Nhân vật thuý Kiều trong truyện kiều từ góc nhìn văn hóa nho giáo
Luân lý đạo đức Nho giáo nói chung thâm nhập vào đời sống văn hóa Việt không phải chỉ
là chuẩn mực đạo đức, hiện thân của đạo lý Nho gia mà còn là hiện thân của đạo lý nhân
dân mơ ước, nó tồn tại trong thực tế và được con người Việt Nam bảo vệ. Bài viết từ góc độ
liên ngành văn học và văn hóa, cụ thể là từ góc nhìn văn hóa Nho giáo để phân tích nhân
vật Thuý Kiều trên các phương diện: Trung, hiếu, tiết, nghĩa. Trung hiếu tiết nghĩa ở Thuý
Kiều của Nguyễn Du tất nhiên có phần xuất phát từ lễ giáo Nho gia, nhưng quan trọng hơn
cả, đó là lẽ sống giàu lòng yêu thương, giàu nhân nghĩa của con người Việt Nam. Bài viết
khẳng định trung hiếu tiết nghĩa ở Thuý Kiều tuy mang tên Nho giáo, nhưng thực chất lại là
phẩm chất của con người Việt Nam. Phẩm chất của Thuý Kiều cho thấy đạo đức Nho giáo
đã được quan niệm lại do truyền thống của dân tộc, do thực tế của xã hội đương thời và
cũng do môi trường sinh sống của bản thân Nguyễn Du. Và điều quan trọng hơn nữa là
“đạo đức” ấy lại được nung nấu, thấm nhuần qua một tâm hồn đầy ưu ái, một nhân cách
lớn, một nhà nhân đạo cao cả. Bài viết góp phần cho thấy “Truyện Kiều” không đơn giản
là tác phẩm vay mượn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân vật thuý Kiều trong truyện kiều từ góc nhìn văn hóa nho giáo
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT Tập 11, Số 2, 2021 141-154 141 NHÂN VẬT THUÝ KIỀU TRONG TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA NHO GIÁO Phạm Văn Hóaa* a Khoa Ngữ văn và Lịch sử, Trường Đại học Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam *Tác giả liên hệ: Email: hoapv@dlu.edu.vn Lịch sử bài báo Nhận ngày 20 tháng 11 năm 2020 | Chấp nhận đăng ngày 26 tháng 02 năm 2021 Xuất bản trực tuyến ngày 16 tháng 4 năm 2021 Tóm tắt Luân lý đạo đức Nho giáo nói chung thâm nhập vào đời sống văn hóa Việt không phải chỉ là chuẩn mực đạo đức, hiện thân của đạo lý Nho gia mà còn là hiện thân của đạo lý nhân dân mơ ước, nó tồn tại trong thực tế và được con người Việt Nam bảo vệ. Bài viết từ góc độ liên ngành văn học và văn hóa, cụ thể là từ góc nhìn văn hóa Nho giáo để phân tích nhân vật Thuý Kiều trên các phương diện: Trung, hiếu, tiết, nghĩa. Trung hiếu tiết nghĩa ở Thuý Kiều của Nguyễn Du tất nhiên có phần xuất phát từ lễ giáo Nho gia, nhưng quan trọng hơn cả, đó là lẽ sống giàu lòng yêu thương, giàu nhân nghĩa của con người Việt Nam. Bài viết khẳng định trung hiếu tiết nghĩa ở Thuý Kiều tuy mang tên Nho giáo, nhưng thực chất lại là phẩm chất của con người Việt Nam. Phẩm chất của Thuý Kiều cho thấy đạo đức Nho giáo đã được quan niệm lại do truyền thống của dân tộc, do thực tế của xã hội đương thời và cũng do môi trường sinh sống của bản thân Nguyễn Du. Và điều quan trọng hơn nữa là “đạo đức” ấy lại được nung nấu, thấm nhuần qua một tâm hồn đầy ưu ái, một nhân cách lớn, một nhà nhân đạo cao cả. Bài viết góp phần cho thấy “Truyện Kiều” không đơn giản là tác phẩm vay mượn. Từ khóa: Hiếu; Nghĩa; Nhân vật; Tiết; Thuý Kiều; Trung; Truyện Kiều; Văn