Nhân một trường hợp ung thư buổng trứng di căn vú
Ung thư buồng trứng di căn vú rất hiếm gặp, chiếm tỷ lệ khoảng 0,03 - 0,6% bệnh lý ác tính ở vú, và
tính đến năm 2015 có 110 trường hợp được ghi nhận. Bệnh chiếm tỷ lệ thấp nên dễ bị bỏ sót hoặc nhầm
lẫn trong chẩn đoán. Nhân một trường hợp ung thư buồng trứng di căn đến vú, chúng tôi muốn nhắc đến
vai trò của các dấu ấn miễn dịch, nhằm xác định nguồn gốc nguyên phát của bướu, từ đó giúp lập kế
hoạch điều trị, tránh những can thiệp không cần thiết.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Nhân một trường hợp ung thư buổng trứng di căn vú", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân một trường hợp ung thư buổng trứng di căn vú
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 53 NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP UNG THƯ BUỔNG TRỨNG DI CĂN VÚ CUNG THỊ TUYẾT ANH1, NGUYỄN VĂN TIẾN2, TẠ THANH LIÊU3, VÕ TIẾN TÂN NHI2, THÁI ANH TÚ4, ĐOÀN TRỌNG NGHĨA5, NGUYỄN THỊ NGỌC YẾN6 Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thị Ngọc Yến Email: ngocyennguyen93@gmail.com Ngày nhận bài: 08/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 Khoa Xạ trị Tổng quát - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM Bộ môn Ung thư - Đại học Y Dược TP. HCM 2 BSCKII. Trưởng Khoa Ngoại Phụ Khoa - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 3 BSCKII. Phó Trưởng Khoa Ngoại Phụ Khoa - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 4 Phó Trưởng Khoa - Điều hành Khoa Giải phẫu bệnh - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 5 BSĐT Khoa Ngoại Phụ Khoa - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM Bộ môn Ung thư - Đại học Y Dược TP. HCM 6 BSĐT Khoa Ngoại Phụ Khoa - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM MỞ ĐẦU Ung thư buồng trứng đứng thứ 18 trong những bệnh ung thư thường gặp, và đứng thứ 8 trong nhóm những bệnh ung thư thường gặp ở phụ nữ. (Globocan 2018)[34]. Tuy không phải là căn bệnh thường gặp nhất, nhưng lại chiếm tỷ lệ tử vong cao (5,1/100.000) và tỷ lệ sống còn 5 năm dưới 50%[35]. Điều này được giải thích bởi việc chậm trễ trong chẩn đoán, với hơn 75% trường hợp được chẩn đoán khi bệnh đã ở giai đoạn tiến xa do triệu chứng ban đầu không đặc hiệu, và hơn 60% trường hợp đã có di căn xa tại thời điểm chẩn đoán[27]. Ung thư buồng trứng có thể giới hạn tại chỗ tại vùng, xâm lấn trực tiếp từ buồng trứng sang các cấu trúc lân cận như bàng quang, trực tràng, gieo rắc ổ phúc mạc, với 86% ở phúc mạc thành và mạc nối lớn, 50% ở các rãnh đại tràng và 20% ở lách. Bệnh cho di căn xa theo đường máu chiếm khoảng 16%, trong đó nhiều nhất là màng phổi, chiếm tỷ lệ 33%, kế đến là gan với 26% và phổi chiếm 15%[11]. Di căn theo đường bạch huyết chiếm khoảng 70%, vị trí thường gặp nhất là hạch chậu và hạch cạnh động mạch chủ bụng[20] [21] [27]. Bên cạnh đó, một số vị trí di căn hiếm gặp cũng đã được báo cáo, bao gồm da, xương, hệ thần kinh trung ương, mắt, vú, khí - phế quản, tim 0 màng tim. Những ổ di căn này có thể xuất hiện tại thời điểm bắt đầu hoặc trong suốt quá trình diễn tiến bệnh, với những triệu chứng không đặc hiệu, và có tiên lượng sống còn kém hơn so với những vị trí di căn thường gặp khác[7],[25],[33]. Nhiều phương tiện chẩn đoán đã được nghiên cứu nhằm tìm ra nguồn gốc nguyên phát của tế bào ung thư, trong