Motif trong truyện cổ tích hai cô gái và cục bướu của Việt Nam và ông già và cục bướu của Hàn Quốc từ góc nhìn so sánh
Trong kho tàng truyện cổ tích Hàn Quốc có rất nhiều câu chuyện tương đồng với truyện cổ tích Việt
Nam, phải chăng là do đặc trưng của tính quốc tế trong thể loại cổ tích. Để tìm sự tương đồng ấy, dựa
vào lí thuyết cấu trúc - chức năng của V.Ia. Propp, chúng tôi chọn so sánh vị trí các motif chính trong
hai truyện cụ thể “Hai cô gái và cục bướu” của Việt Nam và “Ông già và cục bướu” của Hàn Quốc.
Sở dĩ chúng tôi chọn hai truyện này là vì chúng có cùng thuộc kiểu truyện món quà của quỷ - một kiểu
truyện hấp dẫn và đang đặt ra nhiều vấn đề để nghiên cứu. Thông qua việc so sánh chúng tôi muốn tìm
ra điểm tương đồng và khác biệt của các motif đã vận hành như thế nào trong truyện cổ tích của hai
nước. Từ đó, rút ra những nhận xét khái quát nhất cho việc vận dụng lý thuyết thi pháp học truyện cổ
tích vào việc nghiên cứu đối tượng cụ thể.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Motif trong truyện cổ tích hai cô gái và cục bướu của Việt Nam và ông già và cục bướu của Hàn Quốc từ góc nhìn so sánh
67 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 38 (06-2019) MOTIF TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH HAI CÔ GÁI VÀ CỤC BƯỚU CỦA VIỆT NAM VÀ ÔNG GIÀ VÀ CỤC BƯỚU CỦA HÀN QUỐC TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH y Lê Diễm Quỳnh(*) Tóm tắt Trong kho tàng truyện cổ tích Hàn Quốc có rất nhiều câu chuyện tương đồng với truyện cổ tích Việt Nam, phải chăng là do đặc trưng của tính quốc tế trong thể loại cổ tích. Để tìm sự tương đồng ấy, dựa vào lí thuyết cấu trúc - chức năng của V.Ia. Propp, chúng tôi chọn so sánh vị trí các motif chính trong hai truyện cụ thể “Hai cô gái và cục bướu” của Việt Nam và “Ông già và cục bướu” của Hàn Quốc. Sở dĩ chúng tôi chọn hai truyện này là vì chúng có cùng thuộc kiểu truyện món quà của quỷ - một kiểu truyện hấp dẫn và đang đặt ra nhiều vấn đề để nghiên cứu. Thông qua việc so sánh chúng tôi muốn tìm ra điểm tương đồng và khác biệt của các motif đã vận hành như thế nào trong truyện cổ tích của hai nước. Từ đó, rút ra những nhận xét khái quát nhất cho việc vận dụng lý thuyết thi pháp học truyện cổ tích vào việc nghiên cứu đối tượng cụ thể. Từ khóa: Motif, truyện cổ tích, Hai cô gái và cục bướu, Ông già và cục bướu. 1. Đặt vấn đề Giống như văn học thành văn, truyện cổ tích cũng đặt ra nhiều vấn đề lí luận văn chương thu hút sự quan tâm của nhiều chuyên gia văn học. Văn học dân gian - trong đó có truyện cổ tích như là một phương tiện kì diệu kết nối tâm hồn con người với đời sống hiện thực của mỗi dân tộc. Không những thế, những câu chuyện cổ tích còn được lưu truyền từ thế hệ này sang đến thế hệ khác, từ quốc gia này sang đến quốc gia khác mà không có sự giới hạn không gian lẫn thời gian. Với tất cả các yếu tố đó đã làm nên tính quốc tế - một đặc tính đặc trưng cho thể loại. Để làm rõ đặc trưng tính quốc tế trong truyện cổ tích, chúng tôi muốn dựa vào hai phương diện để nghiên cứu đó là kiểu truyện (type) và motif trong truyện cổ tích. Kiểu truyện (type) chính là cái khung bên ngoài của câu chuyện. Còn motif chính là những viên gạch nhỏ để xây nên kiểu truyện. Trong cùng một kiểu truyện sẽ có nhiều motif và các motif ấy có thể được giữ nguyên hoặc biến đổi tùy vào vị trí, cách sắp xếp của chúng trong từng câu chuyện. Và mỗi một motif lại là một biểu tượng về văn hóa - xã hội mà các tác giả dân gian ngụ ý xây dựng nên. Điều đó tạo nên rét riêng biệt cho từng bản kể của từng quốc gia. Sở dĩ, bài viết chọn truyện cổ tích Hàn Quốc để so sánh với truyện cổ tích nước ta bởi có nhiều lí do: Thứ nhất, cả hai quốc gia Việt Nam và Hàn Quốc đều có nền văn hóa tương đồng nhau trong bối cảnh văn hóa Đông Á. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để chúng tôi dễ dàng tiếp cận sự gặp gỡ, tương đồng trong văn học và văn hóa hai nước. Thứ hai, trong bối cảnh hiện nay, khi “làn sóng” văn hóa Hàn ở Việt Nam ngày càng được giao thoa và phát triển mạnh mẽ thì việc tìm hiểu văn hóa nước bạn sẽ tạo được nhiều hiệu quả nhất định trong việc giao lưu, hợp tác cùng phát triển. Thứ ba, vấn đề nghiên cứu motif trong truyện kể dân gian là vấn đề đặt ra nhiều góc độ lí luận trong nghiên cứu văn học và folklore học. Do đó, việc chọn vấn đề motif phối hợp với phương pháp liên ngành sẽ tạo hiệu quả nhất định, mang lại những đóng góp cho khoa học văn chương nói chung. Trên cơ sở đó, dựa vào lí thuyết cấu trúc chức năng theo cách tiếp cận nghiên cứu motif truyện kể dân gian của V.Ia. Propp, nằm trong công trình Hình thái học truyện cổ tích thần kì (1928), V.Ia. Propp cho rằng phương pháp cấu trúc - chức năng trong nghiên cứu truyện kể dân gian là “một phương pháp được thực hiện với sự kết hợp giữa hai đơn vị cơ bản tạo nên truyện kể dân gian là chức năng và motif và ông xác định 4 nguyên tắc cơ bản để xây dựng nên một truyện cổ tích. Một là, “chức năng của nhân vật là “đại lượng bất biến” và là những thành tố nền tảng của một (*) Học viên cao học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 68 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 38 (06-2019) truyện kể, chúng làm thành những bộ phận tạo thành chủ yếu của truyện cổ tích chứ không phải motif. Chức năng là những hành động quan trọng không thể gạt bỏ mà chỉ có thể thay thế. Hai là, mỗi truyện cổ tích đều có một số chức năng nhất định. Ba là, trong truyện cổ tích, các chức năng của nhân vật luôn luôn nối tiếp theo một trình tự duy nhất. Bốn là, tất cả các truyện cổ tích thần kì đều có chung một cấu trúc (bao gồm 31 chức năng)” [9, tr. 40-47]. Đồng thời, chúng tôi còn tham khảo bảng mục lục motif truyện dân gian trên thế giới trong công trình Motif - index of folk - literature: a classifi cation of narrative elements in folktales, ballads, myths, fables, mediaeval romances, exempla, fabliaux, jest-books, and local legends của Stith Thompson (gồm sáu quyển) để tra cứu các loại motif khảo sát được trong truyện cổ tích Hai cô gái và cục bướu của Việt Nam và Ông già và cục bướu của Hàn Quốc để tìm xem mỗi một motif sẽ được xếp ở vị