hóa Nho giáo. DOI: Loại bài báo: Bài báo nghiên cứu gốc có bình duyệt Bản quyền © 2021 (Các) Tác giả. Cấp phép: Bài báo này được cấp phép theo CC BY-NC 4.0 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 142 THE CHARACTER THUY KIEU IN THE TALE OF KIEU FROM THE PERSPECTIVE OF CONFUCIAN CULTURE Pham Van Hoa a* a The Faculty of Literature and History, Dalat University, Lam Dong, Vietnam * Corresponding author: Email: hoapv@dlu.edu.vn Article history Received: November 20 th , 2020 | Accepted: February 26 th , 2021 Available online: April 16 th , 2021 Abstract Ethical Confucianism in general imparts into Vietnamese cultural life not only moral standards, the embodiment of Confucian morality, but also the embodiment of the people’s morality to dream as it exists in reality and is protected by the Vietnamese people. This article analyzes the following aspects of Thuy Kieu's character: loyalty, honor, chastity, and gratitude from the perspective of interdisciplinary literature and culture, particularly Confucian culture. Nguyen Du's loyalty, honor, chastity, and gratitude in Thuy Kieu, of course, partly comes from the Confucianism tradition, but most importantly, from rich love and humanity; it is what Vietnamese people live for. This article affirms that loyalty, honor, chastity, and gratitude in Thuy Kieu, although called Confucianism, are in fact the qualities of the Vietnamese people. Thuy Kieu's personality shows that Confucian morality has been re-conceptualized by the nation's traditions, by the reality of contemporary society, and also by the living environment of Nguyen Du, himself. And more importantly, that "morality" is inspired again, imbued with a loving soul, a great personality, and a noble philanthropic spirit. This article shows that “The Tale of Kieu” is not simply a copy of an earlier work. Keywords: Character; Chastity; Confucian culture; Gratitude; Honor; Loyalty; The Tale of Kieu; Thuy Kieu. DOI: Article type: (peer-reviewed) Full-length research article Copyright © 2021 The author(s). Licensing: This article is licensed under a CC BY-NC 4.0 Phạm Văn Hóa 143 1. DẪN NHẬP Trong thời kỳ phong kiến cùng với các nước Đông Á khác, văn hóa Việt Nam và Trung Quốc được xem là “đồng văn”. Trong vùng văn hóa Đông Nam Á, có thể nói văn hóa Việt dung hợp văn hóa Nho giáo khá sâu đậm. Sự dung hợp này diễn ra như một quy luật khách quan, là nhu cầu tất yếu của quá trình phát triển cộng đồng dân tộc. Tư tưởng Nho giáo đã vào Việt Nam từ thời kỳ Tần Hán (khoảng thế kỷ I TCN). Sau khi chính quyền phong kiến Việt Nam độc lập ra đời, tư tưởng và văn hóa Nho giáo được vận dụng để xây dựng thiết chế phong kiến ổn định: “Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của văn hóa Việt Nam truyền thống, tư tưởng Nho giáo đã dần dần đi vào nề nếp và phát triển, có ý nghĩa rất to lớn đối với sinh hoạt văn hóa và tư tưởng của nước Đại Việt" (Tạ, 2013, tr. 41). Ở Việt Nam, Nho gia được gọi là Nho giáo. Từ thời kỳ độc lập (Thế kỷ X), Nho giáo trải qua quá trình từ bị xem nhẹ đến được coi