Nghiên cứu thực trạng nhiễm HIV trên đối tượng nghiện chích ma túy đến xét nghiệm tại phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện Trung tâm y tế Huyện Quảng Xương năm 2017

Hiện nay đại dịch HIV/AIDS là một đại dịch nguy hiểm, là mối hiểm họa đối với tính mạng, sức khỏe, con người và tương lai nòi giống của các quốc gia, các dân tộc trên toàn cầu. Nó tác động mạnh mẽ đến sự phát triển về kinh tế, văn hóa, an ninh trật tự và an toàn xã hội đe dọa sự phát triển bền vững của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đáng lo ngại hơn là HIV/AIDS đang lan tràn mạnh mẽ ở khắp các vùng miền từ thành thị đến nông thôn, từ miền núi đến hải đảo xa xôi của đất nước cũng như ở khắp nơi trên thế giới.

Trên toàn cầu, theo thống kê của Tổ chức y tế Thế giới (WHO) tới đầu năm 2016 đã có 35 triệu người nhiễm HIV, 1.5 triệu người chết do AIDS và 119 quốc gia báo cáo kết quả có khoảng 95 triệu người đã xét nghiệm HIV

 Còn ở Việt Nam, theo báo cáo của Bộ Y tế (MOH) tính đến ngày 17/6/2016 số ca nhiễm HIV hiện còn sống là 228.178 người, số bệnh nhân AIDS hiện tại là 85.825 người, số người nhiễm HIV tử vong là 87603 trường hợp.

 Nguyên nhân lây nhiễm HIV bằng ba con đường chính: Đường tình dục (quan hệ đồng giới, mại dâm ), Đường máu và các chế phẩm máu (qua tiêm chích, truyền dịch, qua các dịch vụ Y tế không tuân thủ vệ sinh ), và qua con đường mẹ truyền sang con trong thời kỳ mang thai và cho con bú.

Tại Thanh Hóa là tỉnh có đa dạng địa hình như biển, đồng bằng, trung du và miền núi biên giới, là tỉnh nằm trong vùng ảnh hưởng của tác động kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Bắc Lào và Trung bộ, có đường biên giới dài hàng chục ki-lô-mét với nước bạn Lào là tỉnh có điều kiện thuận lợi để giao lưu và phát triển kinh tế, xã hội đồng thời cũng đối mặt với một loạt vấn đề về xã hội đặc biệt là đại dịch HIV/ AIDS.

Thanh Hóa có hơn 3,5 triệu người, trong đó 11 huyện miền núi chiếm hai phần ba diện tích tự nhiên, hơn một phần ba số dân toàn tỉnh với nhiều trọng điểm về buôn bán, vận chuyển, sử dụng ma túy. Toàn tỉnh ước có gần 14 nghìn người nghiện chích ma túy, trong đó 7.600 người có hồ sơ quản lý. Tính từ khi phát hiện người nhiễm HIV đầu tiên ở huyện Đông Sơn vào năm 1995, lũy tích đến nay có 7.398 người nhiễm HIV/AIDS, phân bố ở tất cả các huyện, thị xã, thành phố, 92% số xã, phường. Hiện nay bệnh đang có xu hướng tăng lên ở các huyện thị nhất là các khu đô thị du lịch [22] và các huyện miền núi.

Quảng Xương là một huyện đồng bằng ven biển có diện tích đất tự nhiên 227,63 km2, nằm trên các trục quốc lộ 1A, quốc lộ 45, 47, tỉnh lộ số 4, phía bắc là thành phố Thanh Hoá với khu công nghiệp Lễ Môn, phía nam là Khu công nghiệp động lực Nghi Sơn - Tĩnh Gia,với chiều dài bờ biển gần 18km có tiềm năng phát triển du lịch . Ðây là lợi thế đặc biệt quan trọng để phát triển kinh tế, xã hội, du lịch đồng thời kéo theo đó các tệ nạn xã hội cũng phát triển mạnh theo như mại dâm, ma túy. 100% số xã phường đều có người nhiễm HIV theo số liệu của trung tâm y tế Quảng Xương tính đến hết năm 2016 số tích lũy là 317 người nhiễm HIV, số tích lũy tử vong 122 người, số tích lũy hiện còn quản lý HIV 195 người. Ngoài ra còn có hàng trăm đối tượng trong địa bàn và ở các vùng lân cận đến kiếm sống mà không được quản lý.

