là vật để đốt, thắp 
cho hương hồn người đã khuất hay cầu khấn thần phật. 
Đó là hương thắp trên mộ Đạm Tiên trong đoạn mở đầu Truyện Kiều: 
Rằng: Sao trong tiết thanh minh 
Mà đây hương khói vắng tanh thế mà? 
(Nguyễn, 1999, tr. 109) 
Hay: 
Đã không kẻ đoái người hoài 
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương 
(Nguyễn, 1999, tr. 111) 
Đó cũng là nén hương Kiều cầu thần phật giúp mình trước khi bị bọn Ưng, 
Khuyển bắt đi: 
Nén hương đến trước Thiên đài 
Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân. 
(Nguyễn, 1999, tr. 181) 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 
116 
Trong Truyện Kiều rất nhiều lần Thúy Kiều và các nhân vật khác thắp hương: 
“Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương” (Nguyễn, 1999, tr. 197), “Nén hương đến 
trước Thiên đài” (Nguyễn, 1999, tr. 197), “Quét sân, đặt trác, rửa bình, thắp hương.” 
(Nguyễn, 1999, tr. 205) Chữ hương có thể xuất hiện với nhiều vật dụng thờ cúng để 
tạo ra các từ ghép khác: hương án, hương hoa, hương hỏa, hương trà, hương đèn, 
hương dầu/ dầu hương Điều này cho thấy trong Truyện Kiều cuộc sống có nhiều bất 
trắc, nhiều nỗi sợ hãi nên người ta phải cầu xin những lực lượng siêu nhiên giúp đỡ, 
đồng thời cũng cho thấy đời sống tâm linh rất được Nguyễn Du chú ý. 
Chữ hương này có liên hệ với mùi hương, mùi thơm hay chỉ là từ đồng âm thôi? 
Có! Hương không phải chỉ để thắp trong lúc thờ cúng, mà nó còn là hương trầm thắp 
cho thơm. Thúy Kiều và Kim Trọng, Thúy Kiều và Thúc Sinh gặp nhau, bên sắc bên tài, 
bên giai nhân bên tài tử, nên thường xuất hiện trong bầu không khí thơm tho. Đây là 
một nguyên tắc nghệ thuật, không phải là hiện thực đời thường. Trong đời thường người 
có tiền (như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Hoạn Bà, Hoạn Thư) đều có thể mua 
và sử dụng hương trầm đốt cho thơm, nhưng trong Truyện Kiều thì không. Nguyễn Du 
không cho những nhân vật xấu ác được đốt hương trầm, nhưng lại để cho cặp tài tử-giai 
nhân mà mình yêu thương, quý trọng xuất hiện trong bầu không khí thơm ngát hương 
trầm. Đó là hương trầm trong nhà Kim Trọng khi Kiều lần đầu qua thăm: 
Bây giờ rõ mặt đôi ta, 
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao? 
Vội mừng làm lễ rước và ... ng. (Nguyễn, 1999, tr. 
189)); “Thư hương”: hương sách vở, chỉ truyền thống, phong cách, gia thế, dòng dõi 
học vấn (Nghĩ rằng cũng mạch thư hương/ Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh 
(Nguyễn, 1999, tr. 156)); Khách du bỗng có một người/ Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư 
hương (Nguyễn, 1999, tr. 165)). Thậm chí hương còn là tiếng tốt, nó được dùng như 
danh từ ẩn dụ chỉ người, ở đây là Kim Trọng, tiếng thơm của chàng bay xa, đi xa, đã đi 
trước chàng về quê “Cửa trời rộng mở đường mây/ Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm 
phần.” (Nguyễn, 1999, tr. 36). 
Hương thường hay gắn với phụ nữ, nên nó được dùng chỉ vật dụng của phụ nữ 
đẹp, quý phái như: 
 “Hương khuê”, “phòng hương” – phòng của phụ nữ: 
Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi 
Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào. 
(Nguyễn, 1999, tr. 165) 
Hay: 
Chạy vào chốn cũ phòng hương 
Trong tro thấy một đống xương cháy tàn. 
(Nguyễn, 1999, tr. 183) 
 “Xe hương” – xe của phụ nữ, ở đây là xe của Hoạn Thư: 
Roi câu vừa gióng dặm trường 
Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh. 
(Nguyễn, 1999, tr. 180) 
Chữ hương thường được chỉ nhan sắc của phụ nữ. Thúy Kiều nói với Thúc 
Sinh: 
Bình Khang nấn ná bấy lâu, 
Yêu hoa yêu được một màu điểm trang. 