trọng, rồi chiếm địa vị trung tâm bên cạnh Phật giáo và Đạo giáo. Không chỉ đáp ứng yêu cầu xây dựng một nhà nước phong kiến tập quyền vững mạnh, Nho giáo dần trở thành một phần của văn hóa Việt Nam truyền thống. Luân lý đạo đức Nho giáo trở thành những quy tắc đạo đức trong quan hệ gia đình và xã hội. Nho giáo vào Việt Nam không chỉ là sự truyền bá chữ Hán mà còn là điều kiện có lợi cho sự phát triển của văn học viết bằng chữ Nôm và văn học dân tộc. Như Trần (1996, tr. 49) từng khẳng định: “Nho giáo khích lệ sự phát triển của văn học trung đại Việt Nam. Nho giáo ảnh hưởng trực tiếp đến văn học Việt Nam qua thế giới quan của người cầm bút, chi phối ngòi bút, quan niệm văn học, motif nội dung, hình ảnh, từ ngữ...”. Truyện Kiều của Nguyễn Du (1765-1820) ra đời và trở thành tác phẩm tuyệt thế, đỉnh cao của văn học Việt Nam thời trung đại không thể không nói đến ảnh hưởng của văn hóa Nho giáo. Nghiên cứu từ tác giả Nguyễn Du đến nội dung tác phẩm Truyện Kiều đến câu chuyện cuộc đời nàng Thuý Kiều không thể nào bỏ qua việc tìm hiểu tác động của yếu tố văn hóa Nho giáo, cũng như đặt đối tượng nghiên cứu trên trong không gian văn hóa ... sợ “Quá chiều nên đã chán chường yến anh,... Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên” (Nguyễn, 2001, tr. 83) sau cuộc mây mưa vượt rào. Ở đây, có thể khẳng định, ứng xử với Tiết trinh của Thuý Kiều đã mang nội dung mới. Quan niệm của các nhà nhân văn chủ nghĩa thế kỷ XVIII-nửa đầu thế kỷ XIX, mà Nguyễn Du là một đại diện, về chữ Tiết trinh, về nhân phẩm của con người mới mẻ, nhân đạo và phá vỡ chuẩn mực đạo đức giáo điều xa rời thực tế của Nho giáo. Những vấn đề của con người, thuộc về con người và mang tính nhân văn đã được Nguyễn Du từng bước tổng hợp từ truyền thống của dân tộc và khu vực, được ông nâng cao, làm sâu sắc hơn chính từ cuộc đời đầy trải nghiệm và cũng đầy sóng gió của mình. Phạm Văn Hóa 151 3.4. Chữ Nghĩa với Thuý Kiều Chữ Nghĩa ở hình tượng Thuý Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du chủ yếu biểu hiện ở đoạn, sau khi Từ Hải thắng lợi trở về, nghe Thuý Kiều tâm sự về những việc chua xót đã qua, chàng nổi giận lôi đình, lập tức tập hợp quân lính đến Lâm Tri, Vô Tích bắt về những kẻ thù và đưa về ân nhân của Thuý Kiều. Từ Hải để Thuý Kiều toàn quyền xử lý, ân đền oán trả, thưởng phạt phân minh. Đối với Thúc Sinh, Kiều nói: Nàng rằng: "Nghĩa trọng nghìn non, Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không? Sâm, Thương, chẳng vẹn chữ tòng, Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân? Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân, Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là” (Nguyễn, 2001, tr. 169) Thái độ của Thúy Kiều với Hoạn Thư “mà trong lẽ phải có người có ta” (Nguyễn, 2001, tr. 200) cho thấy văn hóa ứng xử truyền thống của người Việt Nam, khiến Kiều trở nên gần gũi, nhân văn hơn. Chữ Nghĩa ở đây chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo, nhưng Nguyễn Du không hề xem nhẹ đạo lý nghĩa tình truyền thống của người Việt Nam. Đó là đạo lý ân nghĩa, thuỷ chung, vị