Nghiên cứu sản xuất thức ăn hỗn hợp tạo cua lột (scylla paramamosain) thương phẩm

Cua lột có giá trị dinh dưỡng cao, vỏ mềm và được nhiều người ưa chuộng ở Việt Nam. Chất lượng

nguyên liệu thức ăn và đặc điểm dinh dưỡng của cua trước và sau khi lột là những nền tảng cơ bản

trong việc nghiên cứu tạo thức ăn hỗn hợp cho việc sản xuất cua lột thương phẩm. Thức ăn nuôi

cua, nguyên liệu thức ăn và cua nguyên con trước và sau khi lột được phân tích thành phần sinh

hóa. Kết quả phân tích cho thấy cám gạo lau khô, cám chà và bột gan mực chứa hàm lượng béo cao

(16,15,17,64% và 13,78% tương ứng), trong khi thức ăn nuôi cua thương phầm tại vùng Cần Giờ

có hàm lượng dinh dưỡng khá thấp (protein: 17,22%; lipid: 6,56% và xơ: 10,76%). Ngoài ra, có sự

thay đổi về thành phần dinh dưỡng trong thân cua trước và sau khi lột, trong đó hàm lượng protein,

lipid của cua tăng đáng kể sau khi lột (protein: 44,1% vs 71,38%; lipid: 6,25% vs 13,66%) ngược

lại hàm lượng canxi và khoáng giảm rõ rệt (canxi: 14,69% vs 2,71%; khoáng: 43,55% vs 13,66%),

đặc biệt hàm lượng axit béo C18:1 và C18:2 tăng mạnh (2,76% và 3.98 %) so với giai đoạn trước

khi lột (0,44% và 0,10%).

Nghiên cứu sản xuất thức ăn hỗn hợp tạo cua lột (scylla paramamosain) thương phẩm trang 1

Trang 1

Nghiên cứu sản xuất thức ăn hỗn hợp tạo cua lột (scylla paramamosain) thương phẩm trang 2

Trang 2

Nghiên cứu sản xuất thức ăn hỗn hợp tạo cua lột (scylla paramamosain) thương phẩm trang 3

Trang 3

Nghiên cứu sản xuất thức ăn hỗn hợp tạo cua lột (scylla paramamosain) thương phẩm trang 4

Trang 4

Nghiên cứu sản xuất thức ăn hỗn hợp tạo cua lột (scylla paramamosain) thương phẩm trang 5

Trang 5

Nghiên cứu sản xuất thức ăn hỗn hợp tạo cua lột (scylla paramamosain) thương phẩm trang 6

Trang 6

Nghiên cứu sản xuất thức ăn hỗn hợp tạo cua lột (scylla paramamosain) thương phẩm trang 7

Trang 7

Nghiên cứu sản xuất thức ăn hỗn hợp tạo cua lột (scylla paramamosain) thương phẩm trang 8

Trang 8

pdf 8 trang minhkhanh 5700
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu sản xuất thức ăn hỗn hợp tạo cua lột (scylla paramamosain) thương phẩm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu sản xuất thức ăn hỗn hợp tạo cua lột (scylla paramamosain) thương phẩm