đó, giải phẫu bệnh và hóa mô miễn dịch đóng vai trò tiên quyết, định hướng chẩn đoán và điều trị. Trong bài báo này, chúng tôi báo cáo một trường hợp ung thư buồng trứng di căn vú hiếm gặp, và nhắc tới vai trò của các dấu ấn miễn dịch trong việc chẩn đoán xác định nguồn gốc của bướu nguyên phát. TÓM TẮT Ung thư buồng trứng di căn vú rất hiếm gặp, chiếm tỷ lệ khoảng 0,03 - 0,6% bệnh lý ác tính ở vú, và tính đến năm 2015 có 110 trường hợp được ghi nhận. Bệnh chiếm tỷ lệ thấp nên dễ bị bỏ sót hoặc nhầm lẫn trong chẩn đoán. Nhân một trường hợp ung thư buồng trứng di căn đến vú, chúng tôi muốn nhắc đến vai trò của các dấu ấn miễn dịch, nhằm xác định nguồn gốc nguyên phát của bướu, từ đó giúp lập kế hoạch điều trị, tránh những can thiệp không cần thiết. Từ khóa: Ung thư buồng trứng di căn vú. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2) 54 CA LÂM SÀNG Bệnh nhân Nguyễn Thị H., sinh năm 1965, địa chỉ Lâm Đồng, nghề nghiệp nội trợ, nhập viện vào tháng 10 năm 2019. Bệnh sử Cách nhập viện 1 tháng, bệnh nhân đau âm ỉ khắp bụng, cảm giác đầy bụng, ăn uống kém, thấy bụng to dần; bệnh nhân đi khám bệnh viện Chợ Rẫy, được siêu âm bụng và chụp CT-scan bụng chậu, ghi nhận tràn dịch ổ bụng lượng nhiều, được chẩn đoán: theo dõi Ung thư phúc mạc, chưa loại trừ ung thư buồng trứng, nên bệnh nhân đến khám bệnh viện Ung Bướu. Tiền căn Năm 2010, bệnh nhân mổ bướu vú phải tại Bệnh viện Ung Bướu, hiện đã mất giấy ra viện. Chưa ghi nhận tiền căn bệnh lý di truyền hay mang gen đột biến. Khám lâm sàng Hạch trên đòn trái kích thước khoảng 2cm, cứng, giới hạn không rõ, di động kém. Vú 2 bên: Không sờ chạm bướu vú. Báng bụng lượng nhiều, không sờ rõ bướu ổ bụng. Khám phụ khoa: Cổ tử cung không sang thương, vùng túi cùng sau có nốt gieo rắc xâm lấn một phần vùng chậu. Các cơ quan khác trong giới hạn bình thường. Cận lâm sàng CA125 >5000U/mL, HE4 1423,1pmol/L, LDH 682U/L, AFP và bhCG trong giới hạn bình thường. Siêu âm bụng Carcinomatosis xoang phúc mạc, buồng trứng hai bên không thấy. CT-Scan ngực - bụng Hình ảnh bánh mạc nối, tổn thương dạng nốt rải rác phúc mạc thành với đường kính khoảng 10mm, dịch tự do ổ bụng lượng trung bình. Nội soi thực quản - dạ dày - tá tràng Viêm hang vị. : dịch ổ bụng : tử cung Hình 1. Hình ảnh Carcinomatosis bụng chậu Sinh thiết hạch trên đòn trái, kết quả giải phẫu bệnh: Carcinom tuyến dạng nhú, grad 2, di căn hạch. Chẩn đoán: Ung thư buồng trứng FIGO IVB (hạch trên đòn). Hướng xử trí: Hóa trị tân hỗ trợ - Phẫu thuật giảm tổng khối bướu gian kỳ. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 55 Quá trình điều trị Diễn tiến lâm sàng Trong thời gian thực hiện xét nghiệm chuẩn bị hóa trị, bệnh nhân thấy đau tại sẹo mổ cũ ở vú phải, khám lâm sàng ghi nhận có 1 khối vị trí 4 - 5 giờ, kích thước khoảng 1 - 2cm. Siêu âm Vú phải Vị trí 4 - 5h cách núm vú 5cm có cấu trúc echo kém, không đồng nhất, giới hạn rõ, bờ đa cung, kích thước 43x15mm, không vôi hóa, tăng sinh mạch máu vùng trung tâm. Vị trí 2h cách núm vú 2cm có cấu trúc tương tự, kích thước 25 x 9mm. Vị trí 4 - 5h cách núm vú 1cm có cấu trúc tương tự, kích thước 13 x 9mm. Vú Trái Không thấy bướu đặc hay nang. Hạch nách 2 bên không thấy hạch bệnh lý. Kết luận: Đa tổn thương vú Phải nghĩ ác tính. ... i căn đến vú hoặc hạch nách chỉ chiếm tỷ lệ 0,03 đến 0,6%. Trường hợp được báo cáo đầu