Rồi ra lạt phấn phai hương, 
Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng? 
(Nguyễn, 1999, tr. 168) 
Hương chỉ nhan sắc phụ nữ nói chung, nhưng với một vài người có vẻ đẹp hiếm 
có thì Nguyễn Du dùng từ thiên hương/ hương trời, tức nhan sắc phụ nữ là hương của 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 
120 
trời đất. Từ này thường gắn với “quốc sắc”, thành cụm từ chỉ vẻ tuyệt mỹ của phụ nữ 
“Quốc sắc thiên hương”, “Sắc nước hương trời”: 
Trong Truyện Kiều chỉ có Đạm Tiên và Thúy Kiều mới được Nguyễn Du dùng từ 
ấy. 
Như vẻ đẹp của Đạm Tiên qua lời kể của Vương Quan: 
Kiếp hồng nhan có mong manh 
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương. 
(Nguyễn, 1999, tr. 110) 
Vẻ đẹp của Thúy Kiều qua nhận định của Mã Giám Sinh – một tay chơi, một tay 
buôn người sành sỏi: 
Đã nên quốc sắc thiên hương 
Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa. 
(Nguyễn, 1999, tr. 145) 
Hoặc qua lời của Sở Khanh: 
Than ôi! sắc nước hương trời 
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây? 
(Nguyễn, 1999, tr. 156) 
Vẻ đẹp trời cho ấy trong Truyện Kiều có khi dùng thành danh từ để chỉ vẻ đẹp 
Thúy Kiều hoặc bản thân Thúy Kiều. Từ hương trong những trường hợp này để chỉ 
Thúy Kiều, vì thế không cần nói tên, không cần dùng các đại từ, chỉ cần dùng “hương” 
là biết ngay là con người nhan sắc có một không hai: 
Một cơn mưa gió nặng nề 
Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương. 
(Nguyễn, 1999, tr. 146) 
Thổ quan theo vớt vội vàng 
Thời đà đắm ngọc chìm hương mất rồi! 
(Nguyễn, 1999, tr. 226) 
Hay chữ hương chỉ vẻ đẹp sau một cuộc đời chìm nổi: 
Tuồng chi hoa thải hương thừa 
Mượn màu son phấn đánh lừa con đen. 
Nguyễn Thị Quốc Minh 
121 
(Nguyễn, 1999, tr. 171) 
Rõ ràng hoa rụng hương bay 
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi. 
(Nguyễn, 1999, tr. 242) 
Lại như những thói người ta 
Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa. 
(Nguyễn, 1999, tr. 249) 
Hương thơm thường gắn với người đẹp, hay ngược lại người đẹp mới được 
Nguyễn Du miêu tả có hương thơm. Đây không phải là sự miêu tả hiện thực, vì trong 
đời sống ai có tiền đều có thể có mua các loại dầu, nước, phấn có mùi thơm. Trong 
Truyện Kiều thì nhiều phụ nữ giàu có lắm: từ Tú Bà đến Hoạn Thư, Hoạn Bà đều có 
tiền, nhưng chỉ có Đạm Tiên, Thúy Kiều mới được Nguyễn Du miêu tả có mùi hương. 
Đây là cảnh Đạm Tiên xuất hiện trên mộ mình: 
Một lời nói chửa kịp thưa 
Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay. 
Ào ào đổ lộc rung cây, 
Ở trong dường có hương bay ít nhiều. 
(Nguyễn, 1999, tr. 112). 
Và cảnh Đạm Tiên đến thăm Kiều vào ban đêm sau buổi sáng viếng mộ: 
Gió đâu xịch bức mành mành, 
Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao. 
Trông theo nào thấy đâu nào 
Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây. 
(Nguyễn, 1999, tr. 117) 
Đạm Tiên đã chết từ xưa, chỉ còn hồn ma xuất hiện, nhưng vì từng là mỹ nhân 
tuyệt thế, nên hồn ma cũng có mùi hương. Cùng với Đạm Tiên, Thúy Kiều cũng được 
miêu tả với mùi hương: 
Cách tường phải buổi êm trời, 
Dưới đào dường có bóng người thướt tha. 
Buông cầm xốc áo vội ra, 
Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 
122 
(Nguyễn, 1999, tr. 120-121) 
Người đẹp chưa xuất hiện, mặt mũi chưa rõ, mà chỉ có bóng dáng và hương 
thơm. 
