Ngành nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies) lược sử hình thành và cách tiếp cận

Nếu như ở Việt Nam, tên gọi Văn hóa học đã trở nên quen thuộc, thì ngành Nghiên cứu văn hóa

(Cultural Studies) của phương Tây vẫn còn ít được biết đến. Bài viết này khái lược sự hình thành của

ngành Nghiên cứu văn hóa từ những khởi đầu trong giới học thuật Anh và sau đó được lan truyền,

phát triển và biến đổi khắp nơi trên thế giới. Là một lĩnh vực liên ngành, Cultural Studies dựa trên nhiều

lý thuyết và phương pháp của các ngành khác, nhưng được làm mới với sự quan tâm đặc biệt đến khía

cạnh quyền lực, diễn ngôn, hệ tư tưởng và chính trị của văn hóa

Ngành nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies) lược sử hình thành và cách tiếp cận trang 1

Trang 1

Ngành nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies) lược sử hình thành và cách tiếp cận trang 2

Trang 2

Ngành nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies) lược sử hình thành và cách tiếp cận trang 3

Trang 3

Ngành nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies) lược sử hình thành và cách tiếp cận trang 4

Trang 4

Ngành nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies) lược sử hình thành và cách tiếp cận trang 5

Trang 5

Ngành nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies) lược sử hình thành và cách tiếp cận trang 6

Trang 6

Ngành nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies) lược sử hình thành và cách tiếp cận trang 7

Trang 7

pdf 7 trang viethung 7580
Bạn đang xem tài liệu "Ngành nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies) lược sử hình thành và cách tiếp cận", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngành nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies) lược sử hình thành và cách tiếp cận