Nghiên cứu sản xuất thức ăn hỗn hợp tạo cua lột (scylla paramamosain) thương phẩm
59TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT THỨC ĂN HỖN HỢP TẠO CUA LỘT
(Scylla paramamosain) THƯƠNG PHẨM
Lê Hoàng1*, Nguyễn Thành Trung1, Trần Thị Lệ Trinh1, Nguyễn Văn Nguyện1
TÓM TẮT
Cua lột có giá trị dinh dưỡng cao, vỏ mềm và được nhiều người ưa chuộng ở Việt Nam. Chất lượng 
nguyên liệu thức ăn và đặc điểm dinh dưỡng của cua trước và sau khi lột là những nền tảng cơ bản 
trong việc nghiên cứu tạo thức ăn hỗn hợp cho việc sản xuất cua lột thương phẩm. Thức ăn nuôi 
cua, nguyên liệu thức ăn và cua nguyên con trước và sau khi lột được phân tích thành phần sinh 
hóa. Kết quả phân tích cho thấy cám gạo lau khô, cám chà và bột gan mực chứa hàm lượng béo cao 
(16,15,17,64% và 13,78% tương ứng), trong khi thức ăn nuôi cua thương phầm tại vùng Cần Giờ 
có hàm lượng dinh dưỡng khá thấp (protein: 17,22%; lipid: 6,56% và xơ: 10,76%). Ngoài ra, có sự 
thay đổi về thành phần dinh dưỡng trong thân cua trước và sau khi lột, trong đó hàm lượng protein, 
lipid của cua tăng đáng kể sau khi lột (protein: 44,1% vs 71,38%; lipid: 6,25% vs 13,66%) ngược 
lại hàm lượng canxi và khoáng giảm rõ rệt (canxi: 14,69% vs 2,71%; khoáng: 43,55% vs 13,66%), 
đặc biệt hàm lượng axit béo C18:1 và C18:2 tăng mạnh (2,76% và 3.98 %) so với giai đoạn trước 
khi lột (0,44% và 0,10%). 
Từ khóa: cua lột, cua biển, Scylla paramamosain, thức ăn hỗn hợp, nguyên liệu, thành phần hóa học.
1 Trung tâm công nghệ thức ăn và Sau thu hoạch thủy sản, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II.
* Email: 72hoang@gmail.com
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nuôi cua biển (Scylla spp) được nuôi rộng 
rãi ở nhiều nước trong khu vực Châu Á như 
Philippines, Indonesia, Myanmar, Ấn Độ, Nhật 
Bản, Thái Lan, Việt Nam (Keenan, 1999; FAO, 
2015). Cua biển có kích thước tương đối lớn, 
thịt nhiều, thơm ngon nên nó là đối tượng nuôi 
trồng thủy sản tiềm năng ở nhiều nơi trên thế 
giới (Keenan, 1999; Christensen và ctv., 2004; 
FAO, 2015).
Bên cạnh việc nuôi cua con thành cua thịt, 
nuôi cua gạch trong ao và lồng, việc nuôi cua lột 
cũng đang được quan tâm ở các nước như Thái 
Lan, Myanmar, Việt Nam, Malaysia, Indonesia 
(FAO, 2015). Cua biển (Scylla spp) thường 
được bán dưới dạng sống ngoại trừ cua lột. Giá 
cua phụ thuộc vào mùa vụ, kích cỡ, chất lượng 
cua, giới tính, tình trạng tuyến sinh dục. Cua 
sống thường được xuất khẩu sang Hồng Kông, 
Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan (FAO, 2015). 
Ngoài kích cỡ, giá của sản phẩm cua lột còn 
phụ thuộc vào tình trạng vỏ cua. Cua lột thường 
được tiêu thụ tại địa phương hoặc xuất bán sang 
Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, 
Đài Loan, Mỹ và Châu Âu (FAO, 2015).
Ghẹ xanh (Portunus pelagicus) là sản phẩm 
được ưa chuộng trên thị trường thế giới do thành 
phần dinh dưỡng cao, đặc biệt là hàm lượng 
canxi và phospho cao, dễ hấp thụ (Nguyễn Thị 
Bích Thuý và ctv., 2004). Bên cạnh việc chứa 
hàm lượng protein và khoáng cao, thịt cua lột 
còn chứa nhiều loại axit amino cần thiết cho 
cơ thể (Sudhakar và ctv., 2009). Giá của sản 
phẩm cua (Portunidae) có vỏ mềm có thể bán 
cao hơn gấp 7 lần so với giá của sản phẩm cua 
có vỏ cứng (Wickins và Lee, 2002; Tavares và 
ctv., 2017). Sự chênh lệch giá hai sản phẩm này 
