Nhận thức về chất lượng giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng
Mục tiêu: Đánh giá mức độ nhận thức về chất lượng giấc ngủ và xác định các yếu tố liên quan đến giấc ngủ của sinh
viên điều dưỡng năm nhất. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Áp dụng phương pháp nghiên cứu cắt ngang thông
qua bộ câu hỏi PSQI (Thang đo chỉ số chất lượng giấc ngủ Pittsburgh). Tổng cộng có 120 sinh viên Cử nhân điều
dưỡng năm nhất tham gia vào nghiên cứu. Kết quả: Tổng điểm chỉ số chất lượng giấc ngủ PSQI trung bình của sinh
viên là 4,88 (SD = 2,48) và có 35,4% người tham gia có tổng điểm PSQI lớn hơn 5, có liên quan đến chất lượng giấc
ngủ kém. Có 67,5% sinh viên tự đánh giá chất lượng giấc ngủ của họ tốt và rất tốt mặc dù tổng điểm PSQI cho thấy chỉ
có 64,5% sinh viên mới thực sự có chất lượng giấc ngủ tốt. Các yếu tố liên quan đến giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng
năm nhất bao gồm: Các rối loạn giấc ngủ, rối loạn chức năng ban ngày và việc uống thuốc ngủ. Trong đó các rối loạn
giấc ngủ phổ biến nhất là không thể đi vào giấc ngủ trong vòng 30 phút, thức dậy vào giữa đêm hoặc sáng sớm, phải
dậy để đi vệ sinh và tiếng ồn.
Kết luận: Sinh viên chưa cảm nhận được thực sự chất lượng giấc ngủ của họ như thế nào điều này có thể do sinh viên
còn thiếu kiến thức về những yếu tố tạo nên chất lượng giấc ngủ tốt
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận thức về chất lượng giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06(43) (2020) 86-94 86 Nhận thức về chất lượng giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng Perception of sleep quality among nursing students Nguyễn Thị Bích Trâma,b* Nguyen Thi Bich Trama,b* aTrung tâm Thực hành Mô phỏng Y khoa, Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam aMedical Simulation Center, Duy Tan University, Danang, 550000, Vietnam bKhoa Điều dưỡng, Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam bFaculty of Nursing, Duy Tan University, Danang, 550000, Vietnam (Ngày nhận bài: 29/10/2020, ngày phản biện xong: 02/11/2020, ngày chấp nhận đăng: 17/12/2020) Tóm tắt Mục tiêu: Đánh giá mức độ nhận thức về chất lượng giấc ngủ và xác định các yếu tố liên quan đến giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng năm nhất. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Áp dụng phương pháp nghiên cứu cắt ngang thông qua bộ câu hỏi PSQI (Thang đo chỉ số chất lượng giấc ngủ Pittsburgh). Tổng cộng có 120 sinh viên Cử nhân điều dưỡng năm nhất tham gia vào nghiên cứu. Kết quả: Tổng điểm chỉ số chất lượng giấc ngủ PSQI trung bình của sinh viên là 4,88 (SD = 2,48) và có 35,4% người tham gia có tổng điểm PSQI lớn hơn 5, có liên quan đến chất lượng giấc ngủ kém. Có 67,5% sinh viên tự đánh giá chất lượng giấc ngủ của họ tốt và rất tốt mặc dù tổng điểm PSQI cho thấy chỉ có 64,5% sinh viên mới thực sự có chất lượng giấc ngủ tốt. Các yếu tố liên quan đến giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng năm nhất bao gồm: Các