Ngữ nghĩa của một số từ trong phương ngữ Quảng Trị

Bài báo phác thảo diện mạo của vốn từ địa phương qua sự cố gắng đi sâu phân tích, miêu

tả những khác biệt về từ vựng – ngữ nghĩa giữa phương ngữ Quảng Trị với từ vựng toàn

dân. Đáng chú ý nhất là những khác biệt về nghĩa, ở cách định danh, cách nhìn, cách phân

cắt thực tại trong phản ánh. Trong bài báo, chúng tôi đối chiếu ngữ nghĩa của từ địa

phương Quảng Trị với từ toàn dân theo các lớp loại một cách có hệ thống, đồng thời kết

hợp đối chiếu ngữ nghĩa từng từ cụ thể. Từ đó, thấy được sắc thái địa phương, sắc thái văn

hóa, vai trò của từ trong đời sống xã hội của cộng đồng người địa phương. Đây còn là căn

cứ quan trọng để thực hiện chuẩn hóa ngôn ngữ và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và

góp thêm cứ liệu cho việc giảng dạy các học phần Từ vựng – Ngữ nghĩa học và Phương

ngữ học ở các trường đại học, cao đẳng.

Ngữ nghĩa của một số từ trong phương ngữ Quảng Trị trang 1

Trang 1

Ngữ nghĩa của một số từ trong phương ngữ Quảng Trị trang 2

Trang 2

Ngữ nghĩa của một số từ trong phương ngữ Quảng Trị trang 3

Trang 3

Ngữ nghĩa của một số từ trong phương ngữ Quảng Trị trang 4

Trang 4

Ngữ nghĩa của một số từ trong phương ngữ Quảng Trị trang 5

Trang 5

Ngữ nghĩa của một số từ trong phương ngữ Quảng Trị trang 6

Trang 6

Ngữ nghĩa của một số từ trong phương ngữ Quảng Trị trang 7

Trang 7

Ngữ nghĩa của một số từ trong phương ngữ Quảng Trị trang 8

Trang 8

Ngữ nghĩa của một số từ trong phương ngữ Quảng Trị trang 9

Trang 9

Ngữ nghĩa của một số từ trong phương ngữ Quảng Trị trang 10

Trang 10

pdf 10 trang minhkhanh 5320
Bạn đang xem tài liệu "Ngữ nghĩa của một số từ trong phương ngữ Quảng Trị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngữ nghĩa của một số từ trong phương ngữ Quảng Trị

Ngữ nghĩa của một số từ trong phương ngữ Quảng Trị
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – ĐH Huế Tập 7, Số 2 (2017) 
41 
NGỮ NGHĨA CỦA MỘT SỐ TỪ TRONG PHƢƠNG NGỮ QUẢNG TRỊ 
Hoàng Thị Tƣờng Linh 
Khoa Giáo dục Tiểu học, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế 
Email: hoangthituonglinh111@gmail.com 
TÓM TẮT 
Bài báo phác thảo diện mạo của vốn từ địa phương qua sự cố gắng đi sâu phân tích, miêu 
tả những khác biệt về từ vựng – ngữ nghĩa giữa phương ngữ Quảng Trị với từ vựng toàn 
dân. Đáng chú ý nhất là những khác biệt về nghĩa, ở cách định danh, cách nhìn, cách phân 
cắt thực tại trong phản ánh. Trong bài báo, chúng tôi đối chiếu ngữ nghĩa của từ địa 
phương Quảng Trị với từ toàn dân theo các lớp loại một cách có hệ thống, đồng thời kết 
hợp đối chiếu ngữ nghĩa từng từ cụ thể. Từ đó, thấy được sắc thái địa phương, sắc thái văn 
hóa, vai trò của từ trong đời sống xã hội của cộng đồng người địa phương. Đây còn là căn 
cứ quan trọng để thực hiện chuẩn hóa ngôn ngữ và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và 
góp thêm cứ liệu cho việc giảng dạy các học phần Từ vựng – Ngữ nghĩa học và Phương 
ngữ học ở các trường đại học, cao đẳng. 
Từ khóa: đặc điểm ngữ nghĩa, phương ngữ, Quảng Trị. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tiếng Việt được dùng chung trong cả nước, nhưng ở mỗi vùng lại có những biến thể 
nhất định, chủ yếu về ngữ âm, từ vựng, tạo nên các vùng phương ngữ, thổ ngữ khác nhau trên 
đất nước, trong đó có phương ngữ Quảng Trị. Đã có nhiều tác giả đề cập đặc điểm phương ngữ 
Quảng Trị, nhưng chủ yếu trong nghiên cứu chung về phương ngữ tiếng Việt hay phương ngữ 
Bắc miền Trung, hẹp hơn là về phương ngữ Bình Trị Thiên như Nguyễn Kim Thản với Thử bàn 
về một vài đặc điểm trong phương ngữ Nam Bộ (1964), Trần Thị Ngọc Lang với Nghiên cứu 
phương ngữ Nam Bộ (1995), Võ Xuân Trang với Khảo sát ngôn ngữ Bình Trị Thiên (1997) 
Nhìn chung, các công trình chủ yếu miêu tả đặc điểm ngữ âm và vốn từ vựng địa phương, đối 
chiếu với vốn từ toàn dân, ít đi sâu phân tích đặc điểm ngữ nghĩa của các từ, các nhóm từ địa 
phương được nói tới. 
Bài viết này là một cố gắng nhằm bước đầu làm sáng tỏ đặc điểm ngữ nghĩa của từ địa 
phương, chủ yếu thông qua một số ví dụ trong công trình Văn học dân gian Quảng Trị [9] của 
Phan Hứa Thụy và Tôn Thất Bình (chủ biên). Qua đó, góp thêm cứ liệu cho việc giảng dạy các 
học phần Từ vựng – Ngữ nghĩa học và Phương ngữ học ở các trường Đại học, Cao đẳng. 
Ngữ nghĩa của một số từ trong phương ngữ Quảng Trị 
42 
2. PHÂN LOẠI TỪ ĐỊA PHƢƠNG TRONG PHƢƠNG NGỮ QUẢNG TRỊ 
Chúng tôi vận dụng những cách phân chia từ địa phương của Đỗ Hữu Châu, Nguyễn 
Thiện Giáp và Trần Thị Ngọc Lang. 
Đỗ Hữu Châu, trong Giáo trình Việt ngữ - tập II (Từ hội học) (1961) đã chia từ địa 
phương thành 4 loại, về sau trong giáo trình Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt (1981), ông lại gộp 
thành 3 loại sau: 1. Những đơn vị từ vựng chỉ những hiện tượng, những sự vật... trong đời sống 
bình thường, 2. Những đơn vị từ vựng có ý nghĩa khác nhau nhiều hay ít kèm theo sự khác nhau 
về ngữ âm nhiều hay ít, 3. Các từ địa phương có hình thức ngữ âm khác nhau nhưng nghĩa có bộ 
phận giống nhau, có bộ phận khác nhau. Tác giả cho rằng “Trên đây là những loại từ địa 
phương chính do đối chiếu từng từ một riêng rẻ mà thấy” [2, tr. 262]. 