tha, nhân hậu, bao dung và thấu hiểu. Nhân vật Thuý Kiều hiện thân của đạo lý tốt đẹp ấy. Việc làm của Thuý Kiều được quần chúng, qua miệng viên lại già họ Đô đánh giá là “Đã nên có nghĩa có nhân/ Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen” (Nguyễn, 2001, tr. 192). Đối với kẻ bạc ác như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Hạnh, Bạc Bà nàng không tha thứ một ai: Mấy người bạc ác, tinh ma, Mình làm, mình chịu, kêu mà ai thương! (Nguyễn, 2001, tr. 171) Ở đây, Thuý Kiều ân oán phân minh, có ơn trả ơn, nợ oán báo oán. Dưới ngòi bút Nguyễn Du, hình tượng Thuý Kiều với chữ Nghĩa được thể hiện rất sống động. Nếu nhân nghĩa của Khổng giáo phục vụ cho trật tự phong kiến thì nhân nghĩa của Nguyễn Du không những mang dấu ấn thời đại, mà còn là sự kế thừa được truyền thống nhân nghĩa của ông cha ta. Các nhân vật chính diện của Nguyễn Du là những con người hành động vì nghĩa một cách tự giác và đầy nhiệt tình. Ở Thuý Kiều, Nghĩa với Tình gắn với nhau làm một. Thuý Kiều quyết định trao duyên cho Thuý Vân có nghĩa là việc làm vì tình nghĩa, trả nghĩa cho Kim Trọng. Chữ Nghĩa ở đây mang nội hàm tình yêu thương và trách nhiệm. Trước sau, Thuý Kiều vẫn là con người nhân hậu, vị tha, coi ân nghĩa hơn oán thù, sẵn sàng khoan dung, độ lượng với kẻ nhận ra tội lỗi. Nghĩa tình ấy, nơi Kiều, lại là sắc thái tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, phù hợp với đạo lý của người Việt Nam. Cách cư xử nhân nghĩa của nàng khiến người đời hả hê lòng dạ. Đồng thời, ở đây TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 152 thái độ ứng xử đầy nhân nghĩa của Thuý Kiều cũng phản ánh thái độ căm ghét tận xương tuỷ của Nguyễn Du đối với các thế lực phong kiến đen tối. 4. NGUYỄN DU, NHÀ NHO (QUÂN TỬ VÀ TÀI TỬ) VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM NHÌN TỪ NHÂN VẬT THUÝ KIỀU Trung hiếu tiết nghĩa ở Thuý Kiều thể hiện những đặc trưng gắn với hai motif nhân vật quen thuộc trong thơ ca của Nguyễn Du cả chữ Hán lẫn chữ Nôm. Đó là những thân phận hồng nhan mang đặc trưng “đa đoan” và những phụ nữ với đặc trưng thân phận là “đoan chính”. Ở Thuý Kiều có hình bóng của ca nương, cầm giả xuất hiện khá nhiều trong sáng tác của Nguyễn Du, một mặt bắt nguồn từ nguyên nhân kinh tế xã hội, một mặt có nguyên nhân đến từ tiểu sử và gia tộc. Nguyễn Du đồng cảm với thân phận hồng nhan bạc mệnh của họ. Bên cạnh đó, Thuý Kiều cũng có bóng dáng của tiết phụ, liệt nữ - loại nhân vật xuất hiện khá nhiều trong thơ chữ Hán Nguyễn Du1 – nguyên nhân sâu xa đến từ bối cảnh xã hội và tư tưởng. Nằm trong vành khuyên văn hóa Hán, Việt Nam đương nhiên tiếp nhận và chịu ảnh hưởng của giáo lý Nho gia vốn đề cao “tam cương” với sự thống trị của thế giới đàn ông. Người phụ nữ trong xã hội này phải giữ gìn đức hạnh, nêu cao danh dự. Nguyễn Du ca ngợi người phụ nữ đức hạnh Nho giáo là lẽ đương nhiên. Motif nhân vật phụ nữ “đoan chính” trong thơ Nguyễn Du mang mẫu số chung là đều gặp sự oan trái về cảnh ngộ, sự éo le trong số phận, trong hoàn cảnh đó họ lựa chọn sống theo gương đạo đức. Kiều đã