rối loạn giấc ngủ, rối loạn chức năng ban ngày và việc uống thuốc ngủ. Trong đó các rối loạn giấc ngủ phổ biến nhất là không thể đi vào giấc ngủ trong vòng 30 phút, thức dậy vào giữa đêm hoặc sáng sớm, phải dậy để đi vệ sinh và tiếng ồn. Kết luận: Sinh viên chưa cảm nhận được thực sự chất lượng giấc ngủ của họ như thế nào điều này có thể do sinh viên còn thiếu kiến thức về những yếu tố tạo nên chất lượng giấc ngủ tốt. Từ khóa: Chất lượng giấc ngủ, sinh viên Điều dưỡng, rối loạn giấc ngủ, rối loạn chức năng ban ngày và thuốc ngủ. Abstract Objectives: Explore the perception of sleep quality and identify the sleep-related factors of freshman nursing students. Method: This study had a descriptive, cross-sectional survey design using the Pittsburgh Sleep Quality Index (PSQI) with a total of 120 students participating in this study. Result: The students' sleep quality index mean score was 4.88 (SD = 2.48). 35.4% of participants had PSQI scores greater than 5, which was associated with poor sleep quality. 67.5% of students self-rated their sleep quality as good and very good although the overall PSQI score showed that only 64.5% of participants had good sleep quality. Sleep-related factors of freshman nursing students included: sleep disturbances, daytime dysfunction, and the use of sleeping pills. The most common sleep disorders were the inability to fall asleep within 30 minutes, waking up in the middle of the night or the early morning, having to get up to use the toilet, and noise. Conclusion: Students did not realize that the quality of their sleep was poor. This may be due to the lack of knowledge about the factors that contribute to good sleep quality. Keywords: Sleep quality, nursing students, sleep disturbance, daytime dysfunction, sleeping pills. * Corresponding Author: Nguyen Thi Bich Tram; Medical Simulation Center, Duy Tan University, Danang, 550000, Vietnam; Faculty of Nursing, Duy Tan University, Danang, 550000, Vietnam Email: nguyentbichtram17@dtu.edu.vn 06(43) (2020) 86-94 Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06(43) (2020) 86-94 87 1. Đặt vấn đề Giấc ngủ là điều cần thiết cho sức khỏe thể chất và tinh thần. Chất lượng giấc ngủ kém và thói quen ngủ kém có thể dẫn đến thiếu ngủ, gây hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe và xã hội [8]. So với các vấn đề sức khỏe khác thì sức khỏe giấc ngủ là chủ đề chưa được nghiên cứu nhiều [12]. Đặc biệt vấn đề giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng cũng cần phải được quan tâm. Nghiên cứu chỉ ra rằng sinh viên điều dưỡng còn thiếu kiến thức về hậu quả của việc thiếu ngủ cũng như ảnh hưởng của nó đến chất lượng và sự an toàn khi chăm sóc người bệnh [16]. Bên cạnh đó, sinh viên năm nhất có nguy cơ thiếu ngủ nghiêm trọng vì đây là thời gian ít sự giám sát của người lớn, lịch trình thất thường và dễ dàng tiếp cận với các loại hình giải trí khác nhau [14]. Ngoài ra, đây cũng có thể là lần đầu sinh viên phải sống trong ký túc xá hoặc nhà