Trong giáo trình Từ vựng học tiếng Việt [7] của Nguyễn Thiện Giáp, tác giả chia từ địa 
phương thành 2 loại lớn là từ địa phương không có sự đối lập với từ vựng toàn dân và từ địa 
phương có sự đối lập với từ vựng toàn dân. Căn cứ vào hai mặt ngữ âm và ngữ nghĩa của chúng, 
ông chia loại thứ hai thành 2 loại nhỏ là từ ngữ địa phương đối lập về mặt ý nghĩa và từ ngữ địa 
phương có sự đối lập về ngữ âm [7, tr. 257 - 259 ]. Tiếp theo, Trần Thị Ngọc Lang, trong công 
trình nghiên cứu của mình đã phân chia từ địa phương thành 8 kiểu: 1. Những từ khác âm khác 
nghĩa, 2. Hai từ khác âm nhưng gần nghĩa, 3. Hai từ khác âm nhưng đồng nghĩa, 4. Hai từ gần 
âm nhưng khác nghĩa, 5. Hai từ gần âm và gần nghĩa, 6. Một trong hai từ là biến thể ngữ âm của 
từ kia, 7. Hai từ đồng âm khác nghĩa, 8. Hai từ giống âm nhưng chỉ gần nghĩa [7]. Cách chia từ 
địa phương thành các loại nhỏ như Trần Thị Ngọc Lang đã giúp nghiên cứu nghĩa của từ địa 
phương có hệ thống hơn. Song, do không phân biệt hiện tượng biến thể ngữ âm của từ (tạo ra 
các từ có sự tương ứng ngữ âm) với các hiện tượng các từ gần âm, khác âm (không do biến thể 
ngữ âm theo quy luật, giữa chúng không có quan hệ ngữ âm), cũng như không có sự phân định 
khái niệm gần nghĩa, đồng nghĩa, khác nghĩa nên nhiều lớp từ tác giả phân loại và chọn phân 
tích trong chuyên khảo làm cho người đọc thấy chúng chồng xếp vào nhau. Việc phân loại từ 
địa phương trong phương ngữ Quảng Trị khó đạt được một cách rạch ròi, triệt để. Bởi vì nghĩa 
của từ là một hiện tượng phức tạp, nghĩa của hai từ tương ứng có thể dùng giống nhau, nhưng 
trong một tình huống giao tiếp khác, sắc thái nghĩa của từ lại khác nhau. Nếu chỉ dựa vào quan 
hệ kết hợp của từ trên bề mặt, nhiều khi không giải thích được những hiện tượng đó mà phải 
dựa cả vào yếu tố bên ngoài cấu trúc như tâm lí, thói quen của người địa phương. 
Việc phân loại nghĩa của từ địa phương có thể được tiến hành theo nhiều cách. Dựa trên 
những tiêu chí khu biệt, xét quan hệ về mặt âm thanh và ý nghĩa giữa các từ trong phương ngữ 
với từ toàn dân, chúng tôi phân loại đặc điểm ngữ nghĩa của từ trong phương ngữ Quảng Trị 
thành 7 nhóm sau: 1. những từ giống âm nhưng khác nghĩa, 2. những từ khác âm khác nghĩa, 3. 
những từ có sự tương ứng về ngữ âm và có biến đổi ít nhiều về nghĩa, 4. những từ vừa có sự 
tương ứng về âm vừa có sự tương đồng về nghĩa, 5. những từ cùng âm nhưng có xê dịch ít nhiều 
về nghĩa, 6. những từ khác âm nhưng tương đồng về nghĩa, 7. những từ trái nghĩa. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – ĐH Huế Tập 7, Số 2 (2017) 
43 
3. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA NHÓM TỪ ĐỊA PHƢƠNG TRONG PHƢƠNG NGỮ 
QUẢNG TRỊ 
3.1. Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm từ vừa tƣơng đồng về ngữ âm vừa tƣơng đồn ... g phương ngữ có 
nghĩa là “luôn luôn”, còn hoài trong ngôn ngữ toàn dân có nghĩa là “để mất đi một cách hoàn 
toàn vô ích do đem dùng vào việc không đáng hoặc không mang lại một kết quả nào cả (hoài 
tiền đi mua cái đó)”. Con trong phương ngữ là “con gái”, con trong ngôn ngữ toàn dân có nghĩa 
là: “người hoặc động vật thuộc thế hệ sau, trong quan hệ với người hoặc động vật trực tiếp sinh 
ra”. Hai từ chạc đồng âm, ở phương ngữ Quảng Trị ứng với nghĩa “dây” còn ở ngôn ngữ toàn 
dân, chạc có nghĩa là: “chỗ cành cây chẽ làm nhiều nhánh”. Hai từ dọi đồng âm, ở phương ngữ 