trí nào, mang mã số nào trong bảng mục lục tra cứu. Đây cũng là đóng góp mới của bài nghiên cứu vào việc dịch thuật và ứng dụng nghiên cứu. Riêng những vị trí có dấu (+) là những motif không tìm thấy trong thư mục của Stith Thompson và người viết tự đánh dấu, bổ sung vào bài viết. Dựa vào nền tảng ấy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu, so sánh vị trí các motif chính trong hai truyện cổ tích Hai cô gái và cục bướu của Việt Nam và Ông già và cục bướu của Hàn Quốc. Sở dĩ chúng tôi chọn hai truyện này là vì chúng có cùng chung hệ thống “kiểu truyện về món quà của quỷ”, một kiểu truyện tuy không phổ biến bằng các “kiểu truyện người đội lốt”, “kiểu truyện người con riêng” nhưng đây là kiểu truyện cũng đặt ra nhiều vấn đề mới cho việc nghiên cứu. 2. Nội dung “Kiểu truyện món quà của quỷ” là kiểu truyện nằm trong nhóm truyện cổ tích thần kì, thường sử dụng hai motif quan trọng là “motif tặng thưở ... một cái chày/cái chùy gọi là Tokkebi Bangmang-i (tạm dịch: cây gậy của Tokkebi), có thể hóa ra nhiều phép thuật nhưng đồng thời cũng là vũ khí”. [6, tr. 62]. Hình ảnh yêu tinh Tokkebi có tính cách giống con người, rất hài hước và đáng yêu và chúng trở thành một trong tám linh vật kì bí của quốc gia Hàn Quốc. Hình ảnh yêu tinh Tokkebi xuất hiện rất phổ biến trong các câu chuyện dân gian Hàn Quốc như Heugbu và Nolbu; Yêu tinh Tokkebi đãng trí; Không thể tin được đàn bà Cụ thể ở hai truyện Hai cô gái và cục bướu và Ông già và cục bướu của truyện cổ tích Việt Nam và Hàn Quốc rơi vào trường hợp thứ hai: nhân vật chính hiền lành được bọn quỷ giúp đỡ. Trong truyện cổ tích các nước châu Âu, thường xuất hiện nhân vật người khổng lồ hay quái vật. Còn với cư dân các nước Đông Á thường nhắc đến hình ảnh “quỷ” hay “yêu tinh”. Vì cùng chịu ảnh hưởng bởi Tam giáo Nho - Phật - Đạo. Họ quan niệm ngoài thế giới con người còn có cả thế giới Thần Phật, linh hồn và ngạ quỷ nhằm để khuyên răn con người hướng thiện, tránh ác. Ai làm việc tốt sẽ được Thần Phật phù hộ. Ngược lại, những ai làm việc xấu xa, độc ác sẽ bị bọn quỷ trừng trị. Hình tượng “quỷ” cũng từ đây mà có. Nhà Phật, 71 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 38 (06-2019) cũng quan niệm có sáu cõi luân hồi và “quỷ” là cõi thứ năm trong sáu cõi này. Họ cho rằng “quỷ” là người làm việc ác, không thể siêu thoát và chuyên đi phá phách người khác. Cũng vì thế, trong nếp sống tinh thần người dân thường rất sợ chúng, họ quan niệm rằng phải thờ cúng Phật, Tiên, Thần trong nhà để phù hộ xua đuổi chúng. Ngoài ra, họ còn dùng những vật thiêng dân gian như treo quả bầu, cây xương rồng khô hay trấn các lá bùa bình an ở các góc nhà để xua đuổi ma quỷ. Các tín ngưỡng ấy có từ ngàn xưa là vì đời sống người dân thường sống vây quanh là cây cối rậm rạp, thường phải đi rừng để mưu sinh. Do đó, họ sáng tác nên những câu chuyện cổ có các yếu tố li kì là để khắc phục nỗi sợ hãi của mình. Ở Việt Nam, do chịu ảnh hưởng đậm nét của tư tưởng Phật nên các câu chuyện cổ tích thần kì thường có sự xuất hiện của các yếu tố thần kì như Thần, Bụt, ma quỷ. Ngược lại, Hàn Quốc chịu ảnh hưởng sâu đậm của Nho giáo nên họ không chú trọng vào yếu tố thần kì mà sáng tạo một hình ảnh nhân vật hơn với thế giới hiện thực của con người. Vì lí do đó, mà hình ảnh nhân vật “quỷ” trong truyện cổ tích của hai nước có phần khác nhau trong cách thể hiện. Xét về vị trí chức năng của motif đây cũng là motif đóng vai trò quan trọng để mở nút thắt, tạo ra kết thúc có hậu cho toàn bộ câu chuyện. 