Ngành nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies) lược sử hình thành và cách tiếp cận
85Số 6 - Tháng 12 - 2013
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Văn hóa là chủ đề thu hút được sự quan tâm đặc biệt của nhiều ngành nghiên cứu như nhân học, lịch sử, 
xã hội học, địa lý nhân văn, văn học v.v.. và 
mỗi ngành khai thác văn hóa theo một khía 
cạnh khác nhau. Tuy nhiên, trong vài thập kỷ 
qua, thế giới đã hình thành thêm một ngành 
nghiên cứu mang tính liên ngành, vượt qua 
những ranh giới chuyên biệt về văn hóa - 
ngành Nghiên cứu Văn hóa (Cultural Studies). 
Các thuật ngữ “Nghiên cứu văn hóa” và 
“Văn hóa học” – với tư cách như một khoa 
học về văn hóa thường được quan niệm đồng 
nhất, nhưng trên thực tế, cách tiếp cận của hai 
ngành này không hoàn toàn giống nhau. Văn 
hóa học (Culturology) được sử dụng ở nước ta 
xuất phát từ tuyến học thuật của nước Nga Xô 
Viết, còn Nghiên cứu Văn hóa (Cultural Studies) 
lại là sản phẩm của khuynh hướng nghiên cứu 
của các nước Âu - Mỹ. Theo sự tổng hợp của 
Nguyễn Xuân Kính (12), giới nghiên cứu của 
Nga có nhiều định nghĩa về văn hóa học. Ví 
dụ, trong cuốn sách Văn hoá học, những bài 
giảng do A.A. Radughin chủ biên, xuất bản 
NGÀNH NGHIÊN CỨU VĂN HÓA 
(CULTURAL STUDIES) 
LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ CÁCH TIẾP CẬN
PHẠM QUỲNH PHƯƠNG
Tóm tắt 
Nếu như ở Việt Nam, tên gọi Văn hóa học đã trở nên quen thuộc, thì ngành Nghiên cứu văn hóa 
(Cultural Studies) của phương Tây vẫn còn ít được biết đến. Bài viết này khái lược sự hình thành của 
ngành Nghiên cứu văn hóa từ những khởi đầu trong giới học thuật Anh và sau đó được lan truyền, 
phát triển và biến đổi khắp nơi trên thế giới. Là một lĩnh vực liên ngành, Cultural Studies dựa trên nhiều 
lý thuyết và phương pháp của các ngành khác, nhưng được làm mới với sự quan tâm đặc biệt đến khía 
cạnh quyền lực, diễn ngôn, hệ tư tưởng và chính trị của văn hóa
Từ khóa: Nghiên cứu Văn hóa, hình thái, tiếp cận
Abstract
In Vietnam, Culturology has been familiar while Cultural Studies in the West has hardly been known. 
This paper features the development of Cultural Studies from the beginning with British academia 
and its spread and changes later to other parts of the world. Based on theories and methods of other 
disciplines, Cultural Studies is interdisplinary with focus on dimensions of power, discourse, ideology 
and politics of culture
Keyword: Cultural studies, types, approach
Số 6 - Tháng 12 - 201386
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
năm 1997 (13), X.N. Giarov cho rằng: “Văn hoá 
học là ngành khoa học nhân văn nghiên cứu 
bản chất, những quy luật tồn tại và phát triển 
của văn hoá, nghiên cứu ý nghĩa nhân bản của 
văn hoá và những phương pháp tìm hiểu văn 
hoá”. Còn A.A. Belik (3) xác định Văn hoá học 
có hai nghĩa: 1) Khoa học về những đặc điểm 
của sự phát triển, hoạt động và sản xuất các 
văn hoá, về các kiểu thức lịch sử của các văn 
hoá và các phương pháp nghiên cứu chúng; 
2) Lý thuyết văn hoá của L. White, một trong 
những phương thức nhận thức tính đa dạng 
văn hoá của loài người. Cũng như nhiều nhà 
nghiên cứu Việt Nam, Trần Ngọc Thêm khẳng 
định: “Với tư cách là một khoa học lý luận, văn 
hóa học có nhiệm vụ nghiên cứu văn hóa như 
một đối tượng riêng biệt trên cơ sở những tư 
liệu do các ngành khác cung cấp với mục đích 