Quảng Trị là động từ chỉ “theo”, còn dọi ở ngôn ngữ toàn dân là danh từ có nghĩa là “vật nặng 
buộc vào đầu dưới sợi dây (gọi là dây dọi), dùng để xác định phương thẳng đứng”. tương tự, 
thá trong phương ngữ có nghĩa là: “miệng thế gian cười” ( Thương người mà đứng ngó người / 
Cỏ mòn đất đẹ, thá cười quản chi – Hò đối đáp Quảng Trị), còn thá trong vốn từ toàn dân lại có 
nghĩa là “Thứ, loại (thường nói với ý khinh miệt)”. Trải trong vốn từ toàn dân có nghĩa là: 
“Thuyền nhỏ và dài, dùng trong các cuộc thi bơi thuyền”, còn ở phương ngữ Quảng Trị lại có 
nghĩa: “mang, gánh lên” (Bao nhiêu thao, vải, lụa hàng / Vật gì phường chợ cũng băng ngàn 
trải lên – Vè Quảng Trị). 
Tiểu loại đồng âm thứ hai là những từ có quan hệ nguồn gốc với nhau. Những từ đồng 
âm kiểu này được tạo ra do nguyên nhân của sự phát triển nghĩa trong từ đa nghĩa, khi mà các 
nghĩa của từ phát triển đến mức “tối đa” làm cho mối quan hệ giữa các nghĩa đã quá mờ nhạt 
đứt đoạn, hoặc đi kèm với sự phát triển nghĩa của từ là sự chuyển loại về mặt ngữ pháp, nên 
mặc dù các nghĩa của từ còn quan hệ với nhau rất chặt, nhưng chức năng ngữ pháp của từ đã 
biến đổi, vì thế các nghĩa đó từ cùng một hình thức ngữ âm chúng tách thành các từ đồng âm 
cùng gốc. 
Ví dụ: Có những từ, nghĩa của nó đã phát triển đến giới quan hệ ngữ nghĩa giữa các 
nghĩa đã bị đứt đoạn, từ tách thành hai từ đồng âm với nhau. Chẳng hạn, ngao ngán ở phương 
ngữ có nghĩa chung như từ ngao ngán trong ngôn ngữ toàn dân, là “chán nản cao độ không còn 
thấy thích thú gì nữa” nhưng hiện nay ở phương ngữ ngao ngán còn có nghĩa là “nhiều, đầy 
rẫy” như ở lối nói: chợ ngao ngán thịt cá (= chợ đầy rẫy thịt cá). Với hai nghĩa đó ngao ngán đã 
tách thành hai từ đồng âm với nhau. Cũng vậy, ngán bên cạnh nghĩa ứng với ngấy, chán nay ở 
phương ngữ Quảng Trị ngán còn có nghĩa là “ngại đến mức sợ” (ngán đòn bọn nó). Vì thế với 
nghĩa này từ tách thành hai từ đồng âm với nhau. 
3.5. Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm từ khác âm nhƣng có sự tƣơng đồng về nghĩa 
Thuộc kiểu loại này là những từ ở các phương ngữ và từ trong ngôn ngữ toàn dân, tuy 
không có quan hệ tương ứng ngữ âm nhưng lại tương đồng về nghĩa với nhau. Có thể chia kiểu 
loại từ đồng nghĩa này thành các tiểu loại chủ yếu như sau: 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – ĐH Huế Tập 7, Số 2 (2017) 
47 
Những từ đồng nghĩa được tạo nên do phương ngữ lưu giữ những yếu tố cổ của tiếng 
Việt. Trong phương ngữ Quảng Trị, loại này là những từ đồng nghĩa như: cươi – sân , lọi – gãy, 
nốôc – thuyền, , sương – gánh, théc – ngủ, mần – làm, rứa – vậy...Đây là nhóm từ đồng nghĩa, 
nhưng được hình thành do phương ngữ lưu giữ những từ cổ. Nhóm từ mà nay chúng không còn 
được dùng trong ngôn ngữ toàn dân, đã bị thay thế bởi đơn vị đồng nghĩa khác. 
Những từ đồng nghĩa được tạo nên do phương ngữ sử dụng một trong hai yếu tố từ 
ghép hợp nghĩa tiếng Việt. Đây là tiểu loại bao gồm những từ địa phương đồng nghĩa với từ 
toàn dân mà cả hai có thể cùng có mặt trong từ ghép hợp nghĩa. Có thể kể ra một số từ thuộc 
tiểu loại này mà phương ngữ dùng yếu tố thứ nhất, ngôn ngữ toàn dân dùng yếu tố thứ hai trong 
từ ghép hợp nghĩa, như: hờn giận; cực khổ; nhởi chơi; khốn khó; lôi kéo; Do vừa tương đồng 
lại vừa dị biệt về nghĩa nên các yếu tố đó khi kết hợp với nhau thường tạo cho từ ghép nghĩa 
khái quát hơn, trừu tượng hơn so với nghĩa của từng từ trong phương ngữ. Ví dụ: phương ngữ 