Cho đến nay trên địa bàn Huyện Quảng Xương chưa có một nghiên cứu khoa học nào về tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS. Xuất phát từ những lý do trên tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu thực trạng nhiễm HIV trên đối tượng nghiện chích ma túy đến xét nghiệm tại phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện Trung tâm y tế Huyện Quảng Xương năm 2017”.

 

Nghiên cứu thực trạng nhiễm HIV trên đối tượng nghiện chích ma túy đến xét nghiệm tại phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện Trung tâm y tế Huyện Quảng Xương năm 2017 trang 1

Trang 1

Nghiên cứu thực trạng nhiễm HIV trên đối tượng nghiện chích ma túy đến xét nghiệm tại phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện Trung tâm y tế Huyện Quảng Xương năm 2017 trang 2

Trang 2

Nghiên cứu thực trạng nhiễm HIV trên đối tượng nghiện chích ma túy đến xét nghiệm tại phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện Trung tâm y tế Huyện Quảng Xương năm 2017 trang 3

Trang 3

Nghiên cứu thực trạng nhiễm HIV trên đối tượng nghiện chích ma túy đến xét nghiệm tại phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện Trung tâm y tế Huyện Quảng Xương năm 2017 trang 4

Trang 4

Nghiên cứu thực trạng nhiễm HIV trên đối tượng nghiện chích ma túy đến xét nghiệm tại phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện Trung tâm y tế Huyện Quảng Xương năm 2017 trang 5

Trang 5

Nghiên cứu thực trạng nhiễm HIV trên đối tượng nghiện chích ma túy đến xét nghiệm tại phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện Trung tâm y tế Huyện Quảng Xương năm 2017 trang 6

Trang 6

Nghiên cứu thực trạng nhiễm HIV trên đối tượng nghiện chích ma túy đến xét nghiệm tại phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện Trung tâm y tế Huyện Quảng Xương năm 2017 trang 7

Trang 7

Nghiên cứu thực trạng nhiễm HIV trên đối tượng nghiện chích ma túy đến xét nghiệm tại phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện Trung tâm y tế Huyện Quảng Xương năm 2017 trang 8

Trang 8

Nghiên cứu thực trạng nhiễm HIV trên đối tượng nghiện chích ma túy đến xét nghiệm tại phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện Trung tâm y tế Huyện Quảng Xương năm 2017 trang 9

Trang 9

Nghiên cứu thực trạng nhiễm HIV trên đối tượng nghiện chích ma túy đến xét nghiệm tại phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện Trung tâm y tế Huyện Quảng Xương năm 2017 trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 53 trang minhkhanh 11920
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Nghiên cứu thực trạng nhiễm HIV trên đối tượng nghiện chích ma túy đến xét nghiệm tại phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện Trung tâm y tế Huyện Quảng Xương năm 2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu thực trạng nhiễm HIV trên đối tượng nghiện chích ma túy đến xét nghiệm tại phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện Trung tâm y tế Huyện Quảng Xương năm 2017