là mối quan tâm của các nhà quản lý và kinh 
doanh thủy sản cũng như các nhà nghiên cứu 
với mục đích tạo ra công nghệ sản xuất cua lột 
đạt hiệu quả kinh tế cao. 
Ở Việt Nam, cua biển (Scylla spp.) được 
nuôi từ những năm 1990 chủ yếu ở các tỉnh 
ven biển, với phương thức nuôi trong ao hoặc 
nuôi chung với tôm và cá, cho ăn thức ăn tươi 
từ còng và cá tạp xay nhỏ (Christensen và ctv., 
60 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
2004), hoặc cho ăn theo nhiều giai đoạn sử dụng 
thức ăn của tôm cho giai đoạn đầu và thức ăn 
ít đạm cho giai đoạn thương phẩm. Hiện nay, 
nghề nuôi cua biển (Scylla spp) đã phát triển 
rộng ra nhiều tỉnh ven biển từ Quảng Ninh cho 
tới Cà Mau. Tuy vậy, một trong những khó khăn 
chính của người nuôi hiện nay là thức ăn, nhất là 
đối với thức ăn cho cua lột.
Vì vậy, để nghề nuôi cua trở thành một 
ngành công nghiệp bền vững, cần có chiến lược 
phát triển sản xuất thức ăn công nghiệp nuôi 
cua, bắt đầu với các nghiên cứu từ dinh dưỡng 
tới xây dựng công thức và công nghệ sản xuất 
thức ăn công nghiệp cho cua ở các giai đoạn 
trong vòng đời của chúng, trong đó có giai đoạn 
lột vỏ. Thức ăn viên có lợi thế về việc chủ động 
được thành phần dinh dưỡng, tiện dụng, thời 
gian bảo quản lâu và dễ bổ sung thêm thuốc hay 
vitamin.
Đối với cua biển (Scylla spp.) đã có nhiều 
công trình nghiên cứu về dinh dưỡng nuôi cua 
biển và cua biển lột vỏ (Rodriguez và ctv., 
2001; Catacutan và ctv., 2003; Christensen và 
ctv., 2004; Trần Ngọc Hải và ctv., 2006; Tuan 
và ctv., 2006; Ut và ctv., 2007; Nguyen và ctv., 
2014). Tuy nhiên chưa có nhiều công bố về xây 
dựng công thức thức ăn để tạo sản phẩm cua lột 
thương phẩm. 
Cho đến nay thức ăn dùng cho nuôi cua lột 
rất hạn chế. Ở Việt Nam, người nuôi chủ yếu 
vẫn sử dụng cá tạp, nhuyễn thể nhỏ (Trung tâm 
khuyến nông Tp. HCM 2015). Khi nguồn thức 
ăn tự nhiên khan hiếm, người nuôi thường phải 
dùng thức ăn nuôi tôm để nuôi cua, vừa lãng 
phí vừa không phù hợp về dưỡng chất cũng như 
với tập quán bắt mồi của cua. Để kích thích ghẹ 
xanh (Portunus pelagicus) lột, Nguyễn Thị Bích 
Thủy và ctv., 2004 đã dùng các sản phẩm chứa 
saponin, chitosan nhưng tỷ lệ thành công không 
cao và cơ chế tác dụng chưa rõ ràng. Hiện tại, 
trên thị trường chưa thấy có sản phẩm thức ăn 
tin cậy dùng để kích thích cua biển lột xác. 
Việc nghiên cứu nâng cao hiệu suất lột vỏ 
và tỷ lệ lột vỏ đồng loạt là rất cần thiết, đặc biệt 
việc tạo ra thức ăn có khả năng kích lột vỏ đồng 
loạt giúp người nuôi chủ động trong quản lý, 
giảm thiểu công lao động, hiệu quả cao, tăng 
năng suất, tiến tới công nghiệp hoá, chuyên môn 
hoá nghề nuôi cua lột. Thông tin về nhu cầu 
di ... enaud, 1949). Dự trữ 
lipid một phần được biến đổi thành glycogen 
rồi thành glucose được sử dụng trong việc tạo 
thành chitin, một thành phần trong vỏ cua và 
cung cấp năng lượng cho quá trình lột xác. Hàm 
lượng cholesterol gia tăng nhanh chóng lúc lột 
xác, từ 22 mg lên đến 70 mg/100g trọng lượng 
cua C.pagurus (Renaud, 1949). Cholesterol là 
một sterol động vật rất quan trọng, là tiền chất 
của nhiều phức hợp sinh lý như hormone giới 
tính, hormone lột vỏ, corticoid thượng thận, 
axit mật và vitamin D (Teshima và Kanazawa 
1971, Sheen 2000). Hầu hết các động vật có thể 
tổng hợp sterol này từ acetate (muối của axit 