Hay trong đêm thề nguyền, hương thơm của Thúy Kiều tỏa ra, bay lẫn lộn vào 
quần áo Kim Trọng: 
Tóc tơ căn vặn tấc lòng, 
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương. 
Chén hà sánh giọng quỳnh tương, 
Dải là hương lộn bình gương bóng lồng. 
(Nguyễn, 1999, tr. 127) 
Trong ngày gặp nhau, tình yêu dâng trào, dường như nhan sắc và hương thơm 
cũng vì thế mà tỏa ra nồng nàn hơn: 
Hoa hương càng tỏ thức hồng, 
Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu. 
Sóng tình dường đã xiêu xiêu, 
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi. 
(Nguyễn, 1999, tr. 129) 
Chưa có tác giả văn học cổ điển nào miêu tả mùi hương với nhiều biểu hiện 
phong phú, tinh tế như Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Từ nghĩa mùi thơm, từ hương trở 
thành mỹ từ chỉ những gì cao quý và những gì gắn với phụ nữ. Hương – nếu là hương 
của trời (thiên hương/ hương trời), thì lại là nhan sắc – từ hương không còn là tính từ 
nữa mà trở thành danh từ. Rồi từ danh từ chỉ nhan sắc, từ hương lại trở thành đại từ chỉ 
cụ thể nhan sắc Thúy Kiều. Hương là thơm, nhưng lạ một điều, với Nguyễn Du, hương 
thơm là đặc quyền của nhan sắc, mà lại là nhan sắc của của giai nhân, của những người 
phụ nữ tốt đẹp – các nhân vật chính diện trong tác phẩm. Đó là những nguyên tắc sáng 
tạo nghệ thuật khá đặc biệt. 
2.3. Về các từ: thơm, mùi, hơi 
Trong trường từ vựng liên quan đến mùi hương còn có thơm, mùi, hơi. 
2.3.1. Từ “thơm” 
Trong Truyện Kiều “thơm” là mỹ từ để chỉ vật quý: 
Cảo thơm lần giở trước đèn, 
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh. 
Nguyễn Thị Quốc Minh 
123 
(Nguyễn, 1999, tr. 107) 
Thơm có khi trừu tượng như là danh thơm: 
Chị dù thịt nát xương mòn, 
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. 
(Nguyễn, 1999, tr. 140) 
Trong tình yêu, thì tình yêu thương, kính trọng và sự trọn vẹn về tâm hồn là điều 
quan trọng nhất – điều mà Nguyễn Du gọi là “tâm trinh”. Tất nhiên trong điều kiện lý 
tưởng thì sự toàn vẹn, trong trắng như trăng tròn vành vạnh và hoa thơm còn phong nhị là 
tốt nhất: 
Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng, 
Hoa thơm phong nhị, trăng vòng tròn gương. 
(Nguyễn, 1999, tr. 246) 
Chữ thơm thường thì dùng như một tính từ như trên, nhưng Nguyễn Du cũng có 
khi dùng như một danh từ, cách dùng từ rất độc đáo “thơm rơi”: 
Được rày nhờ chút thơm rơi 
Kể đà thiểu não lòng người bấy nay! 
(Nguyễn, 1999, tr. 121) 
Nguyễn Du miêu tả mùi thơm rất nhiều, hương và thơm xuất hiện dày đặc trong 
Truyện Kiều, nhưng lạ một điều, Nguyễn Du rất ít khi nói đến mùi hôi. Nếu tôi không 
lầm thì trong tác phẩm này duy chỉ có một lần mùi hôi xuất hiện, xuất hiện trong nghĩa 
trừu tượng của nó, chỉ Mã Giám Sinh, giống trâu ngựa dơ bẩn hại người: “Tuồng chi là 
giống hôi tanh,/ Thân nghìn vàng để ô danh má hồng.” (Nguyễn, 1999, tr. 146). 
2.3.2. Từ “mùi” 
Mùi có nghĩa gốc là sự cảm nhận của khứu giác. Tuy nhiên chữ mùi với nghĩa 
gốc như thế gần như không được Nguyễn Du sử dụng, mà ông thường dùng với nghĩa 
chuyển, có tính nghệ thuật. 
Khi nói về Mã Giám Sinh, Nguyễn Du viết: 
Quá chơi lại gặp hồi đen, 
Quen mùi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa. 
(Nguyễn, 1999, tr. 144) 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 
124 
Thì chữ mùi này dùng để miêu tả họ Mã kiếm ăn như động vật, quen đánh hơi, 
quen kiếm ăn, như vậy thì không còn là nghĩa gốc nữa. Đó là một thái độ với loại người 
bẩn thỉu, độc ác, sống trên nỗi khổ đau của đồng loại. 