trọ, điều này cũng liên quan đến chất lượng giấc ngủ kém [3]. Đối với sinh viên điều dưỡng, các nguyên nhân gây rối loạn giấc ngủ được báo cáo bao gồm phải thức dậy quá sớm hoặc thường xuyên thức dậy lúc nửa đêm [10]. Đối với sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất, việc vừa học vừa làm và thức khuya để học bài cũng được tìm thấy có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng giấc ngủ [4]. Để hiểu rõ hơn về giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng, người sẽ trực tiếp chăm sóc người bệnh và ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ chăm sóc y tế trong tương lai. Nghiên cứu gồm 2 mục tiêu: 1. Đánh giá mức độ nhận thức về chất lượng giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng năm nhất, 2. Xác định các yếu tố liên quan đến giấc ngủ của sinh viên. Mô hình khung khái niệm được sử dụng trong nghiên cứu này là mô hình niềm tin sức khỏe Rosenstock (HBM - Health Belief Model). HBM là mô hình tâm lý được phát triển nhằm giải thích và dự đoán hành vi liên quan đến sức khỏe. Bốn thành phần chính của HBM là: tính nhạy cảm nhận thức (perceived susceptibility), mức độ nghiêm trọng của nhận thức (perceived severity), lợi ích của nhận thức (perceived benefits) và rào cản nhận thức (perceived barriers) [7]. Trong những năm qua, mô hình được mở rộng bao gồm các tín hiệu hành động (cues to action), tính hiệu quả (self-efficacy) và các yếu tố thúc đẩy (motivating factors) [7]. Một nghiên cứu gần đây đã sử dụng HBM để dự đoán hành vi giấc ngủ ở sinh viên đại ... êu cầu hoàn thành một mẫu đơn đồng ý trước khi trả lời bảng câu hỏi. Những người tham gia sẽ được thông báo rằng việc tham gia vào nghiên cứu là hoàn toàn tự nguyện và họ được phép rút khỏi nghiên cứu bất kỳ thời điểm nào trong khi hoàn thành bảng câu hỏi. Bảng câu hỏi sẽ được trao cho sinh viên để hoàn thành và gửi lại cho tác giả, việc này sẽ không mất quá 15 phút. 2.5. Bộ công cụ nghiên cứu Bộ công cụ nghiên cứu gồm ba phần: các câu hỏi về thông tin người tham gia, câu hỏi về nhận thức cá nhân và tín hiệu hành động, và bộ câu hỏi về thang đo chỉ số chất lượng giấc ngủ Pittsburgh (PSQI). Phần thông tin người tham gia gồm các câu hỏi về tuổi và giới tính. Phần nhận thức cá nhân và tín hiệu hành động gồm hai câu hỏi. Câu hỏi đầu tiên kiểm tra xem số giờ ngủ mỗi đêm mà sinh viên cảm thấy là cần thiết để được nghỉ ngơi (nhận thức cá nhân) và câu hỏi thứ hai kiểm tra xem sinh viên có tin rằng nếu ngủ nhiều hơn thì điểm số của họ sẽ được cải thiện (tín hiệu hành động). PSQI là công cụ được sử dụng phổ biến nhất trên nghiên cứu lâm sàng, hiện tại đây là công cụ lâm sàng được tiêu chuẩn hóa duy nhất bao gồm một loạt các chỉ số liến quan đến chất lượng giấc ngủ [15][4]. PSQI bao gồm 7 phần và 19 mục, mỗi mục có phạm vi từ 0 đến 3 điểm, điểm tổng có thể dao động từ 0 - 21. Tổng điểm càng cao, chất lượng giấc ngủ càng kém [5]. Bảy thành phần của PSQI gồm: chất lượng giấc ngủ (sleep quality), thời gian đi vào giấc ngủ (sleep