axetic với một kiềm) ngoại trừ các loài giáp xác 
(Teshima và Kanazawa 1971). Protein là một 
thành phần cần thiết của các chất dự trữ hữu cơ 
tích lũy trong gan tụy ở giai đoạn lột xác, gần 
70% nitơ protein của cua Cancer pagurus ở giai 
đoạn lột xác được dùng để tổng hợp nên protein 
vỏ (Passano, 1960). 
Lựa chọn nguyên liệu thích hợp để phối chế 
thức ăn cho cua lột cần phải hội đủ các điều kiện 
cơ bản là đáp ứng nhu cầu về dinh dưỡng cho giai 
đoạn lột xác, giá thành và tính sẵn có của nguyên 
liệu. Các nguồn nguyên liệu cung cấp protein có 
nguồn gốc thuỷ sản như phụ phẩm chế biến thuỷ 
sản, bột cá, bột mực, bột nhuyễn thể thường 
được động vật thủy sản (loài ăn thịt) trong đó 
có cua sử dụng hiệu quả hơn nguồn protein thực 
vật (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 
2009). Tuy nhiên, nguồn cung bột cá ngày càng 
khan hiếm, giá thành ngày càng tăng nên giá 
thành thức ăn cũng tăng cao, làm ảnh hưởng đến 
hiệu quả kinh tế của người nuôi. Do đó cần phải 
tìm nguồn nguyên liệu thay thế đáp ứng được 
nhu cầu dinh dưỡng của vật nuôi đồng thời bảo 
đảm nguồn cung dồi dào, bền vững và giá cả 
hợp lý. Các nguồn nguyên liệu thay thế thường 
được sử dụng trong thức ăn thủy sản là: phụ 
phẩm của ngành chế biến thực phẩm, giết mổ và 
các nguyên liệu có nguồn gốc thực vật. Nhóm 
protein thực vật hiện nay được sử dụng nhiều 
trong thức ăn thuỷ sản với mục đích thay thế 
nguồn protein bột cá, nhằm giảm giá thành thức 
ăn. Nguồn cung cấp protein có nguồn gốc thực 
vật rất phong phú như khô dầu đậu nành, các 
loại khô dầu khác và gluten cùng với giá thành 
thấp rất nhiều so với các nguyên liệu có nguồn 
gốc thủy sản. Nhiều nghiên cứu trên cua bùn 
(Scylla sp.) cho thấy hiệu quả sử dụng nguyên 
liệu thực vật cuả cua bùn rất cao với độ tiêu 
hóa thức ăn trên 85% (Azra và Ikhwanuddin, 
2016; Nguyen và ctv., 2014; Catacutan và ctv., 
2003). Sử dụng nguyên liệu thực vật trong sản 
xuất thức ăn nuôi cua lột sẽ mang lại hiệu quả 
về mặt kinh tế, giúp giảm giá thành thức ăn, 
giảm chi phí cho người nuôi. Tuy nhiên, một số 
vấn đề cần lưu ý khi sử dụng protein thực vật 
trong thức ăn cho cua liên quan đến hàm lượng 
acid amin và tính cân bằng acid amin, đặc biệt 
là lysine và methionine, làm giảm tăng trưởng 
của đối tượng nuôi (Wilson 1989; Floreto và 
ctv., 2000) . Hơn thế nữa, mùi của đạm thực vật 
thường không hấp dẫn (Lim và Dominy, 1990) 
và khả năng tiêu hóa carbohydrate của loài thủy 
sản ăn thịt khá thấp (NRC, 2011; Arockiaraj và 
ctv., 1999). Bột phụ phẩm gia cầm (PGC), bột 
lông vũ và bột lông vũ thủy phân được xem như 
nguồn nguyên liệu nhiều tiềm năng thay thế 
trong thức ăn cho cua lột với hàm lượng protein 
cao (khoảng 58 –80%) và hàm lượng tro tương 
đối thấp (3-8%). Mặc dù PGC có hàm lượng 
acid amin thấp hơn so với bột cá nhưng có thể 
bổ sung bằng các nguồn acid amin hoặc protein 
động vật có hàm lượng protein cao khác như 
bột huyết... nhằm tăng hiệu quả sử dụng protein, 
giảm hệ số chuyển đổi thức ăn và thúc đẩy tăng 
trưởng. PGC chứa khoảng 10% chất béo đó là 
nguồn cung cấp năng lượng tiêu hóa quan trọng 
cho cua lột. 
Nhiều nghiên cứu cho thấy dầu thực vật có 
thể thay thế đến 50% dầu cá tuyết trong khẩu 
phần thức ăn cua bùn (S. serrata) (Alava và 
ctv., 2007; Ali và ctv., 2011). Do đó cần nghiên 