phát hiện các đặc trưng, những qui luật hình 
thành và phát triển”(15,tr.49). Nhưng nội hàm 
của “Cultural Studies” của giới học thuật Âu Mỹ 
có những điểm khác. Theo McGuigan, Cultural 
Studies có ba khía cạnh: Thứ nhất, đó là sự tập 
hợp (hay một phong trào/làn sóng) của các ý 
tưởng mới mẻ trong lĩnh vực văn hóa. Thứ hai, 
đó là một dạng thiết chế, liên quan đến các 
bối cảnh lịch sử, sự hình thành và biến đổi của 
một ngành nghiên cứu. Thứ ba, thuật ngữ này 
mang hàm ý về tính chính trị của sự biểu đạt. 
Nói cách khác, Cultural Studies tìm hiểu cơ chế 
bao hàm và loại trừ, ai có quyền xác định các 
vấn đề và với mục đích gì (10, tr.29). Theo Berry 
và Epstein (5), một trong những điểm khác 
nhau cơ bản giữa Văn hóa học (Culturology) 
và Nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies) là sự 
quan tâm đặc biệt của ngành Nghiên cứu văn 
hóa đối với chính trị, quyền lực, hệ tư tưởng và 
truyền thông, trong khi Văn hóa học xác định 
văn hóa với tư cách là một tổng thể, thống 
nhất hữu cơ, không phụ thuộc vào tự nhiên 
và các mối quan hệ quyền lực. Theo các tác 
giả, văn hóa trong Cultural Studies luôn luôn 
thực hiện hai chức năng, vừa là đối tượng của 
nghiên cứu, vừa là nơi định vị của hoạt động và 
phê bình chính trị. 
Vậy sự hình thành cũng như cách tiếp cận 
và phương pháp của ngành Nghiên cứu văn 
hóa có gì đặc biệt so với các ngành khoa học 
xã hội và nhân văn? Bài viết này nhằm mục 
đích giới thiệu khái quát lịch sử hình thành 
ngành Nghiên cứu văn hóa ở phương Tây, 
cũng như những nét đặc trưng nhất của một 
ngành mới ra đời trong khoảng vài thập kỷ 
qua. Để làm rõ sự khác biệt với thuật ngữ Văn 
hóa học, tránh sự nhầm lẫn về nội hàm thuật 
ngữ cũng như phương pháp tiếp cận, trong 
bài viết này chúng tôi dùng “Nghiên cứu văn 
hóa” khi nói đến ngành Cultural Studies có nền 
tảng từ các nước Âu-Mỹ. Cũng để phân biệt với 
việc nghiên cứu văn hóa như một thực hành, 
ngành Nghiên cứu văn hóa sẽ được viết hoa.
Lược sử hình thành ngành Nghiên cứu văn 
hóa (Cultural Studies)
Cultural Studies là một lĩnh vực được khởi 
đầu trong giới học thuật Anh từ những năm 
sáu mươi của thế kỷ XX. Ngay từ đầu, nó đã là 
một lĩnh vực đa ngành/liên ngành, vượt qua 
những ranh giới chuyên biệt của các chuyên 
ngành có đối tượng nghiên cứu là văn hóa. 
Cũng có thể coi nó là một sự thử nghiệm 
học thuật đầu tiên trong một nỗ lực tạo ra 
một chuyên ngành không có chuyên ngành 
(‘non-disciplinary’ discipline), hay “hậu chuyên 
ngành” (postdisciplinarity) (2). 
Sự hình thành của ngành gắn liền với trào 
lưu quan tâm đặc biệt đến văn hóa phổ thông 
(popular culture) ở các xã hội phương Tây vào 
thời điểm đó. Theo Rosaldo (14), có thể truy 
gốc của ngành Nghiên cứu văn hóa từ 2 hệ ... nghiên cứu. 
Mặt khác, cũng bởi tính chất liên ngành hay 
hậu chuyên ngành nên sự ra đời và tồn tại của 
ngành Nghiên cứu văn hóa đã gây ra nhiều 
tranh cãi xoay quanh đặc thù của ngành với 
tư cách một ngành độc lập. Vào những năm 
1980, với sự nổi lên của chủ nghĩa Tự do Mới ở 
Anh và chủ nghĩa Bảo thủ ở Mỹ, do mối liên hệ 
chặt chẽ giữa các học giả của nó với lý thuyết 
Mác-xít và chính trị cánh tả nên Nghiên cứu 
văn hóa đã gặp phải sự phê phán từ cả trong 
và ngoài giới học thuật. Đỉnh cao là việc năm 
2002, Trung tâm Nghiên cứu văn hóa đương 
đại (CCCS) ở Đại học Birmingham bị giải thể. 
Tuy nhiên, bất chấp những ý kiến trái chiều 
về sự tồn tại như một ngành học thuật độc 
lập, Cultural Studies đã và đang hiện diện ở 
nhiều nơi trên thế giới. Đầu những năm 1990, 
nhiều cuộc hội thảo xoay quanh sự bùng nổ 
của Cultural Studies và những vấn đề đặt ra. Ví 
dụ, riêng năm 1990, ở Mỹ đã tổ chức hai cuộc 
hội thảo “Cultural Studies hiện nay và trong 
tương lai” tại Đại học Illinois (tháng 4/1990), 
và “Vượt qua chuyên ngành: Cultural Studies 
trong những năm 1990” tại Đại học Oklahoma 
(tháng 10/1990)... Cultural Studies trở thành 
nền tảng lý luận cho ngành phê bình ở Anh, có 
ứng dụng rộng rãi từ điện ảnh cho đến truyền 
thông, từ Anh đã lan rộng sang Mỹ, châu Âu, 
Úc, New Zealand, Nhật, Hàn Quốc, Singapore, 
Hồng Kông, Đài Loan Một loạt các nghiên 
cứu, xuất bản phẩm, trung tâm nghiên cứu, 
các khoa và viện được hình thành dưới cái 
tên “Nghiên cứu văn hóa” (Cultural Studies). 
Nhiều tạp chí ra đời có liên quan đến ngành, 
ví dụ như các tờ Australian Journal of Cultural 
Studies, Cultural studies, International Journal 
of Cultural Studies, Ecumene, Gender, Place and 
Culture; Media, Culture and Society; Theory, 
Culture and Society, New Formations, Sign 
Cách tiếp cận của ngành Nghiên cứu văn hóa
Như đã trình bày ở trên, xuất hiện tương 
đối muộn so với các chuyên ngành học thuật 
khác, Cultural Studies là một lĩnh vực hoạt động 
học thuật liên ngành, được nảy sinh và phát 
triển từ trong chính sự tương tác và hợp tác 
giữa các ngành khác nhau. Tuy nhiên, từ trong 
chính cái nền của sự tương tác liên ngành đó, 
Nghiên cứu văn hóa đã tạo ra một hướng đi 
hoàn toàn mới, tạo sân chơi cho những khám 
phá và phân tích mới mẻ về văn hóa, đồng 
thời có tác động đến diễn ngôn chính thống 
trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn 
ở phương Tây. Nói cách khác, Nghiên cứu văn 
hóa “không phải là một hòn đảo trong một đại 
dương của các chuyên ngành, mà nó là một 
dòng chảy cuốn phăng bờ của các chuyên 
ngành khác để tạo ra những dạng thức mới 
mẻ và thay đổi” (1, tr.42). Dù có gây tranh cãi, 
thế mạnh của Nghiên cứu văn hóa chính là 
nằm ở tính chất “mở”, luôn ẩn chứa khả năng 
để phát triển và biến đổi. Nói cách khác, ngành 
Nghiên cứu văn hóa phản chiếu chính sự phức 
tạp và yếu tố “đa thanh” của đối tượng mà nó 
phản ánh - đó là văn hóa. 
89Số 6 - Tháng 12 - 2013
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Do đặc biệt quan tâm đến những ý nghĩa 
và thực hành hàng ngày nên văn hóa phổ 
thông (popular culture), văn hóa đại chúng 
(mass culture) và văn hóa đời thường (everyday 
culture) là đối tượng nghiên cứu chính của 
ngành Nghiên cứu văn hóa. Qua các giai đoạn 
khác nhau của quá trình phát triển, ngành 
cũng thay đổi trọng tâm nghiên cứu. Vào giai 
đoạn mới hình thành, trong bối cảnh xã hội 
nước Anh và châu Âu những năm 50 và 60 
của thế kỷ XX nhiều biến động, ngành Nghiên 
cứu văn hóa tập trung phân tích văn hóa đại 
chúng, coi văn hóa đại chúng đóng vai trò 
quan trọng trong sự hòa nhập của giai cấp lao 
động vào các xã hội tư bản chủ nghĩa. Những 
nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu văn hóa 
đương đại chú trọng tới giai cấp lao động và 
những nhóm thanh niên bất đồng quan điểm, 
cũng như những đặc trưng của truyền hình và 
khán giả. Đồng thời các nhà Nghiên cứu Văn 
hóa cũng khám phá một nền văn hóa truyền 