Chữ mùi trong tiếng Việt, lạ một điều: không chỉ là cảm nhận của khứu giác mà 
còn của vị giác: 
Thú quê thuần hức bén mùi, 
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô. 
(Nguyễn, 1999, tr. 179) 
Mở rộng ý nghĩa hơn nữa, nó còn là phong vị của cuộc sống: 
Mùi thiền đã bén muối dưa, 
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng. 
(Nguyễn, 1999, tr. 244) 
Hay là thú vị, hứng thú của con người trong đời – “mùi ca ngâm”: 
Thông minh vốn sẵn tư trời, 
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm. 
(Nguyễn, 1999, tr. 108) 
Mùi có thể là mùi trừu tượng hơn: “mùi đắng cay” – như lời Thúy Kiều nói với 
Kim Trọng trong chặng cuối của cuộc tình: 
Nàng rằng: Chút phận hoa rơi, 
Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay. 
(Nguyễn, 1999, tr. 244) 
Còn đến “mùi nhớ”, thì có lẽ chỉ có ở Nguyễn Du: 
Buồng văn hơi giá như đồng, 
Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan. 
Mành Tương phất phất gió đàn, 
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình. 
(Nguyễn, 1999, tr. 119) 
“Mùi nhớ” phải chăng là mùi kỷ niệm, mùi của tâm tưởng? 
Nguyễn Thị Quốc Minh 
125 
2.3.3. Từ “hơi” 
Hơi cũng là từ nằm trong trường từ vựng của mùi hương, vì dù chữ hơi có nhiều 
nghĩa, nhưng trong đó có nghĩa là mùi. 
Chữ hơi có nghĩa cơ bản là khí, không khí. Nó là sự cảm nhận của da thịt về 
không khí bên ngoài. Với nghĩa ấy, chữ hơi có vẻ xa với chữ mùi, hương của khứu giác. 
Chữ hơi với nghĩa này, Nguyễn Du viết rất tinh tế: hơi giá, hơi may, hơi nước: 
Buồng văn hơi giá như đồng 
Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan. 
(Nguyễn, 1999, tr. 119) 
Vi lô san sát hơi may 
Một trời thu để riêng ai một người. 
(Nguyễn, 1999, tr. 149) 
Trên mui lướt mướt áo là 
Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương. 
(Nguyễn, 1999, tr. 230) 
Bên cạnh nghĩa cơ bản là khí, không khí, từ hơi có nghĩa nữa là hơi thở. Hơi 
cũng là nghĩa gốc của từ khí: có khí ngoài trời, và có khí là hơi thở do người và động vật 
phát ra. Truyện Kiều cũng mấy lần đề cập đến từ hơi theo nghĩa này, nhưng vẫn không 
dùng một cách đơn giản, mà dùng để chỉ tâm lý, tính cách nhân vật: 
Cạn lời hồn ngất máu say 
Một hơi lặng ngắt đôi tay lạnh đồng. 
(Nguyễn, 1999, tr. 141) 
Tú Bà tốc thẳng đến nơi 
Hầm hầm áp điệu một hơi lại nhà. 
(Nguyễn, 1999, tr. 159) 
Rộng thương còn mảnh hồng quần 
Hơi tàn được thấy gốc phần là may! 
(Nguyễn, 1999, tr. 224) 
Từ chỗ là hơi thở, từ “hơi” kết hợp với “tăm” để thành từ ghép “tăm hơi” với 
nghĩa là tin tức, tiếng tăm: 
Nghĩ ra thật cũng nên đường 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 
126 
Tăm hơi ai dễ giữ giàng cho ta? 
(Nguyễn, 1999, tr. 174) 
Bây giờ mới rõ tăm hơi 
Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen! 
(Nguyễn, 1999, tr. 193) 
Từ hai nghĩa cơ bản là khí và hơi thở, từ hơi phát triển theo nghĩa: Hơi là vật 
phát tán ra không khí, có thể cảm nhận bằng khứu giác. Từ hơi với nghĩa này có nghĩa 
âm tính hoặc trung tính: 
Trong kết hợp “hơi đồng” – hơi đồng, mùi đồng, mùi của đồng tiền, chữ hơi có 
nghĩa xấu: 
Mụ càng tô lục chuốt hồng, 
Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê. 