tiên vào năm 1907 bởi Sitzenfrey, và tính đến năm 2015, chỉ có 110 trường hợp ung thư buồng trứng di căn vú được mô tả[3],[36],[14]. Trong khi đó, ung thư di căn buồng trứng chiếm khoảng 10% các trường hợp u ác tính ở buồng trứng[4],[8],[9],[13] và trong các cơ quan di căn đến Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2) 58 buồng trứng, vú chiếm vị trí thứ hai sau dạ dày, với tỷ lệ 15,5%[13]. Trường hợp báo cáo của chúng tôi, ung thư buồng trứng di căn vú và hạch trên đòn đã không được nghĩ tới trong chẩn đoán ban đầu. Trong thời gian thực hiện và chờ kết quả xét nghiệm chẩn đoán tổn thương vú, triệu chứng lâm sàng của bệnh tiến triển nên chúng tôi quyết định hóa trị phác đồ Platinum - Taxane. Sau khi hóa trị 4 chu kỳ, đánh giá đáp ứng hóa trị một phần, đồng thời có kết quả chẩn đoán tổn thương vú, chúng tôi tiến hành hội chẩn nhằm xác định nguồn gốc nguyên phát của bệnh, tránh những điều trị không cần thiết. Ung thư buồng trứng thường di căn theo đường máu hoặc bạch huyết đến vú. Loại giải phẫu bệnh thường gặp nhất là carcinom tuyến dịch trong của buồng trứng, chiếm 72%, tuy nhiên những phân nhóm khác như bướu nghịch mầm, bướu carcinoid, carcinom tuyến dạng nội mạc tử cung, u tế bào hạt cũng đã được ghi nhận[10],[19],[26]. Với trường hợp của chúng tôi, kết quả giải phẫu bệnh của cả ba mẫu mô bệnh phẩm đều là carcinom tuyến, nên cần dựa vào các dấu ấn hóa mô miễn dịch nhằm xác định nguồn gốc ác tính. Để xác định nguồn gốc nguyên phát của tế bào ung thư, nhiều loại dấu ấn hóa mô miễn dịch đã được nghiên cứu. Do cả hai cơ quan đều liên quan đến nội tiết, những thụ thể ER (Estrogen receptor) và PR (Progesterone receptor) đã không còn đặc trưng cho ung thư vú khi dương tính trong 50% các trường hợp ung thư buồng trứng. Từ năm 2013, PAX8 (Paired box gene 8) đã được báo cáo là một dấu ấn mới trong chẩn đoán phân biệt nhiều loại khác nhau của ung thư, đặc biệt là ung thư buồng trứng. Laury và cộng sự đã báo cáo rằng dấu ấn miễn dịch PAX8 hiện diện trong 99% các trường hợp carcinôm tuyến dịch trong grad cao của buồng trứng, và 100% các trường hợp carcinom tuyến dịch trong grad thấp và u dịch trong giáp biên[15]. Ngoài ra, PAX8 còn biểu hiện trong một số loại ung thư có nguồn gốc từ tuyến giáp, thận, và các cơ quan trong hệ thống Muller, và PAX8 cũng liên quan đến sự biểu hiện của WT1. Trong một nghiên cứu về ung thư buồng trứng nguyên phát của Nonaka và cộng sự, PAX8 dương tính trong 87% trường hợp ung thư buồng trứng, và 96% đối với loại carcinom tuyến dịch trong của buồng trứng - loại giải phẫu bệnh thường gặp nhất[22]. Năm 2003, Schaner và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu phân tích biểu hiện gen, sử dụng phương pháp phân tích dự đoán microarray (PAM) thấy sự biểu hiện của 61 gen được phân tích trong 68 mẫu ung thư biểu mô vú và 57 mẫu ung thư biểu mô buồng trứng, ghi nhận PAX8 có biểu hiện cao hơn trong ung thư buồng trứng so với ung thư vú[28]. Tacha và các cộng sự cũng đã ghi nhận 79% các trường hợp ung thư buồng trứng có biểu hiện của PAX8[31]. Bên cạnh đó, dấu ấn CA125 (Cancer antigen 125) và WT1 (Wilms tumor suppressor gene 1) cũng đã được ghi nhận biểu hiện dương tính trong các nhóm của ung thư buồng trứng nhưng lại âm tính trong ung thư vú. Tuy vậy, WT1 lại có thể âm tính trong 20% các trường hợp ung thư buồng