latency), thời gian ngủ (sleep duration), hiệu quả giấc ngủ theo thói quen (habitual sleep efficiency), rối loạn giấc ngủ (sleep disturbances), sử dụng thuốc ngủ (use of sleeping medications) và rối loạn chức năng ban ngày (daytime dysfunction). PSQI có hệ số tương quan là 0,85 (p < 0,001) và hệ số độ tin cậy (Cronbach alpha) là 0,83; khi phân biệt giữa người ngủ kém và người ngủ tốt, điểm số lớn hơn 5 trên PSQI được chứng minh có độ nhạy 89,6% và độ đặc hiệu 86,5% [5]. Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06(43) (2020) 86-94 89 2.6. Phân tích dữ liệu Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 18.0, sử dụng phép phân tích thống kê mô tả và phân tích mối tương quan Spearman giữa bảy thành phần của PSQI với mức ý nghĩa thống kê là p < 0,05. 2.7. Đạo đức nghiên cứu Nghiên cứu đã được phê duyệt bởi Hội đồng Y Sinh Dược Trường Đại học Duy Tân. Sự đồng thuận tham gia nghiên cứu của người tham gia được ngụ ý thông qua việc người tham gia gửi lại bảng câu hỏi sau khi hoàn thành. Sự tham gia là tự nguyện và người tham gia hoàn toàn được ẩn danh. 3. Kết quả và phân tích 3.1. Thông tin người tham gia Có 120 sinh viên điều dưỡng năm nhất đã tham gia vào nghiên cứu này. Tuổi trung bình của những người tham gia là 18,7 tuổi (trong khoảng 18 - 25 tuổi) và 90% sinh viên là nữ (n = 108). 3.2. Mức độ nhận thức về chất lượng giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng năm nhất Tổng điểm chỉ số chất lượng giấc ngủ PSQI trung bình của mẫu là 4,88 (SD = 2,48; range: 0 - 12), hai giá trị xuất hiện thường xuyên nhất (mode) là 4 và 5. Có 35,4% (n = 41) người tham gia có tổng điểm PSQI lớn hơn 5, có liên quan đến chất lượng giấc ngủ kém. Bảng 3.1. Phần trăm các biến đo lường giấc ngủ Biến số n = 120 (%) Số giờ ngủ cần thiết để cảm thấy được nghỉ ngơi 0 - 4 tiếng 0 (0) 5 - 6 tiếng 25 (20,8) 7 - 8 tiếng 69 (57,5) 8 - 9 tiếng 23 (19,2) Nhiều hơn 9 tiếng 3 (2,5) Chất lượng giấc ngủ nói chung Rất tốt 13 (10,8) Tốt 68 (56,7) Kém 37 (30,8) Rất kém 2 (1,7) Bảng 3.1 cho thấy phần lớn sinh viên báo cáo cần ngủ từ 7 - 9 giờ mỗi đêm để cảm thấy được nghỉ ngơi (n = 92; 76,7%). Sinh viên được yêu cầu tự đánh giá chất lượng giấc ngủ của họ nói chung và có 67,5% sinh viên đánh giá chất lượng giấc ngủ của họ tốt và rất tốt (n = 81), mặc dù tổng điểm PSQI cho thấy chỉ có 64,5% số người tham gia (n = 75) mới thực sự có chất lượng giấc ngủ tốt. Bảng 3.2. Giá trị trung bình và độ lệch chuẩn của các biến đo lường giấc ngủ Đo lường giấc ngủ M ± SD Giờ đi ngủ 11:26 pm ± 1,12 Số phút đi vào giấc ngủ 21,4 phút ± 18 Thời gian thức dậy 7:11 am ± 1,54 Thời gian ngủ 7,06 giờ ± 1,47 Bảng 3.2 cho thấy thời gian đi ngủ trung bình của sinh viên là khoảng vào lúc 11:26 pm (SD = 1,12; range: 9:30 pm - 2:30 am) và số phút đi vào giấc ngủ mỗi đêm trung bình là 21,4 phút (SD = 18; range: 1 - 120 phút). Khoảng 11,8% người tham gia (n = 14) báo cáo thời gian đi vào giấc ngủ từ 45 phút trở lên. Thời gian thức dậy trung bình khoảng 7:11 am (SD = 1,54; range: 