Nghiên cứu xác định nguyên nhân trượt lở khu vực cầu Móng Sến, tỉnh Lào Cai

Trong những năm gần đây, các dạng tai biến

địa chất phát triển rất mạnh mẽ, gây nên những tổn

thất to lớn cho kinh tế - xã hội, tính mạng con

người. Lào Cai là tỉnh mà tai biến trượt lở, lũ quét,

lũ bùn đá xảy ra thường xuyên và gây thiệt hại rất

nặng nề. Theo thống kê chưa đầy đủ, chỉ tính từ

năm 1998 trở lại đây, ít nhất đã có 62 vụ trượt lở,

lũ quét, lũ bùn đá xảy ra trong khu vực thành phố

Lào Cai, huyện Bát Xát và huyện Sa Pa. Tại khu

vực cầu Móng Sến thường xuyên xảy ra trượt lở

làm nhiều người chết và bị thương, chưa kể đến

những thiệt hại về tài sản

Nghiên cứu xác định nguyên nhân trượt lở khu vực cầu Móng Sến, tỉnh Lào Cai trang 1

Trang 1

Nghiên cứu xác định nguyên nhân trượt lở khu vực cầu Móng Sến, tỉnh Lào Cai trang 2

Trang 2

Nghiên cứu xác định nguyên nhân trượt lở khu vực cầu Móng Sến, tỉnh Lào Cai trang 3

Trang 3

Nghiên cứu xác định nguyên nhân trượt lở khu vực cầu Móng Sến, tỉnh Lào Cai trang 4

Trang 4

Nghiên cứu xác định nguyên nhân trượt lở khu vực cầu Móng Sến, tỉnh Lào Cai trang 5

Trang 5

Nghiên cứu xác định nguyên nhân trượt lở khu vực cầu Móng Sến, tỉnh Lào Cai trang 6

Trang 6

Nghiên cứu xác định nguyên nhân trượt lở khu vực cầu Móng Sến, tỉnh Lào Cai trang 7

Trang 7

Nghiên cứu xác định nguyên nhân trượt lở khu vực cầu Móng Sến, tỉnh Lào Cai trang 8

Trang 8

Nghiên cứu xác định nguyên nhân trượt lở khu vực cầu Móng Sến, tỉnh Lào Cai trang 9

Trang 9

Nghiên cứu xác định nguyên nhân trượt lở khu vực cầu Móng Sến, tỉnh Lào Cai trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang viethung 7580
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Nghiên cứu xác định nguyên nhân trượt lở khu vực cầu Móng Sến, tỉnh Lào Cai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu xác định nguyên nhân trượt lở khu vực cầu Móng Sến, tỉnh Lào Cai