trứng, và dương tính trong một vài trường hợp lành tính hay u trung mô ác tính[1]. Đối với biểu hiện của PAX8 trong nhóm carcinom tuyến vú xâm lấn, dựa trên nghiên cứu của Singh và cộng sự, đã cho kết quả 41% có biểu hiện với PAX8 bằng phương pháp nhuộm với kháng thể MRQ50 nhưng phần lớn là biểu hiện yếu và khu trú, tuy nhiên khi nhuộm bằng phương pháp BC12 thì không có trường hợp nào biểu hiện PAX8, điều này được lý giải do sự phản ứng chéo xảy ra giữa kháng thể MRQ50 và các gen PAX khác ngoài PAX8. Như vậy, PAX8 có thể được xem là một dấu ấn đáng tin cậy để chẩn đoán phân biệt nguồn gốc của tổn thương[30]. Trường hợp ca lâm sàng trên, cả ba mẫu mô đều có kết quả nhuộm hóa mô miễn dịch tương tự ở tất cả các dấu ấn, và PAX8 có biểu hiện ở cả ba mẫu mô, nghĩ đến có cùng nguồn gốc từ buồng trứng. Từ đó có thể kết luận đây là một trường hợp ung thư buồng trứng di căn vú và hạch trên đòn. Năm 2004, Recine và cộng sự đã ghi nhận thời gian xuất hiện di căn từ lúc phát hiện bệnh là 20 tháng và trong một số trường hợp hiếm, di căn đến vú có thể xuất hiện đồng thời tại thời điểm chẩn đoán. Năm 2008, Schneuber và cộng sự đã mô tả trường hợp đầu tiên di căn vú xuất hiện 56 tháng trước khi ung thư buồng trứng xuất hiện ở một bệnh nhân 72 tuổi, và thời gian sống còn toàn bộ của bệnh nhân này là 85 tháng tính từ thời điểm phát hiện bệnh[26],[29]. Tiên lượng sống còn đã được ghi nhận từ 13 ngày đến 3,5 tháng[26],[29],[36], một vài trường hợp ghi nhận sống dưới 1 năm[16],[18],[23]. Ung thư buồng trứng di căn vú nên được điều trị toàn thân, với những phác đồ hóa trị phù hợp. Phẫu thuật đoạn nhũ được xem như phẫu thuật giảm nhẹ theo sau hóa trị[2],[5],[6]. KẾT LUẬN Ung thư buồng trứng di căn vú ít gặp trên lâm sàng, tuy nhiên, nên được nghĩ tới trong tình huống bệnh nhân có tiền căn ung thư buồng trứng hoặc xuất hiện tổn thương vú đồng thời hay sau khi điều trị ung thư buồng trứng, nhằm lập kế hoạch điều trị và tránh những điều trị không cần thiết. WT1 và PAX8 có vai trò quan trọng trong phân biệt ung thư có nguồn gốc nguyên phát từ buồng trứng hay không từ buồng trứng. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Achariyapota V., Chuangsuwanich T., Benjapibal M. (2016), "Inflammatory Breast Cancer from Metastatic Ovarian Cancer". Case Rep Obstet Gynecol, 2016, pp. 3476143. 2. Antonio A. M., Alves J. V., Goulao J., Bartolo E. (2016), "Ovarian carcinoma presenting as cutaneous nasal metastasis". An Bras Dermatol, 91 (5 suppl 1), pp. 101 - 104. 3. Ben Fauzi El Attrache Camryn Highsmith, Bradley Gluck Alan Heimann and Edna Kapenhas (2017), "A Rarity in Breast Disease: Metastatic Ovarian Carcinoma to the Breast Mimicking Inflammatory Breast Cancer". Journal of Universal Surgery, Vol. 5 No. 3: 13. 4. Bruls J., Simons M., Overbeek L. I., Bulten J., Massuger L. F., et al. (2015), "A national population-based study provides insight in the origin of malignancies metastatic to the ovary". Virchows Arch, 467 (1), pp. 79 - 86. 5. Chang K. H., Lee J. P., Ryu H. S. (2006), "Rare case of stage IA epithelial ovarian cancer with bone as the first site of recurrent metastasis". Int J Gynecol Cancer, 16 Suppl 1, pp. 322 - 6. 6. Chen Y. L., Hsiao S. M., Lin M. C., Lin H. H. (2009), "Bone metastasis as the initial presentation in one case of ovarian cancer with two components of endometrioid adenocarcinoma and adenosarcoma". Taiwan J Obstet Gynecol, 48 (3), pp. 298 - 301. 