Nghiên cứu thực trạng nhiễm HIV trên đối tượng nghiện chích ma túy đến xét nghiệm tại phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện Trung tâm y tế Huyện Quảng Xương năm 2017
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay đại dịch HIV/AIDS là một đại dịch nguy hiểm, là mối hiểm họa đối với tính mạng, sức khỏe, con người và tương lai nòi giống của các quốc gia, các dân tộc trên toàn cầu. Nó tác động mạnh mẽ đến sự phát triển về kinh tế, văn hóa, an ninh trật tự và an toàn xã hội đe dọa sự phát triển bền vững của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đáng lo ngại hơn là HIV/AIDS đang lan tràn mạnh mẽ ở khắp các vùng miền từ thành thị đến nông thôn, từ miền núi đến hải đảo xa xôi của đất nước cũng như ở khắp nơi trên thế giới.
Trên toàn cầu, theo thống kê của Tổ chức y tế Thế giới (WHO) tới đầu năm 2016 đã có 35 triệu người nhiễm HIV, 1.5 triệu người chết do AIDS và 119 quốc gia báo cáo kết quả có khoảng 95 triệu người đã xét nghiệm HIV
 Còn ở Việt Nam, theo báo cáo của Bộ Y tế (MOH) tính đến ngày 17/6/2016 số ca nhiễm HIV hiện còn sống là 228.178 người, số bệnh nhân AIDS hiện tại là 85.825 người, số người nhiễm HIV tử vong là 87603 trường hợp.
 Nguyên nhân lây nhiễm HIV bằng ba con đường chính: Đường tình dục (quan hệ đồng giới, mại dâm), Đường máu và các chế phẩm máu (qua tiêm chích, truyền dịch, qua các dịch vụ Y tế không tuân thủ vệ sinh), và qua con đường mẹ truyền sang con trong thời kỳ mang thai và cho con bú.
Tại Thanh Hóa là tỉnh có đa dạng địa hình như biển, đồng bằng, trung du và miền núi biên giới, là tỉnh nằm trong vùng ảnh hưởng của tác động kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Bắc Lào và Trung bộ, có đường biên giới dài hàng chục ki-lô-mét với nước bạn Lào là tỉnh có điều kiện thuận lợi để giao lưu và phát triển kinh tế, xã hội đồng thời cũng đối mặt với một loạt vấn đề về xã hội đặc biệt là đại dịch HIV/ AIDS.
Thanh Hóa có hơn 3,5 triệu người, trong đó 11 huyện miền núi chiếm hai phần ba diện tích tự nhiên, hơn một phần ba số dân toàn tỉnh với nhiều trọng điểm về buôn bán, vận chuyển, sử dụng ma túy. Toàn tỉnh ước có gần 14 nghìn người nghiện chích ma túy, trong đó 7.600 người có hồ sơ quản lý. Tính từ khi phát hiện người nhiễm HIV đầu tiên ở huyện Đông Sơn vào năm 1995, lũy tích đến nay có 7.398 người nhiễm HIV/AIDS, phân bố ở tất cả các huyện, thị xã, thành phố, 92% số xã, phường. Hiện nay bệnh đang có xu hướng tăng lên ở các huyện thị nhất là các khu đô thị du lịch [22] và các huyện miền núi. 
Quảng Xương là một huyện đồng bằng ven biển có diện tích đất tự nhiên 227,63 km2, nằm trên các trục quốc lộ 1A, quốc lộ 45, 47, tỉnh lộ số 4, phía bắc là thành phố Thanh Hoá với khu công nghiệp Lễ Môn, phía nam là Khu công nghiệp động lực Nghi Sơn - Tĩnh Gia,với chiều dài bờ biển gần 18km có tiềm năng phát triển du lịch . Ðây là lợi thế đặc biệt quan trọng để phát triển kinh tế, xã hội, du lịch đồng thời kéo theo đó các tệ nạn xã hội cũng phát triển mạnh theo như mại dâm, ma túy. 100% số xã phường đều có người nhiễm HIV theo số liệu của trung tâm y tế Quảng Xương tính đến hết năm 2016 số tích lũy là 317 người nhiễm HIV, số tích lũy tử vong 122 người, số tích lũy hiện còn quản lý HIV 195 người. Ngoài ra còn có hàng trăm đối tượng trong địa bàn và ở các vùng lân cận đến kiếm sống mà không được quản lý.