chủ động lựa chọn hy sinh tình riêng để thuận theo chữ hiếu, chọn cái chết để bảo tồn trinh tiết,... Trung hiếu tiết nghĩa của Kiều đã nhận được từ Nguyễn Du lòng thương cảm và sự ngưỡng mộ tuyệt đối. Nguyễn Du đứng trên lập trường của đạo đức Nho giáo để ca ngợi tấm gương đạo đức của người phụ nữ trung trinh hiếu nghĩa, giữ vững đạo cương thường Thuý Kiều. Nhưng, Nguyễn Du với tâm hồn nhạy cảm và trái tim nhân ái đã không chỉ nhìn nàng Kiều như một tấm gương đạo đức để khuyến trừng, mà ông còn luôn thấy được sự cô độc đến thảm thương, sự hy sinh, oan trái đến gần như vô nghĩa ở Thuý Kiều. Hai motif này hòa vào nhau trong thân phận Thuý Kiều, và cùng nhận được sự cảm thương của thi hào họ Nguyễn. Hai motif này xuất hiện trong phẩm chất Thuý Kiều thể hiện mối quan hệ giữa Truyện Kiều với thơ chữ Hán của ông là sự tiếp nối, nâng cao và hoàn thiện thức cảm về cuộc đời của Nguyễn Du. Hai motif này xuất hiện trong phẩm chất Thuý Kiều đến từ sự phức tạp, đa diện trong nhân cách tư tưởng của Nguyễn Du. Trong ông tồn tại lí trí của một ông quan và tình cảm của một nghệ sĩ, cả lí tưởng hành đạo của một nhà Nho quân tử và tư chất tài tình của một nhà Nho tài tử. Hai khuôn mặt này tồn tại song song trong nhân cách Nguyễn Du, có khi bổ trợ cho nhau, có khi xung đột với nhau. Sự đồng hành và mâu thuẫn ấy dường như đã thể hiện trong cách ông xây dựng nhân vật tâm đắc nhất của mình là Vương Thuý Kiều. Kiều đã đi từ chốn “Êm đềm trướng rủ màn che” (Nguyễn, 2001, tr. 55) đến chỗ “Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa” (Nguyễn, 2001, tr. 200) mà vẫn được Nguyễn Du mượn lời chàng Kim Trọng để chiêu 1 Thơ chữ Hán Nguyễn Du không chỉ đề vịnh về các nhân vật mang đức hạnh Nho giáo nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc như: Dương Thái Hậu, Dương Quý Phi, Nga Hoàng, Nữ Anh, Ngu Cơ, Tiểu Kiều, Đại Kiều,... mà còn ca ngợi những người phụ nữ dù không xuất thân cao sang quyền quý nhưng để lại tấm gương đức hạnh Nho giáo như người chinh phụ chờ chồng hóa đá ở Lạng Sơn, ba người phụ nữ họ Lưu trầm mình trên biển,... Phạm Văn Hóa 153 tuyết rằng “Như nàng lấy hiếu làm trinh” (Nguyễn, 2001, tr. 200). Ông đã tìm cách hoán đổi các hệ giá trị của Nho gia về đạo đức để giải cứu cho nhân vật yêu quý của mình. Ông đã để cho nàng Thuý Kiều mấy lần định quyên sinh giữ tiết nhưng rồi lại để nàng sống với những suy nghĩ toan tính rất mực “con người”. Dành sự thương cảm nâng niu với phận ca nhi kỹ nữ trên cái nền tảng thâm căn cố đế của đạo đức lễ giáo Nho gia – chính điều đó đã làm nên cái vĩ đại trong nhân cách và văn tài của Nguyễn Du. Quả thật, “sự đa tạp, hỗn dung về tư tưởng chính trị - đạo đức và thẩm mỹ trong bản thân tác giả trung đại là một thực tế quan trọng cần được tôn trọng” (Trần, 2012, tr. 209). Trung hiếu tiết nghĩa ở Thuý Kiều của Nguyễn Du còn là kết quả của một quá trình tiếp nhận và dung hợp văn hóa Nho giáo của người Việt. Bản thân đạo đức Nho giáo có nhiều yếu tố nhân văn phù hợp với đạo đức truyền thống người Việt. Nho giáo cực đoan luôn xem nhẹ vai trò của người phụ nữ đối với xã hội nhưng tư tưởng Việt Nam luôn xây dựng trên nền bản sắc không phân biệt nam nữ để đánh giá và ghi nhận phẩm chất của họ. Thực tế trong tác phẩm, Nguyễn Du không đề cao Kiều ở phẩm chất người con gái nết na, đảm đang, theo kiểu công, dung, ngôn, hạnh Nho giáo. Quan điểm nghiên cứu phong kiến nêu cao đạo đức trung hiếu tiết nghĩa trong Truyện Kiều và nhân vật Thuý Kiều, cho đó là đạo đức của Nho giáo và Kiều là tấm gương của đạo đức ấy. Thực tế, Nho giáo đến thời đại Nguyễn Du đã trở thành tấm khiên cản trở và tội lỗi. Nhân dân sở dĩ yêu mến Kiều và Truyện Kiều là do họ tìm thấy trong đó cái đạo nghĩa của mình. Cho nên trung hiếu tiết nghĩa trong truyện tuy mang tên Nho giáo, nhưng thực chất lại là đạo đức nhân dân, là đạo nghĩa nhân dân. Chẳng hạn Nho giáo là phục tùng, đạo hiếu của nhân dân là tình yêu thương. Với người Việt Nam, tam tòng tứ đức không hề là khuôn mẫu duy nhất định hình nữ tính, người phụ nữ Việt trong truyền thống cũng không nhất thiết là liễu bồ dựa bóng tùng quân, an phận nâng khăn sửa túi. Điều này phù hợp với khẳng định của Zhao và Song (2015, tr. 379), các nhà nghiên cứu người Trung Quốc: “Thuý Kiều của Nguyễn Du vẫn bảo lưu chất tài tình của tiểu thuyết tài tử giai nhân Trung Quốc nhưng Thuý Kiều của Trung Quốc trọng chữ “tài”, Thuý Kiều của Nguyễn Du trọng chữ “mệnh” và chữ “tình”, trọng “nữ tính” hơn. Chữ “tài” của Thuý Kiều Việt Nam chỉ giúp làm nền cho thân phận người phụ nữ. Thúy Kiều của Thanh Tâm tài nhân thể hiện sự điềm tĩnh và dũng cảm của con người trọng đạo lý. Thúy Kiều của Nguyễn Du dịu dàng nhu thuận, nhân ái, bao dung hoàn toàn phù hợp với những chuẩn mực về người con gái lý tưởng thể hiện được những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Từ đầu đến cuối tác phẩm, Kiều của Nguyễn Du luôn giữ phẩm cách thiện lương, thùy mị”. Không giống con người nghĩa lý, đạo lý của Thanh Tâm tài nhân, Thuý Kiều của Nguyễn Du trở thành con người tâm lý, con người tình nghĩa. Ở đây có yếu tố truyền thống văn hóa và văn học đặc thù của mỗi dân tộc đã ảnh hưởng tới phong cách nghệ sĩ. Đọc Truyện Kiều, người ta nhận ra những phẩm chất, tính cách, tâm lý,... của Thuý Kiều như hiện thân người phụ nữ Việt Nam, không xa lạ. Đấy là biệt tài của Nguyễn Du trên tinh thần chủ động của văn hóa nội sinh tiếp biến văn hóa ngoại sinh về phía dòng chảy văn hóa Việt, trong xu hướng dân tộc hóa. Hình tượng Thuý Kiều còn phản ánh tính thời đại Nguyễn Du: Sự thức tỉnh của tiếng nói cá nhân, giải phóng cá nhân và quyền tự do cá nhân trong sự chuyển biến xã hội, thăng trầm thời thế và quyền lực. Cá nhân Thuý Kiều và người phụ nữ nói chung chủ động trong việc ra quyết định, tìm kiếm tình yêu, hạnh phúc, cũng như xác lập các TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 154 hệ giá trị và chuẩn mực chứ không đơn giản tuân theo quy chuẩn đạo đức, truyền thống, ràng buộc của xã hội Nho giáo. Đây là biểu hiện của phẩm chất Kiều, cũng là đặc tính của văn hóa Việt: Linh hoạt trước hoàn cảnh. Cùng với các nhân vật khác, Kiều đã định nghĩa lại hiếu, trung, trinh