thông và tiêu thụ mới đang dần thiết lập - tạo 
nên một dạng thức mới của sự bá chủ tư bản 
chủ nghĩa. Sang giai đoạn những năm 70 và 80 
của thế kỷ XX, ngành tập trung vào nghiên cứu 
chủ nghĩa vị nữ, thuyết chủng tộc phê phán, 
thuyết đa dạng tính dục, thuyết hậu hiện đại 
và các mô hình lý thuyết khác. Giai đoạn sau, 
Nghiên cứu văn hóa có xu hướng gắn với tính 
chính trị của việc biểu đạt. 
Về nền tảng lý thuyết, ngành Nghiên cứu 
văn hóa tiếp nhận tư tưởng từ nhiều ngành 
(lý thuyết xã hội, lý thuyết chính trị, lý thuyết 
truyền thông, thuyết vị nữ, triết học, văn học, 
nghiên cứu video/phim, thông diễn, kinh tế 
chính trị, nghiên cứu bảo tàng, phê bình nghệ 
thuật). Nó dựa trên một số chủ thuyết nền 
tảng như chủ nghĩa văn hóa (culturalism), chủ 
nghĩa Mác, cấu trúc luận, ký hiệu học, hậu cấu 
trúc luận, hậu hiện đại, nữ quyền luận, hậu 
thuộc địa luận Về mặt phương pháp, tựu 
chung, ngành Nghiên cứu văn hóa dựa trên 
ba phương pháp và cũng là những cách tiếp 
cận chính, vừa được thừa hưởng từ những 
chuyên ngành khác, vừa được làm mới từ 
trong chính những nội dung mà nó nghiên 
cứu, đó là phương pháp khảo tả dân tộc học 
(ethnography); tiếp cận phân tích văn bản 
(textual approach), và nghiên cứu tiếp nhận 
của độc giả/khán giả (reception studies). 
Có thể nói, so với quan niệm truyền thống, 
các nhà nghiên cứu của ngành Nghiên cứu 
văn hóa đưa ra một cách nhìn khác về văn hóa. 
Trong bài luận “Cultural Studies: Two Paradigms” 
(Nghiên cứu văn hóa: Hai hệ thuyết), Stuart 
Hall đưa ra gợi ý về việc việc khảo cứu lại cách 
hiểu khái niệm văn hóa. “Nói đến văn hóa, ở 
đây tôi nói đến những lĩnh vực nền tảng của 
thực hành, biểu trưng, ngôn ngữ và phong tục 
của bất kỳ xã hội nào. Tôi cũng nói đến những 
dạng thức mâu thuẫn của những hiểu biết 
chung đã được bắt rễ trong đời sống và góp 
phần tạo nên đời sống nói chung” (8, tr.439). 
Theo quan điểm này, văn hóa là một lĩnh vực 
quan trọng của các hành động và can thiệp xã 
hội, nơi mà các mối quan hệ quyền lực được 
thiết lập và luôn chứa đựng những vấn đề 
bất ổn. Theo ông, việc gán những chức năng 
chung và mang tính phổ quát cho những 
giá trị mang tính trừu tượng chỉ có thể hiểu 
được trong những bối cảnh lịch sử và xã hội 
cụ thể của nền văn hóa đó. Bởi thế, có nhiều 
nền văn hóa cùng tồn tại trong các xã hội hậu 
công nghiệp. Văn hóa, đặc biệt là văn hóa phổ 
thông, là một lĩnh vực của sự xung đột. 
Nói cách khác, Nghiên cứu văn hóa là một 
hệ thống những lý thuyết được đưa ra bởi 
những nhà tư tưởng coi sản phẩm của tri thức 
chính là một “thực hành chính trị”, và trong đó, 
quyền lực được coi là một khái niệm trung tâm. 
Đối với ngành Nghiên cứu văn hóa, tất cả các 
khía cạnh của đời sống xã hội và văn hóa đều 
có liên quan và ẩn chứa trong các mối quan hệ 
quyền lực. Ý nghĩa, bản sắc, nghệ thuật, hay các 
mối quan hệ xã hội đều là sự thương thỏa của 
quyền lực. Đó cũng có thể là những mối quan 
Số 6 - Tháng 12 - 201390
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
hệ quyền lực liên quan đến các giới, các giai 
cấp, các chủng tộc, các dân tộc hay tộc người. 
Quyền lực cũng là cái định khuôn cũng như 
chi phối các dạng thức văn hóa, các dạng biểu 
trưng, các mối quan hệ và thiết chế xã hội (như 
gia đình, tôn giáo, hệ thống giáo dục và luật 
pháp). Và như vậy, quyền lực lan tỏa từ mọi 