Nghiên cứu xác định nguyên nhân trượt lở khu vực cầu Móng Sến, tỉnh Lào Cai
 164
33(2)[CĐ], 164-174 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 6-2011 
NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH NGUYÊN NHÂN 
TRƯỢT LỞ KHU VỰC CẦU MÓNG SẾN, 
TỈNH LÀO CAI 
NGUYỄN BÁ DUẨN1, ĐẶNG THANH HẢI1, VŨ ĐỨC MINH2, LÊ THỊ THÚY HIÊN3 
E-mail: nguyenbaduan@gmail.com 
 1Viện Vật Lý Địa cầu - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
2Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQGHN 
3Trường Đại học Hồng Đức 
Ngày nhận bài: 4-4-2011 
1. Mở đầu 
Trong những năm gần đây, các dạng tai biến 
địa chất phát triển rất mạnh mẽ, gây nên những tổn 
thất to lớn cho kinh tế - xã hội, tính mạng con 
người. Lào Cai là tỉnh mà tai biến trượt lở, lũ quét, 
lũ bùn đá xảy ra thường xuyên và gây thiệt hại rất 
nặng nề. Theo thống kê chưa đầy đủ, chỉ tính từ 
năm 1998 trở lại đây, ít nhất đã có 62 vụ trượt lở, 
lũ quét, lũ bùn đá xảy ra trong khu vực thành phố 
Lào Cai, huyện Bát Xát và huyện Sa Pa. Tại khu 
vực cầu Móng Sến thường xuyên xảy ra trượt lở 
làm nhiều người chết và bị thương, chưa kể đến 
những thiệt hại về tài sản. 
Quốc lộ 4D là tuyến đường thường xuyên xảy 
ra trượt lở. Cầu Móng Sến nằm trên quốc lộ 4D là 
cửa ngõ lên trung tâm du lịch Sa Pa, cách thị trấn 
Sa Pa khoảng 15km, là huyết mạch giao thông giữa 
Đông Bắc và Tây Bắc. Mỗi năm Nhà nước và tỉnh 
Lào Cai mất hàng tỷ đồng để khắc phục hậu quả 
trượt lở tại khu vực cầu Móng Sến. Năm 2002, kè 
ta luy xử lý trượt được xây dựng nhưng vẫn tiếp 
tục bị hư hại do hoạt động của khối trượt. 
Để góp phần phòng chống, giảm nhẹ tai biến do 
trượt lở, chúng tôi đã sử dụng phương pháp ảnh 
điện đa cực (Multi-electrode Resistivity Imaging - 
MRI) vào việc nghiên cứu xác định nguyên nhân 
trượt lở nhằm bổ sung các thông tin có ích, tích 
hợp cùng với tài liệu địa chất để làm cơ sở khoa 
học cho các đề xuất giải pháp xử lý trượt lở, phòng 
tránh và giảm nhẹ thiệt hại. Khu vực cầu Móng 
Sến, tỉnh Lào Cai đã được chúng tôi chọn là khu 
vực nghiên cứu. 
2. Đặc điểm khu vực trượt lở cầu Móng Sến 
2.1. Đặc điểm địa hình 
Tuyến đường quốc lộ 4D chạy men theo sườn 
trái của thung lũng Ngòi Đum có địa hình thấp dần 
từ thị trấn Sa Pa đến thành phố Lào Cai, có vách 
dương dốc, mặt đường hẹp, có nhiều đoạn uốn 
khúc với vách âm dốc và sâu. Thung lũng Ngòi 
Đum có trắc diện ngang hẹp, hình chữ V, có sườn 
dốc đến 60°. Mức độ phân cắt ngang ở hai bên 
sườn thung lũng khác nhau, bên sườn trái có ba 
suối nhỏ và một suối lớn, bên sườn phải có hai suối 
lớn và sáu suối nhỏ. Địa hình sườn dốc dọc tuyến 
đường 4D là một yếu tố thuận lợi cho tai biến trượt 
lở xảy ra. 
Khu vực trượt lở cầu Móng Sến thuộc xã Trung 
Chải, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, nằm ngay trên 
taluy dương quốc lộ 4D là nơi thường xuyên xảy ra 