7. Cormio G., Rossi C., Cazzolla A., Resta L., Loverro G., et al. (2003), "Distant metastases in ovarian carcinoma". Int J Gynecol Cancer, 13 (2), pp. 125 - 9. 8. Holtz F., Hart W. R. (1982), "Krukenberg tumors of the ovary: a clinicopathologic analysis of 27 cases". Cancer, 50 (11), pp. 2438 - 47. 9. Janovski N. A., Paramanandhan T. L. (1973), "Ovarian tumors. Tumors and tumor-like conditions of the ovaries, fallopian tubes and ligaments of the uterus". Major Probl Obstet Gynecol, 4, pp. 1 - 245. 10. Kattan J., Droz J. P., Charpentier P., Michel G., Lhomme C., et al. (1992), "Ovarian dysgerminoma metastatic to the breast". Gynecol Oncol, 46 (1), pp. 104 - 6. 11. Kerr V. E., Cadman E. (1985), "Pulmonary metastases in ovarian cancer. Analysis of 357 patients". Cancer, 56 (5), pp. 1209 - 13. 12. Klein R. L., Brown A. R., Gomez-Castro C. M., Chambers S. K., Cragun J. M., et al. (2010), "Ovarian cancer metastatic to the breast presenting as inflammatory breast cancer: a case report and literature review". J Cancer, 1, pp. 27 - 31. 13. Kondi-Pafiti A., Kairi-Vasilatou E., Iavazzo C., Dastamani C., Bakalianou K., et al. (2011), "Metastatic neoplasms of the ovaries: a clinicopathological study of 97 cases". Arch Gynecol Obstet, 284 (5), pp. 1283 - 8. 14. Laifer S., Buscema, J., Parmley, TH, & Rosenshein, NB,. (1986), "Ovarian cancer metastatic to the breast". Gynecologic Oncology 24 (1), pp. 97 - 102. 15. Laury A. R., Hornick J. L., Perets R., Krane J. F., Corson J., et al. (2010), "PAX8 reliably distinguishes ovarian serous tumors from malignant mesothelioma". Am J Surg Pathol, 34 (5), pp. 627 - 35. 16. Maffini F., Bozzini A., Casadio C., Carinelli S., Pisa E., et al. (2012), "Ovarian serous papillary carcinoma, metastatic to intramammary lymph- node mimic a primary breast carcinoma on RX mammography". Breast J, 18 (5), pp. 484 - 5. 17. Mason C., Yokubaitis K., Hamilton R., Oza U., Shah Z., et al. (2015), "Unusual presentation of metastatic ovarian carcinoma as an enlarged intramammary lymph node". Proc (Bayl Univ Med Cent), 28 (3), pp. 386 - 8. 18. Micha J. P., Goldstein B. H., Epstein H. D., Rettenmaier M. A., Brown J. V., 3rd (2006), "Ovarian cancer metastatic to the breast". Gynecol Oncol, 102 (2), pp. 386 - 90. 19. Moreira A. L., Yao J., Waisman J., Cangiarella J. F. (2002), "Metastatic "borderline" papillary ovarian tumor in an intramammary lymph node". Breast J, 8 (5), pp. 309 - 10. 20. Nakao M., Oguri T., Maeno K., Ota C., Takakuwa O., et al. (2009), "Endobronchial metastasis from primary papillary serous carcinoma of the peritoneum". Intern Med, 48 (13), pp. 1165 - 8. 21. Nitecki R., Diver E. J., Kamdar M. M., Boruta D. M., 2nd, Del Carmen M. C., et al. (2018), "Patterns of palliative care referral in ovarian cancer: A single institution 5year retrospective analysis". Gynecol Oncol, 148 (3), pp. 521 - 526. 22. Nonaka D., Chiriboga L., Soslow R. A. (2008), "Expression of pax8 as a useful marker in Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2) 60 distinguishing ovarian carcinomas from mammary carcinomas". Am J Surg Pathol, 32 (10), pp. 1566 - 71. 