Cho đến nay trên địa bàn Huyện Quảng Xương chưa có một nghiên cứu khoa học nào về tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS. Xuất phát từ những lý do trên tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu thực trạng nhiễm HIV trên đối tượng nghiện chích ma túy đến xét nghiệm tại phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện Trung tâm y tế Huyện Quảng Xương năm 2017”.
Với 2 mục tiêu sau:
1- Xác định tỷ lệ nhiễm HIV của người nghiện chích ma túy đến xét nghiệm tại phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện Trung tâm y tế Huyện Quảng Xương trong năm 2017.
2- Mô tả một số kiến thức và yếu tố liên quan đến nhiễm HIV của người chích ma túy đến xét nghiệm tại địa điểm trên.
Từ đó đề xuất một số biện pháp can thiệp nhằm góp phần làm giảm tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trên đối tượng nghiện chích ma túy của Huyện Quảng Xương
Chương I
TỔNG QUAN
1.1. Khái niệm cơ bản về HIV/AIDS
Tháng 6/1981 Trung tâm kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ ở Alanta, phát hiện một nhóm 5 nam thanh niên bị viêm phổi do Pneumocytis Carinii, điều trị bằng Pentamidin không khỏi; sau đó ở Newyork và Califonia bác sỹ Fredman Alvin cũng phát hiện 26 nam thanh niên đồng tính luyến ái bị suy giảm miễn dịch. Trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) Atlanta đã xác định những người này bị mắc hội chức suy giảm miễn dịch đầu tiên trên thế giới.
Năm 1983, lần đầu tiên Virus HIV được phân lập tại viện Pasteur Paris cộng hòa Pháp, năm 1986 được WHO chính thức lấy tên Virus này là HIV.
1.1.1. Khái niệm về HIV/AIDS
 HIV (HIV- Human Immuno Deficiency Virus) là virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người, thuộc họ Retro Virus, nhóm Lentivirus có giai đoạn tiềm tàng không có triệu chứng kéo dài [ 54]
AIDS (AIDS- Acquired Immune Deficiency Syndrome) Là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải là biểu hiện ở giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV[15]
1.1.2. Căn nguyên
Năm 1983 Barre Sinosi trong nhóm nghiên cứu của giáo sư Luc Mongtanier (Viện Paster Paris) phát hiện Virus có liên quan đến hạch nên đặt tên là LAV (Lymphoadeopathy Associated Virus).
Năm 1984 Gallo (Hoa Kỳ) phân lập được virus có ái tính với Lympho T của người và đặt tên là HTLV týp III (Human Lymphotrophic virus tuýp III), cùng năm Levy phân lập được virus liên quan đến hội chứng suy giảm miễn dịch đặt tên là ARV (AIDS related virus) 
Năm 1986 Hội nghị danh pháp quốc tế của tổ chức y tế thế giới (WHO) đã thống nhất 3 loại Virus trên đều thống nhất đặt tên là virus HIV1.
Năm 1985 Barin phân lập được virus thứ hai ở Tây Phi đặt tên là HIV2. HIV2 thường gặp ở châu Phi. HIV1 có hai tuýp 1 và 2 có mặt trên toàn thế giới; HIV1 có 3 nhóm là M, O, N. Nhóm O có 10 dưới nhóm thường thấy ở châu Phi. Nhóm M có 10 dưới nhóm bao gồm từ A đến J, dưới nhóm A thường gặp ở châu Phi và ấn Độ. Còn nhóm dưới B, C, E thường thấy ở Đông Nam á, Nam á.
Virus HIV (gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người) có mã số phân loại quốc tế ICD-10 là B20B24.Về gen thì HIV là một ARN virus họ RETRO VIRIDAE, dưới nhóm Lentivirus. HIV là một nhóm  ... g lẽ là lứa tuổi lao động, đóng góp xây dựng cho bản thân, gia đình và xã hội, cũng như góp phần sản sinh, nuôi dạy thế hệ tương lai. Vì vậy đây là những hậu quả nặng nền cho xã hội bởi đại dịch HIV/AIDS. 
4.2.3. Tỷ lệ nhiễm theo giới