trượt lở. Cầu Móng Sến bắc qua suối Móng Sến 
(chảy theo hướng tây - đông) đổ vào Ngòi Đum. 
Dọc theo suối Móng Sến, cách cầu khoảng 50m về 
phía bắc là nơi gặp nhau với con suối khác chảy 
theo hướng bắc - nam. Phía tây cầu là đoạn đường 
cong có hướng 330° chuyển sang hướng 90° ở đầu 
cầu phía đông. Như vậy địa hình khu vực này bị 
chia cắt mạnh là nguyên nhân chính gây trượt lở. 
Khu vực này có độ dốc địa hình khoảng 30°- 
40° [2-4] làm giảm độ ổn định của sườn và do đó 
 165
làm tăng nguy cơ trượt trọng lực của khối đất đá 
phía vách dương của đường, đặc biệt khi thành tạo 
của sườn là vật chất bở rời và bị bão hòa nước thì 
trượt lở chắc chắn sẽ xảy ra. 
 Tại khu vực này, trên quốc lộ 4D từ thị trấn Sa 
Pa về thành phố Lào Cai, bên phải là bờ vực thuộc 
thung lũng Ngòi Đum có sườn dốc (50 - 55°), độ 
chênh cao từ chân vực đến mặt đường là 36m, 
chiều rộng của thung lũng là 220m. 
2.2. Đặc điểm địa chất 
Các thành tạo địa chất dọc theo tuyến đường 
4D khá đa dạng, bao gồm các trầm tích lục nguyên 
bị biến chất, nén ép, dập vỡ tạo thành các dải chạy 
theo phương TB-ĐN xen kẽ với các khối magma 
xâm nhập. Từ thị trấn Sa Pa đến thành phố Lào 
Cai, quốc lộ 4D cắt qua các thành tạo Đệ tứ không 
phân chia tại thung lũng thị trấn Sa Pa, hệ tầng 
Cam Đường (ε1 cđ), hệ tầng Cha Pả (NP cp) xen kẽ 
với các thành tạo xâm nhập phức hệ Po Sen (δγPZ1 
ps), tiếp theo là các trầm tích hệ tầng Đá Đinh (NP-
ε1 đđ), Bản Nguồn (D1 bn) và Viên Nam (P3 vn). 
Dọc tuyến đường, đất đá của các hệ tầng này 
thường có cấu trúc dạng khối, độ phân lớp kém nên 
hiện tượng trượt theo mặt trượt ít xảy ra, khả năng 
trượt trọng lực do bão hòa nước của các khối vật 
liệu mịn lớn hơn. 
Tuyến đường quốc lộ 4D chạy theo hướng ĐB- 
TN gần như vuông góc với hệ thống đứt gãy chính 
trong vùng, do vậy tuyến đường này cắt qua các đới 
nén ép, dập vỡ bởi các hoạt động kiến tạo. Dọc theo 
tuyến đường quốc lộ 4D có rất nhiều đoạn có vách 
dương cấu tạo bởi các vật liệu bở rời, điển hình là 
các tầng phong hóa của những đới tiếp xúc giữa 
khối xâm nhập Po Sen và hệ tầng Cha Pả, thành tạo 
sườn tích và bồi tích Đệ tứ, các đới bị cà nát, nén ép, 
dập vỡ trong khối xâm nhập Po Sen. Các vật liệu 
này khi gặp địa hình sườn dốc và bị bão hòa nước 
sau mưa sẽ là những khối trượt gây nguy hiểm cho 
giao thông trên tuyến đường. 
Độ bền kháng cắt của đất đá là yếu tố cơ bản gây 
trượt lở. Nếu độ bền quá yếu thì ở trạng thái tự nhiên 
trên sườn dốc dưới tác dụng của trọng lực trượt lở 
vẫn xảy ra. Phức hệ Po Sen (δγPZ1 ps) thuộc nhóm 
đá xâm nhập axit - trung tính bao gồm các đá 
granođiorit, granit, ... Theo bảng phân cấp nhóm đất 
đá theo độ bền [1] thì đây là nhóm đất đá có cấp độ 
trượt lở mạnh. 
Trong các đới đá vụn thuộc vách dương của 
đoạn cầu Móng Sến còn lưu giữ các mặt trượt bằng 
phải có phương 130°, đổ về hướng đông bắc với góc 