2.3. Motif thử thách và motif tiếng hát H220: Thử thách; H80: Thử thách bằng biểu hiện; J2461.2.1+: Tiếng hát của con người. “Thử thách” là motif hầu như không thể thiếu trong rất nhiều truyện cổ tích trên thế giới. Motif vừa tạo màu sắc kì ảo cho câu chuyện, vừa có những đóng góp trong việc thể hiện giá trị văn hóa cho mỗi câu chuyện. Ứng với kiểu truyện về món quà của quỷ, theo lẽ thường motif này có cấu tạo như sau nhân vật hiền lành phải lạc đường trong rừng → gặp phải bọn quỷ → chống chọi nỗi sợ hãi, vượt qua thử thách. Tuy nhiên, đối với thử thách trong truyện Hai cô gái và cục bướu và Ông già và cục bướu mà bài viết đề cập thì thử thách không gay gắt. Nhân vật không phải chống chọi hay đấu tranh với nhiều thử thách. Ở đây, truyện đề cao lòng dũng cảm và cách ứng xử của nhân vật. Tùy vào bản tính của nhân vật mà họ tự tạo cái kết cho riêng mình. Cụ thể, nhân vật thiện trong cả hai truyện đều đối mặt với bọn quỷ và cư xử tốt với “bọn quỷ”, xem chúng như những người bình thường, cùng vui đùa ca hát với họ. Vì thế, họ đã gặp được may mắn là chữa khỏi cục bướu. Ngược lại, tuyến nhân vật ác vì bản tính kiêu căng, tham lam nên họ phải trừng trị thích đáng. Như vậy, “motif thử thách” đã đặt ra cho số phận nhân vật (nhân vật người hiền lành) phải đối mặt với thử thách bằng chính tấm lòng của mình. Thử thách “bọn quỷ” cũng chính là thử thách của Thần linh, lòng trời dành cho họ. Người ngay thẳng, thật thà cho dù có gặp “bọn quỷ” hung dữ tới đâu cũng không làm hại được mình. Motif còn nhằm ẩn dụ cho ý nghĩa, bất kì ai trong chúng ta đều ít hay nhiều cũng phải đối mặt với những biến cố trong cuộc đời. Điều quan trọng chính là bản thân ta đã đối mặt và vượt qua nó như thế nào, người ngay thì được lòng trời, “ở hiền gặp lành”, “ở ác gặp ác”. Tư tưởng của truyện cho thấy tư duy sáng tác truyện cổ tích đã tiến dần sang một bước cao hơn so với các thể loại tự sự khác trong văn học dân gian. Đi kèm với “motif thử thách” là “motif tiếng hát”, “motif tiếng hát” cũng thường xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích như tiếng hát của Trương Chi làm say lòng Mị Nương trong truyện Trương Chi của truyện cổ tích Việt Nam hay tiếng hát của chàng trai nhà nghèo làm công chúa Thủy phủ say mê trong Cô gái con Thần nước mê chàng đánh cá Chính tiếng hát là phương tiện thần kì để xóa bỏ khoảng cách địa vị của con người, ngược lại chúng kết nối tâm hồn họ đến gần nhau hơn. Và motif này lại một lần nữa được lặp lại trong hai câu chuyện Hai cô gái và cục bướu và Ông già và cục bướu của hai quốc gia Việt Nam và Hàn Quốc. Tiếng hát của các nhân vật thiện - biểu tượng cho nghệ thuật - đã làm cho “bọn quỷ” thích thú, vì nó xua đi khoảng cách giữa hai thế lực “người” và “quỷ dữ” với ngụ ý nghệ thuật sẽ làm cho tâm hồn con người trở nên thánh thiện, đến gần với cái đẹp hơn. Do đó, các tác giả bình dân cũng là người có tâm hồn bay bổng. Các yếu tố chân, thiện, mĩ được hòa quyện vào các tình tiết, đó là những nét đẹp mà thể loại truyện cổ tích muốn hướng tới. Xét về vị trí chức năng, đây là motif xuất hiện phổ biến và được di chuyển trong nhiều cốt truyện khác nhau. Tùy vào kiểu truyện mà “motif thử thách” được thể hiện với một cách riêng, tạo sự đa dạng cho các câu chuyện cổ tích. 72 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 38 (06-2019) 2.4 Motif tặng thưởng Q23: Phần thưởng đảm bảo chuyển đổi. “Motif tặng thưởng” thường xuất hiện theo công thức nhân vật vượt qua thử thách → được ban thưởng → thay đổi số phận. Motif cho thấy bước chuyển biến nhân vật tự mình chống chọi và vượt qua thử thách chứ không nhờ vào sự giúp đỡ của các lực lượng siêu nhiên. Truyện Hai cô gái và cục bướu (Việt Nam) và truyện Ông già và cục bướu (Hàn Quốc) nhân vật hiền lành đều được tặng thưởng là lấy đi cục bướu. Trong truyện Hai cô gái và cục bướu (Việt Nam) cô gái được lấy đi cục bướu nhưng không được đổi bằng vàng bạc, châu báu như truyện Ông già và cục bướu (Hàn Quốc). Do đặc trưng của văn học dân gian là có tính truyền miệng nên mỗi câu chuyện đến với mỗi quốc gia sẽ trở thành một dị bản với những tình tiết truyện khác nhau. Nhưng cả hai truyện đều có sự giống nhau trong việc chọn “motif tặng thưởng”. Nhân vật hiền lành thì gặp may mắn, nhân vật tham lam độc ác thì sẽ bị trừng trị. Một lần nữa cả hai quốc gia lại gặp gỡ nhau trong quan niệm Phật giáo “gieo nhân nào gặt quả ấy” đề cao tư tưởng nhân nghĩa “ở hiền gặp lành”, “ở ác gặp ác”; kết cục số phận của con người đều do đạo đức quyết định. Vì chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Nho giáo nên cả hai quốc gia gán mọi kết quả của đời sống con người cho về tính chất mệnh trời và lòng người. Về vị trí chức năng của “motif tặng thưởng”, tùy vào cốt truyện mà motif này sẽ được sắp xếp các vị trí khác nhau sao cho phù hợp với tình tiết câu chuyện. Đây là motif được sử dụng phổ biến trong tất cả các truyện cổ tích, góp phần vào việc mở nút cho nhân vật khi vượt qua thử thách, đặc biệt tạo kết thúc có hậu cho thể loại cổ tích. 2.5 “Motif bắt chước không thành công” và “motif trừng phạt” J2411+: Bắt chước không thành công; Q200: Hành động bị trừng phạt. Cả hai nhân vật tham lam trong cả hai truyện đều gắn với “motif bắt chước không thành công” và “motif trừng phạt” sau “motif tặng thưởng”, với mô hình nhân vật hiền lành thực hiện thành công → nhân vật tham lam, độc ác dò la → bắt chước không thành công → bị trừng phạt. Sở dĩ, họ bắt chước không thành công vì động cơ bắt chước của họ là vụ lợi. Nhân vật vừa mong muốn được chữa trị cục bướu, vừa mong muốn được vụ lợi. Vì “tham thì thâm”, họ đã tự mình “đánh mất cả chì lẫn chài” (như ông già tham lam trong Ông già và cục bướu trong truyện cổ tích Hàn Quốc). Còn