Bảng 3.3 cho thấy trong số những người nhiễm HIV, nam giới chiếm đa số 98.6%; giới nữ chỉ chiếm có 1.4%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Bình và cộng sự cho thấy các phạm nhân tại trại tạm giam Quảng Ninh - Bộ Công An nhiễm HIV tập trung chủ yếu là phạm nhân nam chiếm 94,6%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của Hà Thị Lãm tại huyện Kiến Xương và thành phố Thái Bình thấy rằng tỷ lệ nam chiếm 93,5%, nữ giới chiếm 6,5%. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi thì tỷ lệ nhiễm HIV trên nhóm nữ (14.3%) cao hơn nhóm nam giới (2,2%). Có thể lý giải sự khác nhau này là do đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là đối tượng NCMT, nữ giới ngoài TCMT còn là đối tượng mại dâm nên tỷ lệ nhiễm HIV ở nữ cao hơn nam
4.2.4 Nhiễm theo học vấn. 
 Theo kết quả của bảng 3.4 đối tượng NCMT có trình độ văn hóa cấp 1 và cấp II 
chiếm tỷ lệ 58,2% cao hơn so với tỷ lệ trình độ văn hóa cấp 3 hoặc cao hơn (41.8%)
Về tỷ lệ nhiễm HIV trong các nhóm trình độ văn hóa cấp 1,2 (2.7%) cao hơn nhóm cấp 3 (1.4%). Hai kết quả này cho thấy đối tượng TCMT phần nhiều ở trình độ văn hóa thấp. 
 Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thành Quang “Tìm hiểu một số yếu tố tác động đến nguy cơ lây nhiễm HIV tại Trung tâm 05, 06 thành phố Hà Nội” Nghiên cứu các đối tượng nghiện chích ma túy tại trung tâm 05->06 của Hà Nội thấy nhóm này có học vấn thấp trung học cơ sở trở xuống chiếm 72,6%, trình độ cao hơn chỉ có 22,7%. [13].
4.2.5. Nhiễm theo dịa dư
Bảng 3.5 cho thấy tỷ lệ NCMT của các khu vực thì có sự khác biệt, chủ yếu nhóm TCMT là ở nông thôn chiếm tỷ lệ cao nhất ( 89.5%) và thành thị tỷ lệ thấp hơn (8.8% ), các đối tượng ở tỉnh khác có tỷ lệ thấp nhất (1.7% ).Như vậy các đối tượng NCMT đến xét nghiệm phần lớn là ở nông thôn
Trong số các đối tượng nhóm tỉnh khác có tỷ lệ nhất nhưng tỷ lệ HIV(+) lại cao nhất tiếp đến là các đối tượng ở thành thị tỷ lệ HIV(+) là 4.4%. Tỷ lệ HIV(+) chung trên nhóm nông thôn thấp nhất 1.7%. 
4.2.6 Nhiễm theo hôn nhân
Bảng 3.6 cho thấy về tỷ lệ phân bố của nhóm đối tượng đã kết hôn là cao hơn cả (49.6%), sau đó là nhóm đối tượng chưa kết hôn (26%) và cuối cùng là nhóm đã ly hôn, ly thân, hóa hôn (24.4%). Điều này là phù hợp với nghiên cứu của Hoàng Thị Bích Việt trên các đối tượng NCMT tại thành phố Hạ Long
4.2.7. Nhiễm theo nghề nghiệp
Phần lớn các ĐTNC khi được hỏi về nghề nghiệp điều trả lời không có việc ổn định, hoặc là thất nghiệp. Và tỷ lệ này ở nhóm không có việc ổn định và thất nghiệp là 52.2 % và 30.5% và tỷ lệ HIV(+) cũng chủ yếu tập trung chủ yếu trong 2 nhóm đối tượng này (13.3% và 2.3%), kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của Hoàng Huy Phương trên nhóm nghiện chích ma tuý tỉnh Ninh Bình năm 2014, tỷ lệ nhiễm HIV tập chung ở nhóm không có việc ổn định.
4.3. Kiến thức và một số yếu tố liên quan đến tình trạng nhiễm HIV của đối tượng nghiện chích ma túy đã đến xét nghiệm tại Phòng tư vẫn xét nghiệm tự nguyện tại trung tâm y tế Huyện Quảng Xương.
4.3.1. Kiến thức và cách phòng chống HIV/AIDS.
Kết quả điều tra của chúng tôi cho thấy số đối tượng biết cách phòng chống HIV/AIDS chưa cao, dùng riêng BKT hoạc khử trùng dụng cụ tiêm chích trước khi dùng 96,2%, không quan hệ tình dục thiếu an toàn 47,3%, truyền máu an toàn chiêm 46,1%, luôn dùng bao cao su khi qua hệ tình dục không an toàn 45,6%, không sinh con khi bị nhiễm HIV/AIDS 44,3%, sống chung thuỷ 37,2%, kỳ thị, phân biệt, sống cách ly người nhiễm HIV/AIDS 34,6%, không biết 30,7%, và tránh muỗi, côn trùng đốt 18,6%, vẫn còn hơn 1/3 đối tượng được phỏng vấn trả lời sai về cách phòng chống và kỳ thị, phân biệt đối với người nhiễm HI/AIDS. Từ kết quả trên chúng tôi thấy ĐTNC thuộc nhóm ĐT nguy cơ cao, trình độ văn hoá thấp nên khả năng lây nhiễm bệnh ra cộng đồng rất lớn vì vậy cần có biện pháp thông tin, truyền thông giáo dục nhóm nhỏthích hợp để tất cả người NCMT được tiếp cận cách phòng chống HIV/AIDS. 