dốc 70°. Theo kết quả nghiên cứu, cách cầu về phía 
đông theo hướng 90° khoảng 200m là đới đá dập vỡ, 
độ rộng 3m, nằm sát đá gốc rắn chắc, ở đây phát 
triển khe nứt theo hệ 108°Ð70° và 50°Ð70° (hình 1). 
Tại cầu Móng Sến là đới cắt trượt kéo dài theo 
phương 130°, cấu tạo từ đá granođiorit rắn chắc ở 
rìa đới và phần trung tâm là đá gốc bị nghiền vụn
bở rời. Trong đới cắt trượt, các thành tạo ... 000 Ωm) 
Hình 6. Kết quả phân tích tuyến MONGSEN2: WZ (weathered zone) - đới phong hóa (5 - 150 Ωm) 
 BR (bed rock) - đá gốc (150 - 3000 Ωm) 
 169
4.3. Tuyến MONGSEN3 (hình 7) 
Trên mặt cắt xử lý có hai vùng WZ: vùng WZ1 
từ mét thứ 50-130, cũng nằm ngay trên sườn phía 
tây khối trượt I, gần rãnh thoát nước, nằm trên 
ruộng bậc thang, dốc khoảng 18° kéo dài từ đỉnh 
tới gần bờ suối. Tuy nhiên phần nằm trên sườn dốc 
từ mét thứ 50-105, bề dày vùng này rất mỏng, đoạn 
còn lại khá dày, phát triển từ trên mặt xuống độ sâu 
khoảng 30m nhưng cũng như vùng WZ1 của 
MONGSEN2, chân khối này được chắn bởi đá gốc 
nên nguy cơ trượt lở không cao. Vùng WZ2, ở mét 
thứ 280 - 370 (cuối tuyến), sâu từ 0 đến 25m, nằm 
trên ruộng bậc thang ngay bên dưới mương dẫn 
nước số 3, nằm trên sườn dốc khoảng 31°, cách 
mặt đường khoảng 110m, có thể vùng này cùng với 
vùng WZ3 của MONGSEN2 tạo thành đới có nguy 
cơ tiếp tục sạt lở. 
Hình 7. Kết quả phân tích tuyến MONGSEN3: WZ (weathered zone) - đới phong hóa (5 - 150 Ωm) 
 BR (bed rock) - đá gốc (150 - 3000 Ωm) 
4.4. Tuyến MONGSEN4 (hình 8) 
Qua kết quả xử lý không thấy xuất hiện đới WZ 
ngoại trừ phần cuối tuyến. Tuy nhiên, phần này 
nằm ở trên phần bằng phẳng của sườn dốc phía đối 
diện nên không gây sạt lở. Có thể nhận thấy phần 
lớn chiều dài tuyến đá gốc đã lộ trên mặt. Từ hình 
thái bề mặt chúng ta có thể nhận ra 2 mặt trượt đã 
xảy ra qua tuyến này: phần trên từ mét thứ 130- 
200, dốc 42°, phần dưới từ mét thứ 0-100, dốc 30°. 
4.5. Tuyến MONGSEN5 (hình 9) 
Trên tuyến xuất hiện 4 vùng WZ nằm rải rác 
dọc tuyến, phát triển từ trên mặt xuống độ sâu 
khoảng 25m. Mặc dù sườn này có khá nhiều cây
che phủ nhưng dọc theo tuyến khảo sát xuất hiện 
khá nhiều khe nứt, cây cối bị nghiêng đổ theo 
hướng dốc và do đó có thể nhận định các vùng này 
tạo thành đới, với bề dày và góc sườn dốc như vậy 
có thể gây trượt trên toàn tuyến. 
4.6. Tuyến MONGSEN6 (hình 10) 
Trên tuyến xuất hiện 2 vùng WZ: vùng WZ1 
kéo dài từ mét thứ 50-250m, dày khoảng 20m. Đây 
là vùng có khả năng sạt lở cao do quy mô vùng 
WZ và độ dốc sườn là khá lớn. Vùng WZ2 nằm ở 
mét thứ 270-310 dày khoảng 15m nằm quanh vùng 
đá gốc; có thể đá gốc ở đây nứt nẻ mạnh tạo điều 
kiện cho nước mặt ngấm xuống tạo ra đới này. 
 170
Hình 8. Kết quả phân tích tuyến MONGSEN4: WZ (weathered zone) - đới phong hóa (5 - 150 Ωm) 
 BR (bed rock) - đá gốc (150 - 3000 Ωm) 
Hình 9. Kết quả phân tích tuyến MONGSEN5: WZ (weathered zone) - đới phong hóa (5 - 150 Ωm) 