23. Ozguroglu M., Ersavasti G., Ilvan S., Hatemi G., Demir G., et al. (1999), "Bilateral inflammatory breast metastases of epithelial ovarian cancer". Am J Clin Oncol, 22 (4), pp. 408 - 10. 24. Panse G., Bossuyt V., Ko C. J. (2018), "Metastatic serous carcinoma presenting as inflammatory carcinoma over the breast-Report of two cases and literature review". J Cutan Pathol, 45 (3), pp. 234 - 239. 25. Pradeep S., Kim S. W., Wu S. Y., Nishimura M., Chaluvally-Raghavan P., et al. (2014), "Hematogenous metastasis of ovarian cancer: rethinking mode of spread". Cancer Cell, 26 (1), pp. 77 - 91. 26. Recine M. A., Deavers M. T., Middleton L. P., Silva E. G., Malpica A. (2004), "Serous carcinoma of the ovary and peritoneum with metastases to the breast and axillary lymph nodes: a potential pitfall". Am J Surg Pathol, 28 (12), pp. 1646 - 51. 27. Reid B. M., Permuth J. B., Sellers T. A. (2017), "Epidemiology of ovarian cancer: a review". Cancer Biol Med, 14 (1), pp. 9 - 32. 28. Schaner M. E., Ross D. T., Ciaravino G., Sorlie T., Troyanskaya O., et al. (2003), "Gene expression patterns in ovarian carcinomas". Mol Biol Cell, 14 (11), pp. 4376-86. 29. Schneuber S. E., Scholz H. S., Regitnig P., Petru E., Winter R. (2008), "Breast metastasis 56 months before the diagnosis of primary ovarian cancer: a case study". Anticancer Res, 28 (5B), pp. 3047 - 50. 30. Singh K., Hanley L. C., Sung C. J., Quddus M. R. (2020), "Comparison of PAX8 Expression in Breast Carcinoma Using MRQ50 and BC12 Monoclonal Antibodies". Appl Immunohistochem Mol Morphol, 28 (7), pp. 558-561. 31. Tacha D., Zhou D., Cheng L. (2011), "Expression of PAX8 in normal and neoplastic tissues: a comprehensive immunohistochemical study". Appl Immunohistochem Mol Morphol, 19 (4), pp. 293-9. 32. Tempfer C. B., El Fizazi N., Ergonenc H., Solass W. (2016), "Metastasis of ovarian cancer to the breast: A report of two cases and a review of the literature". Oncol Lett, 11 (6), pp. 4008- 4012. 33. Thibault B., Castells M., Delord J. P., Couderc B. (2014), "Ovarian cancer microenvironment: implications for cancer dissemination and chemoresistance acquisition". Cancer Metastasis Rev, 33 (1), pp. 17 - 39. 34. Torre L. A., Trabert B., DeSantis C. E., Miller K. D., Samimi G., et al. (2018), "Ovarian cancer statistics, 2018". CA Cancer J Clin, 68 (4), pp. 284 - 296. 35. UK Statistics and Outlook for Ovarian Cancer . Cancer Research. UK Statistics and Outlook for Ovarian Cancer; Oxford UK: 2011. 36. Yamasaki H., Saw D., Zdanowitz J., Faltz L. L. (1993), "Ovarian carcinoma metastasis to the breast case report and review of the literature". Am J Surg Pathol, 17 (2), pp. 193 - 7. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 61 ABSTRACT Breast is an uncommon metastatic site of ovarian cancer with only 0.03 - 0.6% of all breast maglinancies. There are only 110 cases documented until 2015. The rarity of this circumstance can lead to insufficent diagnosis and overtreatment. Surgical pathology and Immunohistochemistry play an important role in our case of determining the origin of the metastatic lesion of the breast therefore they give us precise diagnosis and staging. Sufficient assessment of this patient give us the reasonable mangement orientation without any overzealous treatment. Keywords: Breast metastasis from ovarian cancer.
File đính kèm:
- nhan_mot_truong_hop_ung_thu_buong_trung_di_can_vu.pdf