4.3.2. Kiến thức đường lây.
Qua điều tra nghiên cứu về đường lây truyền HIV/AIDS của đối tượng NCMT có hơn 90% trả lời đúng về 3 đường lây nhiễm HIV đó là lây qua đường mẹ truyền cho con 91.4%, qua đường máu 94.7%,lây qua đường tình dục 90.4%, đáng chú ý vẫn còn tỷ lệ khá cao đối tượng nghiện chích ma túy hiểu sai về đường lây nhiễm HIV như, ôm hôn 28.5%, muỗi đốt 3.5%, ăn, ở chung với người nhiễm HIV 33.4%, không biết 2.3%,chỉ có 2.9% cho rằng bắt tay có thể lây nhiễm HIV. Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả thấp hơn nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Bình và CS trên phạm nhân tại trại giam Quảng Bình - Bộ công an năm 2014 [12] về tỷ lệ bệnh nhân có hiểu biết đúng về 3 đường lây truyền HIV là 59,8%. 
4.3.3. Liên quan với tình trạng hôn nhân. 
Về mối liên quan với tình trạng hôn nhân (Bảng 3.7) cho thấy tỷ lệ xét nghiệm HIV cao nhất ở những đối tượng đã kết hôn 49.6% ,hai nhóm chiếm tỷ lệ tương tự nhau là nhóm chưa kết hôn (26% ) và nhóm ly hôn và góa (24.4%). 
 Nhóm NCMT đã kết hôn, xây dựng gia đình bị lôi cuốn vào NCMT cao là điều đáng lo ngại vì điều này gây ra gánh nặng cho gia đình họ về mọi mặt và nguy cơ lây truyền HIV cho vợ con họ cũng sẽ cao hơn. Do vậy gia đình cũng như cộng đồng có vai trò trong việc giúp người NCMT phòng lây nhiễm HIV, từ đó các chương trình can thiệp bên cạnh việc tập trung vào người nghiện chích ma túy cần quan tâm đến yếu tố gia đình.
4.3.4. Lý do đến dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện của đối tượng.
Về lý do đến dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện của các đối tượng (Bảng 3.12), 100% các đối tượng đến với dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện đều với lý do là có hành vi nguy cơ cao của bản thân như TCMT, hành nghề mại dâm, là khách hàng của mại dâm, hoặc là người có nhiều bạn tình. Không đối tượng nào đến với các lý do khác như: bạn tình của người nhiễm HIV, bạn tình của người tiêm chích ma túy, mại dâm, người có nhiều bạn tình, khách hàng của mại dâm, hay được khuyến cáo bởi nhân viên y tế, bị tai nạn, hoặc tiếp xúc thông thường với người nhiễm HIV. Điều đó chứng tỏ đa số người nghiện chích ma túy đã có điều kiện tiếp cận với các thông tin và các dịch vụ phòng chống HIV/AIDS và họ muốn biết về nguy cơ nhiễm HIV của bản thân.
 Trong tổng số các đối tượng, tỷ lệ nhiễm HIV(+) chiếm 2.2%; 97.8% có kết quả HIV (-). Nếu những người nghiện chích ma túy không xét nghiệm thì họ không biết gì về trạng thái nhiễm của họ vì thế họ không thể bắt đầu điều trị và không có hành vi tiêm chích và quan hệ tình dục an toàn để bảo vệ bạn tình của họ. Do đó công tác giáo dục truyền thông cần tăng cường hơn nữa để người nghiện chích ma túy biết được lợi ích của việc xét nghiệm HIV, nơi họ có thể đến xét nghiệm cũng như những quyền lợi mà họ được hưởng khi đến xét nghiệm.
4.3.5. Đánh giá nguy cơ lây truyền HIV của bản thân đối tượng.
Khi tự đánh giá nguy cơ của bản thân (Bảng 3.12), các đối tượng có nguy cơ từ tiêm chích ma túy chiếm tỷ lệ cao nhất 100%, có 16.8% đối tượng có nguy cơ từ quan hệ tình dục với nhiều người,có 1.6% mại dâm và 1.2% tình dục đồng giới. Như vậy trong số TCMT có một số đối tượng có cùng hai nguy cơ cả TCMT và tình dục với nhiều người hay đồng thời cả mại dâm và quan hệ đồng giới, những đối tượng này nguy cơ nhiễm HIV rất cao.