 BR (bed rock) - đá gốc (150 - 3000 Ωm) 
 171
Hình 10. Kết quả phân tích tuyến MONGSEN6: WZ (weathered zone) - đới phong hóa (5 - 150 Ωm) 
 BR (bed rock) - đá gốc (150 - 3000 Ωm) 
5. Nhận xét, đánh giá, kiến nghị và giải pháp 
5.1. Nguyên nhân gây trượt lở 
Qua việc thu thập và phân tích các nguồn tài 
liệu liên quan đến trượt lở khu vực cầu Móng Sến, 
chúng tôi có một số nhận xét sau: 
- Đặc điểm địa hình - địa mạo: taluy dương 
dốc, từ mặt đường đến độ cao tuyệt đối 850m là 30 
- 35°, từ độ cao tuyệt đối 850m đến 900m là 20 - 
25°, từ độ cao tuyệt đối 900m đến 1000m là 40°, từ 
độ cao 1000m trở lên là vách núi đá granođiorit rắn 
chắc. Hiện tượng trượt lở đang xảy ra từ độ cao 
tuyệt đối 900m trở xuống đến quốc lộ 4D, từ độ 
cao tuyệt đối 900m trở lên chưa xảy ra hiện tượng 
trượt lở. Taluy âm (sườn thung lũng Ngòi Đum) là 
vực sâu (đến 60°). Ngoài độ dốc sườn, địa hình còn 
bị chia cắt mạnh bởi sông suối, mặt đường hẹp, 
uốn khúc, có nhiều điểm nứt trượt giật cấp theo 
định hình. Như vậy, độ dốc địa hình khá lớn, phần 
trên có bề mặt địa hình thoải hơn rất thuận tiện cho 
việc tích nước trong lớp vỏ phong hóa. Theo phân 
cấp trượt lở thì với đặc điểm này ở đây có nguy cơ 
xảy ra trượt lở mạnh. 
- Đặc điểm địa chất-kiến tạo: khu vực cầu 
Móng Sến phân bố các đá granitoid thuộc phức hệ 
đá Po Sen. Theo tài liệu lỗ khoan và khảo sát địa 
chất thì trên cùng là lớp đất canh tác và đất phong 
hóa bở rời phân bố trong thân các khối trượt và 
nằm trên mặt các khu vực trượt. Đất có mầu nâu 
đỏ, vàng nhạt. Thành phần là sét, sét pha cát, cát 
lẫn dăm, sạn. Bề dày từ vài mét đến >10m. Đất dễ 
bị hòa tan, hệ số thấm cao. Bên dưới là lớp đá 
granođiorit bị nứt nẻ, phong hóa nhẹ. Diện phân bố 
rộng, lộ ra ở mép sông Ngòi Đum, suối Móng Sến, 
taluy dương, vách núi ở độ cao >1000m. Độ ngấm 
nước cao, độ ổn định thấp. 
Quốc lộ 4D cắt vuông góc qua các hệ thống đứt 
gãy chính (các đới nén ép, dập vỡ) trong vùng. 
Ngoài ra, dọc suối Móng Sến là đới phá hủy có 
chiều rộng tới 500m, chiều dài khoảng vài kilômét. 
Tác động của đới phá hủy làm cho đá phức hệ 
Po Sen khu vực cầu Móng Sến bị cà nát, nén ép, 
dập vỡ (đới cắt trượt) mà phần trung tâm là đá gốc 
bị nghiền vụn, bở rời; phần ngoài rìa là đá gốc 
granođiorit rắn chắc. Sức kháng cắt của đá ở phần 
trung tâm chỉ bằng một nửa sức kháng cắt của đá 
phần ngoài rìa. Rõ ràng phần đá nứt nẻ bên dưới 
tạo điều kiện thuận lợi cho nước mặt xâm nhập, tạo 
ra các dòng chảy trong các khe nứt và dòng luân 
chuyển trên mặt trượt tạo điều kiện thuận lợi cho 
trượt lở. Tác động của đới phá hủy còn thúc đẩy 
nhanh quá trình phong hóa. Phần đất phong hóa ở 
trên lại có độ gắn kết yếu, nhiều tảng lăn hình cầu, 
thấm nước mạnh, có thành phần sét, tạo khả năng 
trượt lở cao (hình 11). 
 172
Hình 11. Cơ chế hình thành các dòng nước luân chuyển trong các khe nứt đá granit (trái) 