ngõ ngách trong cuộc sống và chi phối mọi 
chiều kích văn hóa, do đó, phân tích văn hóa 
không thể bỏ qua khía cạnh này. 
Không chỉ Nghiên cứu Văn hóa đặt mục 
tiêu khám phá bản chất chính trị của văn hóa 
đương đại thông qua việc tìm hiểu sự vận 
hành của diễn ngôn và quyền lực, mà bản 
thân ngành Nghiên cứu Văn hóa cũng có thể 
coi là một dạng thức mang tính diễn ngôn 
(discursive formation), “một tập hợp của các 
ý tưởng, hình ảnh và thực hành, cung cấp các 
phương thức để tranh luận, các dạng thức 
của tri thức và hành vi liên quan đến một chủ 
đề nhất định, một hoạt động xã hội hay một 
không gian được thiết chế hóa trong xã hội” 
(7). Vì vậy, một luận điểm quan trọng khác 
của ngành đó là coi văn hóa như là văn bản 
(text). Theo quan điểm nổi tiếng của nhà hậu 
cấu trúc luận Jacques Derrida, người có ảnh 
hưởng tới nhiều ngành xã hội nhân văn, trong 
đó có Nghiên cứu Văn hóa, “không có cái gì 
tồn tại ngoài văn bản”. Các “văn bản” này chứa 
đựng những ý nghĩa, các sự kiện và những 
trải nghiệm, sản phẩm của những trường lực 
xã hội được kiến tạo bằng những dòng chảy 
quyền lực, sự phân cấp vị thế và cơ hội. Văn 
hoá và các cá nhân được kiến tạo thông qua 
những mạng lưới của những cách sử dụng 
ngôn ngữ, biểu tượng và diễn ngôn liên kết với 
nhau; toàn bộ cuộc sống này là một văn bản, là 
một chuỗi những quan hệ biểu nghĩa. Không 
thể cô lập bất cứ văn bản nào khỏi sự vận hành 
của nghĩa trong đời sống văn hoá, mọi văn bản 
đều kết nối và được tạo lập thông qua/ bởi các 
văn bản khác (9, tr.90-106). 
Ở đây khái niệm “văn bản” không chỉ ám chỉ 
những tác phẩm in ấn, mà bao hàm tất cả các 
dạng thức giao tiếp - hình ảnh, biểu cảm, lời 
nói, âm thanh. Vì vậy, các chương trình phim, 
truyền hình, thể thao, tiểu thuyết, các bài phát 
biểu của chính trị gia, video, bản dạng của con 
người đều là những văn bản, được kiến tạo 
nên bằng ngôn ngữ, thông qua một quá trình 
“tương quan hóa” (mọi sự vật đều được đặt 
trong mối quan hệ với nhau - và sự “khác biệt” 
(giữa chúng ta với người khác tạo nên bản sắc 
riêng) (11). Cách tiếp cận này coi văn hóa, bản 
sắc, và thậm chí cả “dân tộc” cũng là những văn 
bản và những tự truyện (narratives). Chúng 
cũng là những thiết chế xã hội dựa trên nhà 
nước, hoặc dựa trên thị trường và các thiết 
chế xã hội dân sự (6). Có thể “đọc” văn hóa 
như một văn bản, sử dụng các khái niệm như 
ký hiệu hóa (signification), mã (code) và diễn 
ngôn (discourse). Việc khám phá văn hóa được 
xem là tương đồng với việc khám phá ý nghĩa 
ẩn chứa một cách trừu tượng thông qua một 
hệ thống ký hiệu trong ngôn ngữ. Không chỉ 
ngôn ngữ là hệ thống các ký hiệu, mà văn hóa 
cũng là một hệ thống các ký hiệu - với ý nghĩa 
được sản sinh thông qua sự khác biệt, qua các 
quan hệ cú pháp và quan hệ liên tưởng. Ngôn 
ngữ không phải là phương tiện trung gian 
mang tính trung lập để truyền tải ý nghĩa và 
tri thức đã tồn tại độc lập, mà bản thân ngôn 
ngữ cũng mang tính chủ quan, cung cấp ý 
nghĩa cho một đối tượng vật chất và những 
thực hành xã hội. Những quá trình sản sinh ý 
nghĩa này là những thực hành biểu đạt. Vì thế 
để hiểu được văn hóa, cần khám phá ý nghĩa 
được sản sinh ra như thế nào trong ngôn ngữ 
(2). Mặt khác, như quan điểm của các học giả 
của ngành Nghiên cứu văn hóa, trò chơi ngôn 
ngữ (language-game) thể hiện qua diễn ngôn 