4 am - 1 pm) và thời gian ngủ trung bình là 7,06 giờ (SD = 1,47; range: 2,5 - 11 giờ) Bảng 2). Có 20% sinh viên cảm thấy rằng nếu ngủ nhiều hơn, điểm số của họ sẽ được cải thiện (n = 24). Bảng 3.3. Tần suất xuất hiện các rối loạn giấc ngủ Trong tháng qua, bạn có thường xuyên khó ngủ vì n = 120 (%) Không thể đi vào giấc ngủ trong vòng 30 phút Không 35 (29,2) Có với tần suất trung bình ít hơn 1 lần 1 tuần 26 (21,7) Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06(43) (2020) 86-94 90 1 hoặc 2 lần 1 tuần 32 (26,7) 3 lần trở lên trong 1 tuần 27 (22,5) Thức dậy giữa đêm và sáng sớm Không 50 (41,7) Có với tần suất trung bình ít hơn 1 lần 1 tuần 24 (20,0) 1 hoặc 2 lần 1 tuần 26 (21,7) 3 lần trở lên trong 1 tuần 20 (16,7) Phải dậy để đi vệ sinh Không 59 (49,2) Có với tần suất trung bình ít hơn 1 lần 1 tuần 35 (29,2) 1 hoặc 2 lần 1 tuần 14 (11,7) 3 lần trở lên trong 1 tuần 12 (10,0) Không thể thở thoải mái Không 90 (75,0) Có với tần suất trung bình ít hơn 1 lần 1 tuần 16 (13,3) 1 hoặc 2 lần 1 tuần 8 (6,7) 3 lần trở lên trong 1 tuần 6 (5,0) Ho hoặc ngáy to Không 100 (83,3) Có với tần suất trung bình ít hơn 1 lần 1 tuần 10 (8,3) 1 hoặc 2 lần 1 tuần 5 (4,2) 3 lần trở lên trong 1 tuần 5 (4,2) Cảm thấy quá lạnh Không 71 (59,2) Có với tần suất trung bình ít hơn 1 lần 1 tuần 30 (25,0) 1 hoặc 2 lần 1 tuần 14 (11,7) 3 lần trở lên trong 1 tuần 5 (4,2) Cảm thấy quá nóng Không 85 (70,8) Có với tần suất trung bình ít hơn 1 lần 1 tuần 21 (17,5) 1 hoặc 2 lần 1 tuần 9 (7,5) 3 lần trở lên trong 1 tuần 5 (4,2) Gặp ác mộng Không 77 (64,2) Có với tần suất trung bình ít hơn 1 lần 1 tuần 24 (20,0) 1 hoặc 2 lần 1 tuần 12 (10,0) 3 lần trở lên trong 1 tuần 7 (5,8) Bị đau Không 82 (68,3) Có với tần suất trung bình ít hơn 1 lần 1 tuần 28 (23,3) 1 hoặc 2 lần 1 tuần 3 (2,5) 3 lần trở lên trong 1 tuần 7 (5,8) Những lý do khác Không 7 (14,6) Có với tần suất trung bình ít hơn 1 lần 1 tuần 14 (29,2) 1 hoặc 2 lần 1 tuần 14 (29,2) 3 lần trở lên trong 1 tuần 13 (27,1) Sinh viên được yêu cầu chọn tần suất trải qua một số rối loạn giấc ngủ trong vòng một tháng qua dựa trên thang điểm sau: Không trải qua, có trải qua nhưng với tần suất trung bình ít hơn một lần một tuần, một hoặc hai lần một tuần, ba hoặc nhiều lần một tuần (Bảng 3.3). Các rối loạn giấc ngủ phổ biến nhất được báo cáo bởi sinh viên dựa trên tần suất xảy ra là không thể đi vào giấc ngủ trong vòng 30 phút, thức dậy vào giữa đêm hoặc sáng sớm, phải dậy để đi vệ sinh và những lý do khác mà sinh viên mô tả bao gồm: do áp lực học tập, nhớ nhà, căng thẳng, lo lắng chi tiêu, dùng facebook, uống caffe, ngủ trưa nhiều, cơ thể nhức mỏi, đau đầu, tức ngực, muỗi đốt và tiếng ồn. Có 10% (n = 12) sinh viên thấy khó đi vào giấc ngủ do suy nghĩ nhiều và hai sinh viên báo cáo điều này xảy ra ba lần mỗi tuần hoặc nhiều hơn. Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06(43) (2020) 86-94 91 Bảng 3.4. Phần trăm các thành phần chất lượng giấc ngủ Trong tháng qua, bạn có thường xuyên n = 120 (%) Uống thuốc ngủ hay không? Không 117 (97,5) Có với tần suất trung bình ít hơn 1 lần 1 tuần 1 (0,8) 1 hoặc 2 lần 1 tuần 2 (1,7) 3 lần trở lên trong 1 tuần 0 (0) Cảm thấy buồn ngủ khi lái xe, khi ăn uống hay khi tham gia vào các hoạt động xã hội hay không? Không 66 (55,0) Có với tần suất trung bình ít hơn 1 lần 1 tuần 37 (30,8) 1 hoặc 2 lần 1 tuần 11 (9,2) 3 lần trở lên trong 1 tuần 6 (5,0) Cảm thấy không có đủ nhiệt huyết để hoàn thành công việc hay không? Không 54 (45,0) Có với tần suất trung bình ít hơn 1 lần 1 tuần 34 (28,3) 1 hoặc 2 lần 1 tuần 21 (17,5) 3 lần trở lên trong 1 tuần 11 (9,2) Bảng 3.4 hiển thị phần trăm của các thành phần chất lượng giấc ngủ còn lại bao gồm sử dụng thuốc để hỗ trợ giấc ngủ, khó tỉnh táo trong các hoạt động xã hội và gặp vấn đề trong việc nhiệt tình hoàn thành nhiệm vụ. Khoảng 2% sinh viên báo cáo dùng thuốc để hỗ trợ giấc ngủ ít nhất một lần mỗi tuần và 45% sinh viên khó giữ được tỉnh táo khi lái xe, khi ăn hoặc khi tham gia hoạt động xã hội. Hơn 50% sinh viên báo cáo không có nhiệt huyết để hoàn thành công việc với tần suất nhiều hơn một lần một tuần và khoảng 9,2% sinh viên gặp vấn đề này ba lần trở lên trong một tuần. Bảng 3.5. Mối tương quan của các thành phần PSQI Thành phần PSQI Thời gian ngủ Rối loạn giấc ngủ Thời gian đi vào giấc ngủ Hiệu suất giấc ngủ Uống thuốc ngủ Rối loạn chức năng ban ngày Chất lượng giấc ngủ Giới tính Tuổi Thời gian ngủ 1,000 0,085 0,067 -0,422 -0,261 -0,021 -0,265 -0,122 -0,045 Rối loạn giấc ngủ 0,085 1,000 0,100 -0,022 0,209* 0,461** 0,331** -0,151 -0,161 Thời gian đi vào giấc ngủ 0,067 0,100 1,000 -0,063 -0,042 -0,030 0,234** -0,006 -0,096 Hiệu suất giấc ngủ -0,422 -0,022 -0,063 1,000 0,085 0,041 0,073 -0,067 -0,008 Uống thuốc ngủ -0,261 0,209* -0,042 0,085 1,000 0,226* 0,039 -0,051 -0,010 Rối loạn chức năng ban ngày -0,021 0,461** -0,030 0,041 0,226* 1,000 0,265** -0,003 -0,079 Chất lượng giấc ngủ -0,265 0,331** 0,234** 0,073 0,039 0,265** 1,000 -0,119 -0,139 Giới tính -0,122 -0,151 -0,006 -0,067 -0,051 -0,003 -0,119 1,000 0,068 Tuổi -0,045 -0,161 -0,096 -0,008 -0,010 -0,079 -0,139 0,068 1,000 Ghi chú: * p < 0,05 và ** p ≤ 0,01 Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06(43) (2020) 86-94 92 3.3. Các yếu tố liên quan đến giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng Mối tương quan được đánh giá giữa bảy thành phần của PSQI. Có 6 mối tương quan đã được tìm thấy giữa các biến: rối loạn giấc ngủ và uống thuốc ngủ (r = 0,209; p = 0,022), rối loạn giấc ngủ và rối loạn chức năng ban ngày (r = 0,461; p = 0,000), rối loạn giấc ngủ và chất lượng giấc ngủ (r = 0,331; p = 0,000), thời gian đi vào giấc ngủ và chất lượng giấc ngủ (r = 0,234; p =0,010), uống thuốc ngủ và rối loạn chức năng ban ngày (r = 0,226; p = 0,013), rối loạn chức năng ban ngày và chất lượng giấc ngủ (r = 0,265; p = 0,003) (bảng 3.5). 