 4.3.6. Liên quan giữa tình trạng nhiễm HIV với việc có bạn tình của đối tượng 
 Theo kết quả của (bảng 3.14) có 96.7% có bạn tình, số không có bạn tình chiếm tỷ lệ tấp hơn nhiều (0.3%) . Điều này cho thấy nguy cơ lây truyền qua con đường tình dục là rất lớn. Những đối tượng NCMT có HIV (+) rất dễ lây truyền cho
bạn tình của mình nếu quan hệ tình dục không an toàn. 
4.3.7. Liên quan giữa tình trạng nhiễm HIV vối số lượng bạn tình của ĐT trong vòng 30 ngày qua.
Theo kết quả của (bảng 3.17) về số lượng bạn tình quan hệ trong vòng 30 ngày qua, tỷ lệ có từ 1 bạn tình cao nhất (56.5%) số có trên 1 trở lên bạn tình chiếm 38.6%. Như vậy những đối tượng TCMT lại còn một nguy cơ cho bản thân và cho cộng đồng từ việc có bạn tình hoặc nhiều bạn tình. Như theo nghiên cứu của Đào Thị Minh An và CS về hành vi và nguy cơ lây nhiễm HIV ở người NCMT cho cộng đồng cho thấy về đặc điểm hành vi nguy cơ trong tình dục ở người NCMT 6 tháng trước phỏng vấn 8,7% với người NCMT; 19,7% quan hệ tình dục với gái mại dâm; 12,6% quan hệ tình dục với bạn tình thoáng qua và 21,3% có hai hoặc hơn hai bạn tình. Cũng theo nghiên cứu của nhóm tác giả này, NCMT là nhóm đối tượng luôn luôn thay đổi bạn tình kể cả bạn tình chính được hiểu là vợ hay người yêu, do điều kiện lang thang và không ổn định [12]. 
4.3.8. Liên quan giữa tình trạng nhiễm HIV với số lần tiêm chích ma túy có dùng chung dụng cụ tiêm chích của đối tượng trong vòng 7 ngày trước thời điểm nghiên cứu. 
Đại đa số không sử dụng chung BKT 97.1% vẫn còn tỷ lệ nhỏ 2.9% có sử dụng BKT (bảng 3.21). Đây là một hành vi nguy cơ vô cùng nguy hiểm vì nguy cơ lây nhiễm HIV qua đường máu là rất cao >90%. Như vậy, các chương trình can thiệp cần tập trung hơn nữa vào việc chuyển đổi hành vi cho người nghiện chích ma túy như cung cấp đầy đủ bơm kim tiêm, đưa bơm kim tiêm đến được với người nghiện chích ma túy và một điều vô cùng quan trọng đó là tạo môi trường hỗ trợ để họ có thể thực hiện hành vi tiêm chích an toàn. Tỷ lệ dùng chung BKT ở nghiên cứu này thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của Lê Ngọc Yến và CS cho thấy người nghiện chích ma túy dùng chung BKT với tỷ lệ 57,1% [12]. Theo nghiên cứu của Đào Thị Minh An và CS,NCMT 6 tháng trước khi vào trung tâm giáo dục lao động xã hội 1 có 7,7% cho mượn BKT, 11,4% chung BKT; 22,2% sẻ thuốc; 41,8% chích tại tụ điểm và 20,9% có đồng thời hoặc hơn hai hành vi. [12] 
4.3.9. Tỷ lệ đối tượng có làm xét nghiệm HIV
Trong số các đối tượng đến tư vấn xét nghiệm tự nguyện có 512 đối tượng ứng với 100% đồng ý làm xét nghiệm HIV (bảng 3.11). Các đối tượng làm xét nghiệm có ghi tên chiếm tỷ lệ 100% điều này cho thấy tâm lý sự phân biệt đối xử của cộng đồng đối với người bị nhiễm HIV và gia đình người bị nhiễm đã giảm đi nhiều không còn ám ảnh trong họ. Điều này cho thấy các đối tượng đã được tuyên truyền, truyền thông tốt không sợ sự kỳ thị, xa lánh của gia đình và xã hội đối với người nhiễm HIV, góp phần vào công tác phòng chống HIV có hiệu quả.
4.3.10. Đối tượng nghiện ma tuý giới thiệu bạn tình đến làm xét nghiệm.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ đối tượng không giới thiệu bạn tình đến xét 
nghiệm chiếm 75,8% và 24.2% đối tượng giới thiệu bạn tình đến tư vấn xét nghiệm
 Điều này cho thấy ý thức trách nhiệm của đối tượng này đối với bản thân và cộng đồng về phòng tránh lây nhiễm HIV còn hạn chế. Kết quả này của chúng tôi cũng cao hơn kết quả nghiên cứu của Đoàn Chí Hiển và cộng sự, tỷ lệ đối tượng có giới thiệu bạn chích đến xét nghiệm là 0,5% [12] 