Quảng Trị dùng nhởi, ngôn ngữ toàn dân dùng chơi, hai yếu tố này đồng nghĩa với nhau nên 
chúng đã kết hợp để tạo nghĩa khái quát trong chơi nhởi dùng chung. Tuy vậy, có thể thấy khả 
năng sử dụng của nhởi hẹp hơn rất nhiều so với chơi. Nhởi ngoài nghĩa là chơi còn được dùng 
tương ứng với từ ăn hỏi như trong ngôn ngữ toàn dân là chỉ “lễ hỏi vợ”. Nên khi người Quảng 
Trị nói: Tui đi nhởi nhà o nớ rồi thì có nghĩa đã làm lễ ăn hỏi cô ta rồi. Còn tương ứng với từ ăn 
hỏi trong ngôn ngữ toàn dân, phương ngữ Quảng Trị dùng từ nói, khi người địa phương nói: Tui 
ở ngoài nong ngoài nia, ngoài sòng ngoài sãi, ông Hương, ông xã, ông đi nói tui, có minh kinh 
giá triệu, bàn đăng cây bố, mà tui nỏ có ưng (Vè mẹ Hẹ). 
Ngoài ra, trong một số kết hợp, nhởi cũng được dùng như chơi, nên trong ngôn ngữ 
toàn dân có ăn chơi thì trong phương ngữ có ăn nhởi. Và trong hội thoại, nhởi còn được dùng 
để tạo ra các lối nói như: chịu nhởi với nghĩa là: dám làm bất cứ việc gì dù biết có thể là thua 
thiệt tốn kém; hoặc dùng nhởi đẹp như lối nói chơi đẹp với nghĩa là: ứng xử đàng hoàng nghiêm 
chỉnh, không để cho người khác phải thiệt. Tuy vậy, so với nhởi nhìn chung chơi có nghĩa rộng 
hơn, nên được dùng trong rất nhiều trường hợp quen thuộc như: chơi bời, chơi chữ, chơi đùa, 
chơi khăm, chơi xỏ 
3.6. Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm từ khác âm khác nghĩa 
Nhóm từ này không có quan hệ ngữ âm với từ toàn dân nên không gợi lên được cho 
người nghe sinh sống ngoài địa phương bản sắc âm thanh tiếng địa phương; chúng lại không có 
quan hệ ngữ nghĩa với ngôn ngữ toàn dân nên sự vật, hành động tính chất mà từ chỉ ra có phần 
xa lạ, khó hiểu với người địa phương khác, họ khó tri nhận được ngữ nghĩa của vốn từ loại này. 
Trong lớp từ này, có cả những từ ngữ thể hiện lối nói khác ngôn ngữ toàn dân rất khó tìm từ ngữ 
tương ứng về nghĩa với chúng, vì thế nhóm từ này cũng mang dấu ấn văn hóa của mảnh đất này 
khá rõ nét. Qua tên gọi của nó ta thấy như đời sống, phong cách sản vật, phong tục tập quán, lễ 
hội riêng của từng vùng. Trong nội bộ kiểu loại từ này, dựa vào ý nghĩa và hoàn cảnh sử dụng 
trong phương ngữ có thể phân chia chúng thành 2 tiểu nhóm. 
Ngữ nghĩa của một số từ trong phương ngữ Quảng Trị 
48 
Nhóm từ ngữ gắn với các sản vật và đời sống sinh hoạt của nhân dân địa phương: Trong 
đời sống lao động của người dân ở địa phương, để chỉ sản vật họ có các loại bánh: 1- Bánh ít là 
loại bánh bằng bột nếp xay tươi, hấp cách thủy. Bánh trở nên dẻo và thơm. Tùy nguyên liệu 
được sử dụng hoặc màu sắc, người ta phân thành các loại bánh ít khác nhau: bánh ít trắng, 
bánh ít đen, Đi chợ Đồng cù bánh ít nhân tôm / Hai tay lột lá miệng mồm hả ra (Ca dao 
Quảng Trị); Bằng cái bánh ít, trong thịt ngoài da – cái mề gà (Câu đố Quảng Trị). 2- Bánh đòn 
nhiều nơi gọi là bánh tét. Nguyên liệu làm giống với bánh chưng nhưng hình thức gói thành 
từng đòn dài, hình trụ tròn lúc ăn thường dùng dây lạt hoặc chỉ tét ra thành từng lát. Đố thì giải 
được / Giải không được cho ăn bánh đòn / Cái chi hai đầu méo, giữa tròn hở anh (Câu đố Quảng 
Trị); Ru con con théc cho say / Để mẹ đi chợ mua bánh đòn cho ăn (Ca dao Quảng Trị), 
Ngoài các loại bánh còn có các loại rau củ như: chuối chát, hẹ, rau mưng...phản ánh được đời 
sống của một vùng đất khắc nghiệt. Ca dao Quảng Trị có ghi lại: Anh đà có vợ thời thôi / 