4. Thảo luận 4.1. Mức độ nhận thức về chất lượng giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng năm nhất Có 35.4% sinh viên Điều dưỡng năm nhất có chất lượng giấc ngủ kém. Tỷ lệ này thấp hơn tỷ lệ sinh viên hệ chính quy Trường Đại học Y Dược Huế (có chất lượng giấc ngủ kém là 49.4%) [1][3]. Kết quả này cũng trái với các nghiên cứu khác, các kết quả trước kết luận có 71% đến 84% sinh viên Điều dưỡng có chất lượng giấc ngủ kém [4], [10]. Tuy nhiên, có 67.5% sinh viên tự đánh giá chất lượng giấc ngủ của họ là tốt, trong khi tổng điểm PSQI cho thấy 64.5% sinh viên mới thực sự có chất lượng giấc ngủ tốt. Điều này cho thấy sinh viên chưa cảm nhận được thực sự chất lượng giấc ngủ của họ như thế nào. Sự khác biệt trong việc tự đánh giá của sinh viên về chất lượng giấc ngủ có thể do thiếu kiến thức về những yếu tố tạo nên chất lượng giấc ngủ tốt. Hầu hết sinh viên (khoảng 76.7%) thừa nhận cần ngủ từ 7 đến 9 giờ để cảm thấy được nghỉ ngơi, điều này phù hợp với khuyến nghị của Tổ chức Giấc ngủ Quốc gia về việc người trưởng thành cần ngủ từ 7 đến 9 giờ [9][2]. Kết quả này tương tự với kết quả từ nghiên cứu của Thomas và cộng sự, ông báo cáo rằng 85% sinh viên Điều dưỡng mỗi đêm cần ngủ 7 tiếng trở lên để cảm thấy được nghỉ ngơi [16][5]. Ngoài ra, có 20% sinh viên tin rằng nếu họ ngủ nhiều hơn, điểm số của họ sẽ được cải thiện, cho thấy 20% sinh viên này đang thừa nhận rằng việc thiếu ngủ có ảnh hưởng đến khả năng học tập của họ, đây là một dấu hiệu tích cực có thể dẫn đến thay đổi hành vi. Tuy nhiên, kết quả này trái với kết quả của một nghiên cứu gần đây, nghiên cứu đó báo cáo rằng 74% sinh viên Điều dưỡng tin rằng họ sẽ cải thiện học tập nếu ngủ nhiều hơn [16][5]. Thời gian ngủ trung bình trong nghiên cứu này là 7.06 giờ mỗi đêm, phù hợp với khuyến nghị của Tổ chức Giấc ngủ Quốc gia dành cho lứa tuổi vị thành niên [9][2]. Trong khi đó kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Khánh Linh và cộng sự cho thấy giờ ngủ trung bình của sinh viên hệ chính quy Trường Đại học Y Dược Huế là 6.1 giờ (SD = 1.05) [1][3]. Trong nghiên cứu này có khoảng 37.3% sinh viên Điều dưỡng trung bình ngủ ít hơn 7 giờ mỗi đêm. Kết quả này thấp hơn so với các kết quả nghiên cứu trước đây trên đối tượng sinh viên Điều dưỡng, các kết quả trước đây cho thấy 60% sinh viên Điều dưỡng ngủ ít hơn 7 giờ mỗi đêm trước khi đến lớp hoặc trước khi đi lâm sàng [4], [16]. Sự khác biệt có thể do đối tượng nghiên cứu được chọn, trong khi nghiên cứu này chỉ bao gồm các sinh viên Điều dưỡng năm nhất, còn nghiên cứu của Benavente và cộng sự gồm tất cả các đối tượng sinh viên Điều dưỡng từ năm 1 đến năm 4 và đối tượng nghiên cứu của Thomas và cộng sự là sinh viên Điều dưỡng năm cuối [4], [16]. Ngoài ra, thời gian hoàn thành khảo sát có thể là nguyên nhân tạo nên sự khác biệt này. Khảo sát này được hoàn thành từ ngày 10 tháng 1 năm 2020 đến ngày 29 tháng 3 năm 2020. Trong khi nghiên cứu của Benavente và cộng sự được hoàn thành trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 4 năm 2012, còn nghiên cứu của Thomas và cộng sự không chỉ rõ khoảng
File đính kèm:
- nhan_thuc_ve_chat_luong_giac_ngu_cua_sinh_vien_dieu_duong.pdf