 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1 Kết luận
1.1. Thực trạng nhiễm HIV của những đối tượng nghiện chích ma túy đã đến tư vấn xét nghiệm tại phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện trung tâm y tế Huyện Quảng Xương năm 2017.
-Tỷ lệ nhiễm HIV chung của nhóm đối tượng NCMT xét nghiệm tại trung tâm là 2.2%.
Trong đó:
- Theo nhóm tuổi nhóm tuổi 20 -> 29 tuổi chiếm 52.3 % nhóm 30 - 39 tuổi chiếm 36.3%, còn lại là các nhóm tuổi khác, giới nam chiếm 98.6% giới nữ chỉ chiếm 1.4%.
- Theo trình độ học vấn: cấp 1 và cấp 2 chiếm tỷ lệ 58.2% cao hơn so với tỷ lệ trình độ văn hóa cấp 3 hoặc cao hơn (41.8%)
- Theo hôn nhân: Trong số NCMT chưa kết hôn chiếm tỷ lệ 26% đã kết hôn (49.6%) và li hôn góa là 24.4%)
1.2- Kiến thức và một số yếu tố liên quan đến tình trạng của đối tượng nghiện chích ma túy đã đến tư vấn xét nghiệm tại phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện trung tâm y tế Huyện Quảng Xương .
- Tỷ lệ nhiễm HIV cao ở đối tượng đã li hôn, li thân, góa là 3.8, tỷ lệ nhiễm tương đối cao ở nhóm đã kết hôn là 2%, 
- 100% các đối tượng đến với dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện đều với lý do là có hành vi nguy cơ cao như TCMT, MD khách hàng của mại dâm, hoặc là người có nhiều hạn tình .
- Nguy cơ chiếm tỷ lệ cao nhất là TCMT với 100% có 16.6% đối tượng có nguy cơ từ việc có tình dục với nhiều người (không vì tiền) các đối tượng có nguy cơ khác với 1.6%. 
- Tỷ lệ đối tượng có bạn tình là 96.7% số không có bạn tình chiếm tỷ lệ 3.3% .Nhóm có bạn tình có nguy cơ nhiễm HIV với tỷ lệ 16.6% , nhóm bạn tình không có nguy cơ nhiễm chiếm tỷ lệ 83.4% 
- Trong số có bạn tình thì trong vòng 30 ngày qua số có 1 bạn tình chiếm 56.5%, có nhiều hơn 1 bạn tình chiếm tỷ lệ 36.6%
- Tỷ lệ không sử dụng chung BKT 97.1 %
- Số đối tượng giới thiệu bạn chích chung đi xét nghiệm có tỷ lệ là 54.8%
-Số đối tượng NCMt giới thiệu bạn tình đi xét nghiệm có tỷ lệ là 24.4%
2. Khuyến nghị
1- Nâng cao nhận thức về nguy cơ nhiễm HIV của người tiêm chích ma túy duy trì chương trình can thiệp giảm hại mở rộng hình thức cung cấp BKT cho người NCMT, tạo điều kiện cho đối tượng nghiện chích trên địa bàn Huyện được tiếp cận dịch vụ này nhằm giảm tỷ lệ dùng chung BKT trong TCMT, an toàn trong quan hệ tình dục.
2- Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục và thay đổi hành vi, phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS đến mọi tầng lớp nhân dân. Thông qua nhóm giáo dục viên đồng đẳng để mọi người, đặc biệt đối tượng NCMT dễ tiếp cận được các dịch vụ can thiệp dự phòng giảm tác hại HIV/AIDS.
3. Tiếp tục rà soát và vận động đối tượng nguy cơ cao như NCMT, vợ người NCMT, con người nhiễm HIV, gái mại dâm...đi xét nghiệm HIV định kỳ nhằm phát hiện sớm số đối tượng mắc mới để họ sớm được điều trị nhằm giảm gánh nặng cho bản thân người nhiễm, cho gia đình họ và giảm sự lây truyền ra cho cộng đồng giảm gánh nặng cho xã hội.
4. Tăng cường vận động các đối tượng nghiện chích ma túy đi điều trị Methadone, giảm tỷ lệ nghiện chích ma túy trên địa bàn Huyện nhằm giảm tỷ lệ lây truyền HIV, giảm các tệ nạn xã hội... trên địa bàn Huyện
5. Duy trì và củng cố hệ thống phòng TVXNTN, nâng cao chất lượng dịch vụ tư vấn về mọi mặt tạo niềm tin cho khách hàng sau tư vấn xét nghiệm.

File đính kèm:

  • docnghien_cuu_thuc_trang_nhiem_hiv_tren_doi_tuong_nghien_chich.doc