và vật liệu phong hóa tại khối trượt I khu vực cầu Móng Sến (phải) 
- Đặc điểm vỏ phong hóa: là sản phẩm phong 
hóa đá granit trong đới cắt trượt nên vỏ phong hóa 
dày (khoảng 20m), bở rời, độ gắn kết yếu, chủ yếu 
là đất, sét, cát, sạn lẫn nhiều tảng lăn hình cầu. 
Trong đó cát hạt thô, sạn thạch anh - sản phẩm cuối 
cùng của quá trình phong hóa, chiếm số lượng lớn. 
Vỏ phong hóa ở đây thuộc loại chịu trượt lở yếu, 
độ nhạy cảm cao. 
- Đặc điểm lượng mưa: nước mưa ngấm xuống 
các đới phá hủy kiến tạo, chứa trong các khe nứt. 
Mưa làm tăng tải trọng khối đất đá trên sườn dốc, 
làm bề mặt trượt được bôi trơn, giảm độ bền của 
đất đá, làm tăng lực gây trượt, giảm ma sát. Đây là 
vùng nằm trong trung tâm mưa lớn (2000 - 3600 
mm/năm) của khu vực, tập trùng nhiều vào các 
tháng VI, VII, VIII (có thể thấy hầu hết các vụ sạt 
lở ở đây đều rơi vào khoảng thời gian này). Chính 
đặc điểm này là tác động chính, trực tiếp thúc đẩy 
quá trình trượt lở. 
- Đặc điểm thảm thực vật và hoạt động nhân 
sinh: phần lớn diện tích trên các sườn khu vực này 
nhân dân trồng lúa, ngô, sắn và hoa màu. Phần từ 
độ cao trên 830m và phần rìa phía tây là những 
ruộng bậc thang trồng lúa. Quá trình canh tác của 
nhân dân trên các sườn làm lớp phủ thực vật tự 
nhiên bị mất đã trực tiếp làm thay đổi cân bằng 
sườn trên các khối trượt. 
- Trước đây, nguời dân đã đào ba hệ thống 
mương dẫn nước từ khe suối phía tây qua khu vực 
trượt lở I sang phía đông dài hàng kilômét. Những 
hệ thống thủy lợi đơn giản này nước chảy tự nhiên, 
nên về mùa mưa nước theo các khe nứt, hoặc tràn 
qua mương dẫn xuống phía dưới làm gia tăng tải 
trọng khối trượt và gây trượt lở. 
Như vậy: khu vực cầu Móng Sến hội tụ gần 
như đầy đủ các nguyên nhân gây trượt lở ở mức độ 
cao. Đó chính là lý do khu vực này đã và đang xảy 
ra trượt lở trong nhiều năm qua. 
5.2. Dự báo nguy cơ trượt lở khu vực cầu Móng 
Sến 
Khối trượt I: đoạn đường 4D qua khu vực này 
(chân khối trượt) không phải là nằm trên đá gốc 
rắn chắc như nhiều nhận định trước đây mà vẫn 
nằm trên lớp phong hóa dày khoảng 15m. Đá gốc 
chỉ lộ ở khu vực suối Móng Sến. Mặt cắt dọc thân 
khối trượt cho thấy mặc dù sườn của khối trượt này 
vẫn khá dốc, 42° ở phần thấp, 30° ở phần cao 
nhưng nhiều chỗ đá gốc đã lộ. Với các mặt cắt 
ngang khối trượt cho thấy phần sườn phía tây (phía 
suối) vẫn tồn tại vỏ phong hóa khá dày, khoảng 
25m, kéo dài từ bờ suối lên đến đỉnh dốc như ở 
vùng WZ1 của tuyến MONGSEN2. Với độ dốc địa 
hình khoảng 20° các vùng này vẫn tồn tại nguy cơ 
trượt lở nhưng phía chân của chúng được chắn bởi 
đá gốc. Do đó chúng tôi nhận định khả năng trượt 
lở ít có khả năng xảy ra ở sườn này. Phần phía 
đông khối trượt (cuối các tuyến ngang), sự có mặt 
hai vùng WZ3 của tuyến MONGSEN2, cách mặt 
đường 50m và vùng WZ2 của tuyến MONGSEN3, 
cách mặt đường khoảng 110m (bên dưới mương 
 173