cứu bổ sung nhóm các nguyên liệu cung cấp 
lipid có nguồn gốc thực vật như dầu lanh, dầu 
cọ, dầu đậu nành và dầu cám chà (bảng 4) trong 
thức ăn cho cua lột. Trong đó, nhóm cung cấp 
lipid có chứa mạch carbon C18:0, C18:1 và 
64 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
C18:2 (1,6; 39,1 và 33,4 g/100g) ở dầu cám có 
tỷ lệ cao (Nguyễn Công Khẩn và Hà Thị Anh 
Đào, 2007). Nghiên cứu của (Sheen và Wu, 
1999) cho thấy khi tỷ lệ trộn dầu cá và dầu 
bắp theo tỉ lệ (2:1) vào thức ăn từ 5,3% đến 
13% cho tần suất cua lột cao hơn so với thức ăn 
không bổ sung lipid tương ứng với 3,6 lần lột 
so với 2,8 lần lột, trong 63 ngày nuôi, tỷ lệ C16 
(g/100g) trong axit béo thành phần từ 12-13%, 
C18:0 chiếm khoảng 2,5%, C18:1 khoảng 
25,5% và C18:2 khoảng từ 25,6% đến 28,8%. 
Catacutan và ctv., 2003 cho rằng cua (Scylla 
serrata) có khả năng tiêu hóa dầu thực vật tốt 
hóa hơn dầu mỡ động vật, do đó việc chọn lựa 
nguyên liệu như cám chà có hàm lượng lipid 
cao là việc cần lưu ý trong lập khẩu phần thức 
ăn cho cua lột. 
IV. KẾT LUẬN
Cua lột có chỉ số sinh hoá về protein, lipid 
cao hơn ở cua thịt. Các chỉ số về thành phần axit 
béo cũng cho thấy ở cua lột cao hơn ở cua thịt ở 
axit béo có mạch cacbon cao (C18:1 và C18:2) 
Thức ăn nuôi cua hiện đang sử dụng chưa 
đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng cho cua 
thương phẩm.
Một số nguyên liệu sẵn có như cám chà, cám 
gạo lau ướt, cám gạo lau khô, bột lông vũ, có 
thành phần dinh dưỡng có khả năng sử dụng làm 
nguồn thức ăn cho cua lột thương phẩm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Công Khẩn, Hà Thị Anh Đào, 2007. Bảng 
thành phần thực phẩm Việt Nam – Vietnamese 
food composition table., Nhà xuất bản Y học.
Nguyễn Thị Bích Thuý, Đinh Tấn Thiện, Lê Minh 
Vương, Nguyễn Ngọc Hà, Lê Văn Chí, Nguyễn 
Xuân Nam, Lê Vịnh, 2004. Nghiên cứu phương 
pháp kích thích đồng loạt lột xác ghẹ xanh 
(Portunus pelagicus) thương phẩm. Trung Tâm 
Nghiên Cứu Thủy Sản III.
TCVN 1525:2001. Thức ăn chăn nuôi. Xác định 
hàm lượng Phospho. Phương pháp quang phổ.
TCVN 4326:2001 (ISO 6496:1999). Thức ăn chăn 
nuôi. Xác định độ ẩm và hàm lượng chất bay hơi 
khác.
TCVN 1526-1:2007. Thức ăn chăn nuôi. Xác định 
hàm lượng canxi. Phần 1 - Phương pháp chuẩn 
độ
TCVN 4327:2007. Thức ăn chăn nuôi. Xác định tro 
thô
TCVN 4328-1:2007. Thức ăn chăn nuôi. Xác định 
hàm lượng nitơ và tính hàm lượng protein thô. 
Phần 1 - Phương pháp kjeldahl.
TCVN 4329:2007 (ISO 06865:2000). Thức ăn chăn 
nuôi. Xác định hàm lượng xơ thô. Phương pháp 
có lọc trung gian.
Trần Ngọc Hải, Nguyễn Thanh Phương, Nguyễn 
Anh Tuấn, Phạm Minh Đức, 2006. Nuôi cua lột 
(Scylla sp.) trong hệ thống tuần hoàn với các loại 
thức ăn và mật độ khác nhau. Tạp chí Nghiên cứu 
Khoa học - Trường Đại học Cần Thơ, 159-170.
Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009. 
Dinh dưỡng và thức ăn thủy sản. Nhà xuất bản 
Nông nghiệp. 191 trang.
Trung tâm khuyến nông Tp. HCM, 2015. Nuôi cua 
biển thương phẩm từ nguồn giống nhân tạo. Tài 
liệu khuyến nông – Sở Nông nghiệp và Phát triển 
nông thôn TP. Hồ Chí Minh.
Alava, V. R., Quinitio, E. T., De Pedro, J. B., Priolo, 
F. M. P., Orozco, Z. G. A., and Wille, M., 2007. 
Lipids and fatty acids in wild and pond-reared 
mud crab Scylla serrata (Forsskål) during 