Không phải mắm nêm chuối chát mà muốn moi cho nhiều; Giàu như người ta buông hẹ bán 
hành / Khó như hai chúng mình lên non hái củi dần dần cũng qua; Nước cạn xuống sông bắt 
tôm mò cá / Nước sâu em lên trên đồng em hái rau má rau mưng. Trong sinh hoạt, có những từ 
ngữ dùng để nhấn mạnh các tính chất, đặc điểm sinh hoạt rất khó tìm được những từ ngữ toàn 
dân để lột tả hết được ý nghĩa của nó. Có các loại rượu làm say đắm lòng người: Rượu quỳnh 
tương, rượu cúc bù. Rượu quỳnh tương chai đầy chai cạn / Trúc gầy mòn nhớ dạng nhành mai 
(Ca dao Quảng Trị); Rượu quỳnh tương chén mời chén chuốc / Rượu cúc bù chai chuốc chai 
châm (Ca dao Quảng Trị). Ở Quảng Trị cũng có những loại trang phục với các tên gọi mang 
đậm chất phương ngữ do người địa phương tạo ra là nón quai găng, khăn nhiễu thảo, áo cố y, 
quần lụa đào. Ca dao Quảng Trị có ghi lại các từ này: 
“Nón quai găng tìm khăn nhiễu thảo 
Quần lụa đào chờ áo cố y 
Phận em nghiêng nghèo đói khổ 
Làm bạn mần chi cho thẹn thùng”. 
Về kiểu loại những từ khác âm khác nghĩa trong phương ngữ Quảng Trị đã phản ánh 
cuộc sống đa dạng, nhưng đầy bản sắc địa phương, nó góp phần cùng các nhóm từ khác làm cho 
bức tranh từ vựng phương ngữ thêm phong phú và toàn diện hơn. 
3.7. Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm từ trái nghĩa 
Từ trái nghĩa là những từ có một số nét nghĩa khái quát trong cấu trúc biểu niệm giống 
nhau, bên cạnh đó, nổi bật bật lên ít nhất một nét nghĩa đối lập. 
Các từ trái nghĩa trong từ địa phương thể hiện sự tương phản về nghĩa trên các khía 
cạnh phản ánh phẩm chất của đối tượng, ví dụ về thời gian (hôm ni – mai,...); vị trí (bắc lên – 
truống xuống, côi – đưới, dưới rọc/rôộc – lên vèng , đưới – côi,...); không gian (ra – vô, lui – 
tới, bên ni – bên tê,...); về kích thước, dung lượng, tính chất (cạn – nậy, rộng – chật, cao – hạ, có 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – ĐH Huế Tập 7, Số 2 (2017) 
49 
– nỏ có, cuốn lại – xổ ra, trẻ - tra, trúng – thua , nậy – nhỏ, cực – sướng ), về hiện tượng thiên 
nhiên (ráo – mưa ...), hiện tượng xã hội (giàu – khó). 
Các từ trái nghĩa tiếng Việt đa phần gắn liền với tính cân xứng, tức là dung lượng ngữ 
nghĩa của chúng phải tương đương nhau, ví dụ nhỏ trái nghĩa với nậy; chứ nhỏ không được 
coi nhỏ là trái nghĩa của khổng lồ... Tuy nhiên, một từ vẫn có thể tham gia vào nhiều cặp trái 
nghĩa, ví dụ: mở - đóng (cửa); mở - gấp (vở); mở - đậy (nắp); mở - hạ (màn);... Các đơn vị trái 
nghĩa có thể cấu tạo để tạo thành các cặp từ trái nghĩa, ví dụ: ăn mặn - ăn lạt; ăn mặn - ăn 
chay...Các đơn vị này được cấu tạo bằng cách ghép một từ gốc giống nhau vào hai vế của cặp 
trái nghĩa đã có. Có những trường hợp một từ trái nghĩa với hai từ, hai từ này không phân biệt 
về ý nghĩa mà lại đồng nghĩa với nhau như: 
Nước cạn thiếp xuống roọng mò tôm bắt cá 
Nước nậy thiếp lên đồng liếm rau má rau mưng 
(Ca dao Quảng Trị) 
Cạn và nậy khác nhau ở chỗ nậy chỉ độ “sâu” tuyệt đối của sự vật, khi vật đó “có 
khoảng cách từ đáy đến miệng nhỏ hơn khoảng cách bình thường”. Còn cạn chỉ độ “sâu” tương 
đối khi “mực nước chứa trong vật ở dưới mức bình thường”. Đối chiếu hai từ trên, chúng ta sẽ 
thấy từ “sâu” có hai nghĩa, một nghĩa tuyệt đối và một nghĩa tương đối. Nói “nước sông sâu” 
theo nghĩa tuyệt đối “nước sông có độ đo từ đáy đến mặt nước lớn hơn so với chiều cao con 
người bình thường”, theo nghĩa tương đối là “có mực nước từ đáy đến mặt lớn so với chiều cao 