tiết, phẩm giá và giành quyền quyết định hành động của nàng đối với các giá trị cá nhân này. 5. KẾT LUẬN Bài viết tìm hiểu nhân vật Thuý Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn văn hóa Nho giáo, không chỉ giúp thấu hiểu sâu sắc hơn nội dung của tác phẩm, đồng thời thông qua sự thành công trong việc “tái tạo” nhân vật Thuý Kiều có thể nhìn nhận những ẩn tàng sau phẩm chất của nàng là văn hóa Việt truyền thống. Đằng sau sự thành công trong ngòi bút xây dựng hình tượng Thuý Kiều nói riêng, chúng ta nhận ra sự tiếp nhận văn hóa Nho giáo của Việt Nam không hoàn toàn là sự sao chép, mà đó là sự tiếp nhận sáng tạo và có chọn lọc, nói như một số nhà nghiên cứu, Nho giáo đã được Việt Nam hóa. Chữ Nôm và văn học chữ Nôm là dòng văn học dưới sự sáng tạo của người Việt sau khi tiếp thu chữ Hán và văn học Hán. Nguyễn Du và tác phẩm đỉnh cao của văn học Việt Nam thời trung đại Truyện Kiều là một ví dụ điển hình cho tinh thần sáng tạo đó. Dưới ngòi bút của Nguyễn Du tư tưởng văn hóa Nho giáo được thể hiện tinh thần Việt một cách tinh tế. Trong một bài viết, Nguyễn (2016, tr. 26) đã từng khẳng định rằng: “Quyền lực chính trị và quyền lực văn hóa đã sững sờ bó tay trước một kiệt tác văn chương tràn đầy tư thế. Với Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ thể hiện cái tài năng cá nhân của riêng mình mà còn nói với thế giới về căn cốt của văn hóa Việt Nam”. TÀI LIỆU THAM KHẢO Hoài, T. (1979). Nghìn thu vọng mãi. In trong D. A. Đào (chú giải), Nguyễn Du Truyện Kiều (tr. 58). NXB.Văn học. Nguyễn, D. (2001). Truyện Kiều. NXB. Văn học. Nguyễn, T. T. X. (2016). Nguyễn Du người làm nên những cuộc hôn phối kỳ diệu trong thế giới văn chương. Tạp chí Khoa học & Công nghệ, 19(X3), 26. Tạ, N. L. (2013). Lịch sử Việt Nam (Tập 3). NXB. Khoa học Xã hội. Trần, Đ. H. (1996). Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại. NXB. Văn hóa Thông tin. Trần, N. T. (2015). Truyện Kiều dưới cái nhìn của kiểu người đọc nhà nho. In trong Kỷ yếu Hội thảo Kỷ niệm 250 năm năm sinh đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Du (tr. 635-644). NXB. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Trần, Q. N. (2013). Khảo sát Truyện Kiều (Ch. Thâu, Ghi). com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/3866-khao-sat-doan-truong- tan-thanh-cua-nguyen-du-bai-soan-cho-lop-8a-va-b-truong-pho-thong-cap-iii- phan-dinh-phung-ha-tinh-nien-khoa-1950-1951 Trần, T. N. (2012). Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX. NXB. Giáo dục. Phạm Văn Hóa 155 Vũ, T. (2016). Sự kế thừa, phát triển tư tưởng và nghệ thuật trong Truyện Kiều. Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, (2), 76-85. Zhao, Q. Y., & Song, L. Y. (2015). Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân: Kế thừa và biến đổi (Phan, Th. V., Dịch). In trong Kỷ yếu Hội thảo Kỷ niệm 250 năm năm sinh đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Du (tr. 856-874). NXB. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
File đính kèm:
- nhan_vat_thuy_kieu_trong_truyen_kieu_tu_goc_nhin_van_hoa_nho.pdf