ovarian maturation and spawning. Aquaculture 
Research Vol. 38, 1468–1477.
Ali, S. A., Dayal, J. S., and Ambasankar, K., 2011. 
Presentation and evaluation of formulated feed 
for mud crab Scylla serrata. Indian Journal of 
Fisheries, 58(2), 67–73.
AOAC, 2000. Official methods of analysis. 
(996.06) Fat (total, saturated, unsaturated, and 
monounsaturated) in foods; hydrolytic extraction 
gas chromatographic method (17th ed.). USA: 
AOAC International.
AOAC, 2000. Official methods of analysis. (920.39) 
Crude Fat or Ether Extract: Animal Feeds. (17th 
ed.). AOAC International, Gaithersburg, MD.
Arockiaraj, J., Muruganandam, M., Marimuthu, 
K. & Haniffa, M.A., 1999. Utilization of 
carbohydrates as a dietary energy source by 
striped murrel (Channa striatus) fingerlings. 
65TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Acta Zoologica Taiwanica 10, 103-111.
Azra, M.N. & Ikhwanuddin, M. 2016. A review 
of maturation diets for mud crab genus Scylla 
broodstock: Present research, problems and 
future perspective. Saudi Journal of Biological 
Sciences 23: 257-267.
Catacutan, M.R., Eusebio, P.S., Teshima, S.-i., 2003. 
Apparent digestibility of selected feedstuffs by mud 
crab, Scylla serrata. Aquaculture. 216, 253–261.
Christensen, S.M., Macintosh, D.J., Phuong, N.T., 
2004. Pond production of the mud crabs Scylla 
paramamosain (Estampador) and S. olivacea 
(Herbst) in the Mekong Delta, Vietnam, using 
two different supplementary diets. Aquaculture 
Research. 35, 1013-1024.
FAO, 2015. Fisheries and Aquaculture topics. 
Capture fisheries resources. Topics Fact Sheets. 
In: Fisheries and Aquaculture Department 
[online]. Rome. 
Floreto E.A., Bayer R.C. & Brown P.B., 2000. The 
effects of soybean-based diets, with and without 
amino acid supplementation, on growth and 
biochemical composition of juvenile American 
lobster, Homarus americanus. Aquaculture189, 
211–235.
Folch J, Lees, M, Stanley GHS. A simple method for 
the isolation and purification of total lipids from 
animal tissues. J Biol Chem. 1957; 226: 497-509.
Keenan, C.P., 1999. Aquaculture of the Mud Crab, 
Genus Scylla — Past, Present and Future. Mud 
crab aquaculture and biology. . in: Keenan, 
C.P., Blackshaw, A (Ed.), Proceedings of an 
international scientific forum held in Darwin, 
Australia,. ACIAR Proceedings No. 78, 216 p.
Lim, C. and Dominy, W. 1990. Evaluation of 
soybean meal as a replacement for marine animal 
protein in diets for shrimp (Penaeus vannamei). 
Aquaculture 87:53-63.
NRC (2011). National Research Council, Nutrient 
requirement of fish and shrimps.
National Academy Press, Washington.
Nguyen, N.T.B., Chim, L., Lemaire, P., Wantiez, L., 
2014. Feed intake, molt frequency, tissue growth, 
feed efficiency and energy budget during a molt 
cycle of mud crab juveniles, Scylla serrata (Forskål, 
1775), fed on different practical diets with graded 
levels of soy protein concentrate as main source of 
protein. Aquaculture. 434, 499-509.
Rodriguez, E., Quinitio, E., Parado-Estepa, F., 
Millamena, O., 2001. Culture of Scylla serrata 
Megalops in Brackishwater Ponds Asian 
Fisheries Science. 14, 185-189.
Sheen, S.-S., Wu, S.-W., 1999. he effects of dietary 
lipid levels on the growth response of juvenile mud 
crab Scylla serrata. Aquaculture. 175, 143–153.