của con người”. Hiện tượng trái nghĩa xuất hiện do sự phân hóa một nét nghĩa rộng thành hai 
cực đối lập, nhưng không phải bất cứ sự phân cực nào của một nét nghĩa rộng đều cũng dẫn tới 
hiện tượng trái nghĩa. 
4. KẾT LUẬN 
Như vậy, qua phân tích sơ bộ về đặc điểm ngữ nghĩa của các nhóm từ trong phương 
ngữ Quảng Trị với từ toàn dân, chúng ta thấy được bức tranh từ vựng – ngữ nghĩa vô cùng đa 
dạng và phức tạp. Có nghiên cứu ngữ nghĩa của vốn từ này mới thấy được sắc thái địa phương, 
sắc thái văn hóa, vai trò của từ trong hành chức, trong đời sống xã hội của cộng đồng người địa 
phương. Giữa vốn từ trong phương ngữ Quảng Trị với ngôn ngữ toàn dân tuy có những khác 
biệt về từ vựng – ngữ nghĩa nhưng qua khảo sát những lớp từ cụ thể, qua so sánh về nghĩa của 
từ, chúng ta thấy được xu hướng thu hẹp dần phạm vi sử dụng của từ ngữ địa phương là một 
thực tế đã và đang diễn ra. Tuy vậy, phương ngữ nói chung và phương ngữ Quảng Trị nói riêng, 
trên những biểu hiện cụ thể qua thời gian vẫn có sức sống nhất định trong đời sống cộng đồng 
người Việt, không thể một sớm một chiều thay thế hoàn toàn bởi ngôn ngữ toàn dân. 
Ngữ nghĩa của một số từ trong phương ngữ Quảng Trị 
50 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Dương Văn An (1997). Ô châu cận lục, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội 
[2]. Đỗ Hữu Châu (1981). Từ vựng – Ngữ nghĩa tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội 
[3]. F.de.Saussure (1997). Ngôn ngữ học đại cương, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội 
[4]. Hoàng Thị Châu (2009). Phương ngữ học tiếng Việt, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội 
[5]. Hoàng Phê (2010). Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Đà Nẵng 
[6]. Nguyễn Thị Bạch Nhạn (2001). Báo cáo tổng kết đề tài khoa học công nghệ cấp bộ, Đề tài Từ vựng 
phương ngữ Bắc Trung bộ, Đại học Sư Phạm, Đại học Huế 
[7]. Nguyễn Thiện Giáp (1998). Từ vựng học tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội 
[8]. Nguyễn Thiện Giáp (1996). Từ và nhận diện từ tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội 
[9]. Phan Hứa Thụy, Tôn Thất Bình (1992). Văn học dân gian Quảng Trị, Sở văn hóa thông tin thể thao 
thư viện Quảng Trị. 
THE SEMANTICS OF SOME WORDS IN THE DIALECT OF QUANG TRI 
Hoang Thi Tuong Linh 
Department of Primary Education, Hue University College of Education 
Email: hoangthituonglinh111@gmail.com 
ABSTRACT 
This article describes dialects by concentratedly analyzing the differences of words and 
meanings between Quang Tri dialect and Vietnamese nationwide. Remarkably, there are 
the differences in meanings, ways to name things, ways to look at things, and ways to 
reflect a reality as well. In this study, we systematically compared the semantics of Quang 
Tri dialects with the standard Vietnamese under the type layer; simultaneously, combined 
with comparison of semantics of each specific word. Those are expressing local identities, 
culture, and the role of words in addressing people and in a local society. This is an 
important foundation in order to standardize Vietnamese, preserve its purity and contribute 
to materials for teaching Vietnamese module at universities and colleges. 
Keywords: Dialect, feature of meaning, Quang Tri. 

File đính kèm:

  • pdfngu_nghia_cua_mot_so_tu_trong_phuong_ngu_quang_tri.pdf