không bao giờ mang tính trung lập khách quan.
Tóm lại, là một lĩnh vực học thuật tương 
đối “mở”, bất chấp trên thực tế vẫn có người 
phản đối việc tạo ra ranh giới riêng cho chuyên 
91Số 6 - Tháng 12 - 2013
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
ngành Nghiên cứu văn hóa, nhưng lĩnh vực 
nghiên cứu này vẫn đã, đang tồn tại và phát 
triển theo nhiều hướng khác nhau. Chẳng hạn 
như hướng nghiên cứu về cảm xúc (emotion), 
tinh thần/tâm linh (spirituality) và mối quan hệ 
giữa chúng với các vấn đề về quyền lực (16) 
v.v... Có thể nói ngành Nghiên cứu văn hóa 
đã đóng góp một cách nhìn mới mẻ về một 
chiều kích khác của văn hóa. Hướng tiếp cận 
của Nghiên cứu văn hóa phương Tây sẽ là một 
sự bổ sung cho Văn hóa học trong việc khám 
phá một lĩnh vực phong phú, biểu trưng và đa 
nghĩa như văn hóa.
P.Q.P
(TS, Viện NCVH, Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam)
Tài liệu tham khảo
1. Baldwin, Elaine, Brian Longhurst, Scott 
McCracken, Miles Ogborn, và Greg Smith (1999), 
Introducing Cultural Studies, London: Prentice 
Hall Europe.
2. Barker, Chris (2008), Cultural Studies: 
Theory and Practice, SAGE Publications.
3. Belik, A.A (2000), Văn hoá học những lý 
thuyết Nhân học văn hoá, Đỗ Lai Thuý, Hoàng 
Vinh, Huyền Giang dịch, Tạp chí Văn hoá Nghệ 
thuật xuất bản, Hà Nội (bản tiếng Nga in năm 
1999).
4. Bennett, Tony (1998), Culture: A Reformer’s 
Science, Allen and Unwin Pty Limited. 
5. Berry, Ellen và Epstein, Mikhail (1999), 
Transcultural Experiments: Russian and American 
Models of Creative Communication, New York: St. 
Martin’s Press.
6. During, Simon (2005), Cultural Studies: 
A critical introduction, London and New York: 
Routledge.
7. Hall, Stuart (1980), Cultural Studies and the 
Centre: some problematics and problems, Trong 
Culture, Media, LanguageWorking Papers in 
Cultural Studies, 1972–79, Stuart Hall, Dorothy 
Hobson, Andrew Lowe và Paul Willis chủ biên. 
University of Birmingham: Academic Division of 
Unwin Hyman (Publishers) Ltd.
8. Hall, Stuart (1996), Cultural studies: two 
paradigms, in What is Cultural Studies? A.Reader, 
J. Story chủ biên. London: Arnold Press.
9. Lye, John (1993), Lý thuyết văn chương 
đương đại, The Brock Review, Số 1.
10. McGuigan, Jim (1992), Cultural Populism, 
London: Routledge.
11. Nayar, Pramod (2008), An Introduction to 
Cultural Studies, New Delhi, Viva Books.
12. Nguyễn Xuân Kính (2006), Văn hóa Việt 
Nam và các ngành khoa học nghiên cứu, Tạp chí 
Văn hóa dân gian, Số 6.
13. Radughin, A.A chủ biên (2004), Văn hoá 
học những bài giảng, Vũ Đình Phòng dịch, Từ Thị 
Loan hiệu đính, Viện Văn hoá - Thông tin xb, Hà 
Nội (bản tiếng Nga in năm 1997).
14. Rosaldo, Renato (1994), Whose Cultural 
Studies? American Anthropologist, New Series, 
Vol. 96, No. 3, pp. 524-529.
15. Trần Ngọc Thêm (2013), Những vấn đề 
văn hóa học lý luận và ứng dụng, Nxb Văn hóa-
Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh. 
16. Zevnik, Luka (2010), Towards a new 
perspective in cultural studies: Emotional and 
spiritual problems and happiness in contemporary 
Western societies, International Journal of 
Cultural Studies, 13: 391-408. 
 Ngày nhận bài: 4 - 5 - 2013
Ngày phản biện, đánh giá: 6 - 9 - 2013
Ngày chấp nhận đăng: 9 - 12 - 2013

File đính kèm:

  • pdfnganh_nghien_cuu_van_hoa_cultural_studies_luoc_su_hinh_thanh.pdf