Sudhakar, M., Manivannan, K., Soundrapandian, 
P., 2009. Nutritive Value of Hard and Soft Shell 
Crabs of Portunus sanguinolentus (Herbst). 
International Journal of Animal and Veterinary 
Advances. 1, 44-48.
Tavares, C.P.d.S., Silva, U.A.T., Pereira, L.A., 
Ostrensky, A., 2017. Systems and techniques 
used in the culture of soft-shell swimming crabs. 
Reviews in Aquaculture.
Teshima, S.I., Kanazawa, A., 1971. Biosynthesis 
of sterols in the lobster, Panulirus japonica, the 
prawn, Penaeus japonicus, and the crab, Portunus 
trituberculatus. Comparative Biochemistry and 
Physiology Part B: Comparative Biochemistry. 
38, 597-602.
Tuan, V.-a., Anderson, A., Luong-van, J., Shelley, C., 
Allan, G., 2006. Apparent digestibility of some 
nutrient sources by juvenile mud crab, Scylla 
serrata (Forskal 1775). Aquaculture Research. 
37, 359-365.
Ut, V.N., Le Vay, L., Nghia, T.T., Hong Hanh, T.T., 2007. 
Development of nursery culture techniques for the 
mud crab Scylla paramamosain (Estampador). 
Aquaculture Research. 38, 1563-1568.
Wickins, J.F., Lee, D.O.C., 2002. Crustacean-Farming-
Ranching-and-Culture. Blackwell Science.
Wilson R.P. (1989) Amino acids and proteins. 
In:Fish Nutrition(ed. by J.E. Halver), pp. 112–
151. Academic Press Inc., San Diego, CA, USA.
66 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
STUDY ON FORMULATED FEED FOR COMMERCIAL SOFT SHELL 
MUD CRAB PRODUCTION (Scylla paramamosain)
Le Hoang1*, Nguyen Thanh Trung1, Tran Le Trinh1, Nguyen Van Nguyen1
ABSTRACT
Soft - shell mud crab is a nutritious food and commonly consumed in Vietnam. The quality of feed 
ingredients and nutritional requirement of pre- and post-molt crabs are the essential fundament for 
development of the formulated feed for commercial soft shell mud crab production. Commercial 
crab feeds, feed ingredients and grow-out crabs in pre- and post-molt stage were sampled to 
investigate the chemical properties and nutrient composition. The studied results showed that fresh 
rice brans (full fat rice bran) and squid liver powder contained high fat content, respectively (16.15-
17.64% and 13.78%), on the contrary, the low nutrient content was recorded in the commercial crab 
feeds using for mud crab farming in Can Gio (protein: 17,22%; lipid: 6,56% and fiber: 10,76%). 
Furthermore, a great variation of nutrient characteristics of grow –out mud crabs before and after 
molting was found, in which protein and lipid content increased markedly after molting (44.1% vs. 
71.38%; 6.25% vs. 13.66%) while the content of calcium (14.69% vs. 2.71%) and ash (43.55% vs. 
13.66%) notably decreased. In particular, fatty acids of C18: 1 and C18: 2 in whole body of post- 
molting crab (2.76% and 0.44%) presented markedly higher content than those (3.98% and 0.10%) 
in the pre- molt crab.
Keywords: Commercial soft-shell crab production, mud crab, Scylla paramamosain, formulated 
feed, feed ingredients, chemical properties.
Người phản biện: TS. La Xuân Thảo 
Ngày nhận bài: 12/6/2018
Ngày thông qua phản biện: 30/6/2018
Ngày duyệt đăng: 10/7/2018
1 Research Center for Aqua-Feed Nutrition and Fishery Post-Harvest Technology, Research Institute for Aquaculture No.2
* Email: 72hoang@gmail.com

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_san_xuat_thuc_an_hon_hop_tao_cua_lot_scylla_param.pdf