dẫn nước) có bề rộng khoảng 70m, sâu khoảng 
20m nằm trên sườn dốc 31°, là ruộng bậc thang 
trồng lúa, có thể hai vùng này tạo thành một khối 
có khả năng gây trượt lở rất cao. Một số vùng đất 
phong hóa nhỏ như WZ2 của tuyến MONGSEN2 
hay một số vùng trên tuyến MONGSEN4, nếu xảy 
ra trượt lở thì quy mô không lớn. 
Khối trượt II: theo kết quả tuyến MONGSEN6 
cắt ngang sườn khối này tồn tại vùng phong hóa 
quy mô khá lớn dài khoảng 200m, dày khoảng 
20m. Vùng này nằm trên sườn dốc khoảng 22° nên 
nguy cơ trượt lở là rất cao, nhất là khi khối này 
được gia tăng thêm khối lượng về mùa mưa. 
Khối trượt III: theo kết quả tuyến MONGSEN5 
cắt ngang sườn khối này tồn tại vùng phong hóa 
quy mô khá lớn kéo dài từ đầu tới cuối tuyến, dày 
khoảng 25m. Vùng này nằm trên sườn dốc khoảng 
25° nên nguy cơ trượt lở là rất cao, nhất là khi khối 
này được gia tăng thêm khối lượng về mùa mưa. 
Tại khu vực khảo sát chúng tôi đã phát hiện được 
rất nhiều vết nứt khá lớn. Có thể những vết nứt này 
làm nước mưa thấm xuống vùng phong hóa càng 
mạnh hơn và gây nguy cơ trượt lở lớn. 
5.3. Đề xuất giải pháp phòng, chống trượt lở khu 
vực cầu Móng Sến 
(i) Tổ chức các hình thức như nói chuyện, 
thông báo trên các phương tiện truyền thông của 
xã, trường, làm các tờ rơi bằng hình vẽ đơn giản, 
dễ hiểu, ... cho nhân dân và học sinh và tập trung 
vào các nội dung sau: 
- Nhận biết được hiện tượng trượt lở đất: dấu 
hiệu xuất hiện (sau những trận mưa lớn, cây cối bị 
đổ ngả,...). 
- Các giải pháp phòng chống trượt lở đất: nhằm 
chỉ rõ nguyên nhân do con người tạo ra, không 
canh tác trên các sườn dốc, không tạo các mương 
dẫn nước tự nhiên, trồng cây bảo vệ, ... 
- Gắn biển cảnh báo giao thông để mọi người 
và các phương tiện giao thông đề phòng, nhất là 
với khách du lịch. 
- Các phương án đối phó, cứu hộ và khắc phục 
hậu quả khi xảy ra trượt lở đất. 
(ii) Mọi chương trình, kế hoạch phát triển của 
địa phương đều phải tính đến các giải pháp phòng 
chống trượt lở như sử dụng đất canh tác, trồng 
rừng, sử dụng đất ở, làm các công trình thủy lợi, 
khai thác du lịch,... 
(iii) Tại khối trượt I khu vực cầu Móng Sến đã 
tiến hành nhiều biện pháp kỹ thuật nhằm phòng 
chống trượt lở như kè mái, xây các rãnh thoát nước 
ra hai bên, xây tường chắn ở chân khối trượt. Tuy 
nhiên, do không khảo sát kỹ trước khi thiết kế xây 
dựng, nên hệ thống kè mái, rãnh thoát nước bị hư 
hại nghiêm trọng do quá trình trượt lở vẫn tiếp 
diễn, gây lãng phí. 
 Theo hiện trạng hiện nay, chúng tôi kiến nghị: 
khối trượt này theo đánh giá từ kết quả khảo sát, 
nguy cơ trượt lở không cao. Riêng phần phía đông 
khối trượt vẫn tiềm ẩn nguy cơ trượt lở, không 
nên trồng lúa trên các ruộng bậc thang, nhất là các 
mương dẫn nước tự nhiên. Do độ dốc sườn vẫn lớn 
nên cần chỉnh sửa hình dạng và độ dốc sườn, đồng 
thời tạo các rãnh thoát nước để giảm lực gây trượt, 