(Nguyễn, 1999, tr. 166) 
Trong kết hợp “hơi tiếng” thì trung tính, có tính nhục thể “quen hơi bén tiếng” – 
nam nữ quen hơi thở, quen mùi hơi cơ thể của nhau: 
Nửa năm hơi tiếng vừa quen, 
Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng. 
(Nguyễn, 1999, tr. 170) 
Như vậy từ nghĩa cơ bản là khí, không khí, từ hơi đã trở thành từ thuộc trường 
nghĩa mùi, hương, tức những từ thể hiện sự cảm nhận bằng khứu giác. Trong ý nghĩa 
nào chúng ta cũng thấy khả năng sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt cực kỳ tinh tế của 
Nguyễn Du: dù là cảm nhận ngoại cảnh như hơi giá, hơi may, đến thể hiện tâm lý: một 
hơi, hơi tàn, hay mùi: hơi đồng, hơi tiếng, từ hơi cũng được sử dụng đầy tính nghệ 
thuật. 
3. KẾT LUẬN 
Qua những phân tích trên về nhóm từ vựng chỉ cảm giác của mũi (khứu giác): 
hương, thơm, mùi, hơi trong Truyện Kiều ta thấy: từ hơi với nghĩa khứu giác được sử 
dụng ít nhất: 2 lần trong 10 lần từ này xuất hiện. Từ hơi ngay cả trong nghĩa mùi cũng 
được Nguyễn Du sử dụng một cách nghệ thuật chứ không chỉ đơn thuần là thông tin 
(hơi đồng, hơi tiếng) bên cạnh cách cảm nhận “hơi” ngoại cảnh hết sức tinh tế. Từ mùi 
được dùng nhiều hơn một chút – 6 lần, nhưng Nguyễn Du cũng không dùng nó một 
cách khách quan theo kiểu kể thuật thông tin, mà dùng với nghĩa trừu tượng để chỉ cảm 
xúc, tâm lý của con người: mùi Thiền, mùi ca ngâm, mùi đắng cay, mùi nhớ. 
Nguyễn Thị Quốc Minh 
127 
Kỳ lạ nhất là hai từ hương và thơm, hai từ này được sử dụng nhiều một cách áp 
đảo trong nhóm từ vựng chỉ khứu giác này: 62 lần, trong đó: hương 57 lần và thơm 5 
lần (Đào, 1974, tr. 185-186). Từ thơm là một nét nghĩa của hương (mùi thơm), nên 
thường được dùng như tính từ (cảo thơm, hoa thơm), trong đó có một lần Nguyễn Du 
dùng nó như một danh từ làm cho mấy trăm năm người ta còn phục mãi (thơm rơi). Từ 
hương với 57 lần dùng, khiến người đọc như được thưởng thức một đại tiệc về mùi 
hương. Đó là “hương lửa/ lửa hương” nồng cháy của tình yêu như một định mệnh tiền 
kiếp. Đó cũng là những gì thơm tho tốt đẹp của con người (hương lân, thư hương, 
hương bay dặm phần). Nhưng phong phú nhất là hương gắn với thế giới người đẹp: 
hương khuê, phòng hương, xe hương, phấn hương, là Thiên hương, hương trời, hương 
thừa, hương (gây mùi nhớ), (dải là) hương lộn để chỉ người đẹp, hay chỉ chính Thúy 
Kiều. Chỉ có người tốt đẹp, những giai nhân tài tử mới có hương thơm hay hoạt động 
trong bầu không khí dẫm hương thơm – đó là một nguyên tắc nghệ thuật. 
Đối với người nghệ sĩ ngôn từ thì làm văn chương phải trọng chữ nghĩa, phải 
biết dùng chữ nghĩa một cách có nghệ thuật, không được dễ dãi, không chỉ dùng nó như 
những thông tin vô cảm. Đó cũng là một nguyên tắc thuộc về sáng tạo nghệ thuật. Với 
việc dùng từ hương/ thơm có số lượng xuất hiện áp đảo so với những mùi trung tính và 
xấu, cho thấy nguyên tắc sáng tác, tư duy nghệ thuật của Nguyễn Du thiên về hướng 
lãng mạn chủ nghĩa. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Đào, D. A. (1974). Từ điển Truyện Kiều. NXB Khoa học Xã hội. 
Nguyễn, D. (1999). Truyện Kiều. In trong T. G. Nguyễn, & C. Trương (Biên khảo & 
chú giải) Nguyễn Du, tác phẩm và lịch sử văn bản. NXB. TP. Hồ Chí Minh. 

File đính kèm:

  • pdfnhom_tu_chi_mui_huong_trong_truyen_kieu.pdf