không cho nước xâm nhập xuống phần đá nứt nẻ 
bên dưới, trồng cây tạo lớp phủ, hạn chế quá trình 
phong hóa và điều tiết nước mặt. 
(iv) Đối với khối trượt II và III nằm xa đường 
quốc lộ 4D nhưng nguy cơ trượt lở cao và ảnh 
hưởng trực tiếp đến cầu Móng Sến nếu trượt lở xảy 
ra. Mặc dù phần này có độ che phủ rừng tốt hơn 
khối trượt I nhưng phía trên độ dốc nhỏ, nhân dân 
vẫn canh tác, không có lớp phủ thực vật bảo vệ. Do 
đó cần tạo điều kiện để nhân dân chuyển sang canh 
tác ở vùng khác, thay vào đó là trồng cây bảo vệ. 
Tiến hành khảo sát bổ sung bằng các phương pháp 
địa vật lý để xác định rõ đá gốc, quy mô các khối 
trượt. Từ đó đánh giá khả năng gây trượt và thiết 
kế các công trình phòng chống phù hợp, nhất là các 
rãnh thoát nước mặt bởi khu vực này không có dân 
cư nên không cần áp dụng các biện pháp công trình 
quá tốn kém. 
Lời cảm ơn: Bài báo này là kết quả nghiên cứu 
của đề tài phát triển khoa học công nghệ, Liên hiệp 
các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Chúng tôi 
xin chân thành cảm ơn tập thể phòng Địa động lực, 
Viện Vật lý Địa cầu đã tham gia công tác thu thập 
các nguồn tài liệu liên quan đến trượt lở khu vực 
cầu Móng Sến. 
TÀI LIỆU DẪN 
[1] Trần Trọng Huệ, 2004: Báo cáo Nghiên 
cứu đánh giá tổng hợp các loại hình tai biến địa 
chất trên lãnh thổ Việt Nam và các giải pháp phòng 
 174
tránh. Đề tài độc lập cấp nhà nước. Lưu trữ Viện 
Địa chất, Viện KH&CN Việt Nam, Hà Nội. 
[2] Loke. M. H., 2004: Tutoral: 2-D and 3-D 
electricel imaging survey. 
[3] Chu Văn Ngợi, Nguyễn Thị Thu Hà, 2008: 
Đánh giá nguy cơ tai biến trượt lở dọc tuyến đường 
4D trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ giữa cấu 
trúc địa chất và địa hình. Tạp chí Địa chất, số 305, 
tr.1-8. 
[4] Nguyễn Trọng Yêm, 2006: Báo cáo Nghiên 
cứu đánh giá trượt - lở, lũ quét - lũ bùn đá một số 
vùng nguy hiểm ở miền núi Bắc Bộ, kiến nghị các 
giải pháp phòng tránh, giảm nhẹ thiệt hại. Đề tài 
độc lập cấp nhà nước. Lưu trữ Viện Địa chất, Viện 
KH&CN Việt Nam, Hà Nội. 
[5] AGI, 2003: The SuperSting with Swift 
automatic resistivity and IP system instruction 
manual. Advanced Geosciences, Inc., Austin, Texas.
SUMMARY 
Studying to determine causes of landslide in the area of the Mong Sen bridge, Lao Cai province 
To contribute to preventing and mitigating landslide hazards, we used the Multi-electrode Resistivity Imaging (MRI) 
method to determine causes of landslide that complements useful information, integrates with geological data to set 
scientific basics for proposing measures of reinforcement, prevention, and mitigation of the hazard loss. 
In the paper, we introduce some initial results of above mentioned method achieved in the area of the Mong Sen 
bridge, Lao Cai province. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_xac_dinh_nguyen_nhan_truot_lo_khu_vuc_cau_mong_se.pdf