nhân vật trong Hai cô gái và cục bướu (Việt Nam) do có thái độ hống hách, đối xử kiêu kì, khinh mạ bọn quỷ nên đã bị chúng trừng phạt bằng cách ném một cục bướu nữa vào mặt. Đây cũng là motif phổ biến được lặp lại trong nhiều truyện. Lí giải cho sự có mặt của motif này, ta có thể thấy, để có được lợi ích mà mình muốn - con người chúng ta thường đánh mất cả lí trí của mình, bất chấp tất cả (ngay cả việc vào rừng để gặp bọn quỷ) để vụ lợi cho bản thân. Đây là bản tính xấu mà con người dù ở thời nào vẫn luôn bị mắc phải. Cả hai truyện một lần nữa lại gặp gỡ nhau ở quan điểm đạo đức kẻ tham lam độc ác ắt bị trừng phạt. Những mong muốn vụ lợi bất chính cho cá nhân đều sẽ bị thất bại. Điều duy nhất còn mãi với lẽ đời đó là giá trị đạo đức, lối sống thuận theo tự nhiên và sẵn sàng đối mặt với bất cứ thử thách nào trong cuộc đời. Về vị trí chức năng “motif bắt chước không thành công” và “motif trừng phạt” luôn được tiếp nối song song cùng nhau theo diễn biến của chức năng nhân vật. Một lần nữa hai motif này cùng góp phần tạo kết thúc có hậu cho câu chuyện. Đây cũng là một minh chứng cho kiểu tư duy gắn với hiện thực hóa con người, đánh dấu “bước trưởng thành” lịch sử xã hội. Truyện cổ tích Hai cô gái và cục bướu (Việt Nam) và Ông già và cục bướu (Hàn Quốc) đều có cùng “kiểu truyện về món quà của quỷ” và có những motif hoàn toàn trùng khớp nhau. Lí giải sự trùng khớp này với hai nguyên nhân sau: thứ nhất, vì hai quốc gia Việt Nam và Hàn Quốc đều chịu ảnh hưởng của văn hóa chữ Hán và có những đặc điểm tương đồng nhau trong tam giáo Nho - Phật - Đạo; thứ hai, theo quan điểm của Propp về chức năng của các motif trong truyện cổ tích sở dĩ có điểm giống nhau “không phải ở chỗ di chuyển - tiếp nhận mà là do có những nguyên tắc chung trong cách sáng tác văn học dân gian, cụ thể ở đây là mối quan hệ giữa truyện cổ tích với hiện thực đời sống và trong sự thống nhất với cội nguồn lịch sử của chúng” [3, tr. 75]. Đồng thời hai đơn vị motif và chức năng có 73 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 38 (06-2019) mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tức là một cốt truyện có thể kết hợp nhiều motif và một motif đều có thể di chuyển trong nhiều cốt truyện khác nhau. Cứ như vậy, sự di chuyển của các motif trong cùng một kiểu truyện dẫn đến sự tương đồng nhau của cùng một cốt truyện. Tuy nhiên, các motif có thể khác nhau là do đặc trưng văn hóa riêng của mỗi quốc gia. 3. Kết luận Qua việc so sánh các motif chính trong truyện cổ tích Hai cô gái và cục bướu (Việt Nam) và Ông già và cục bướu (Hàn Quốc) chúng tôi đã phần nào chỉ ra được những đặc điểm tương đồng trong cả hai cốt truyện trên nhiều phương diện. Bên cạnh đó, lí thuyết cấu trúc - chức năng vận dụng vào bài nghiên cứu đã phần nào khái quát được vì sao trong nhiều bản kể khác nhau của kho tàng truyện cổ tích thế giới chúng ta vẫn hay bắt gặp những cốt truyện giống nhau. Và vì sao tính quốc tế lại trở thành một đặc trưng riêng biệt cho thể loại cổ tích. Tìm hiểu và đối sánh kho tàng truyện cổ nước ta với kho tàng truyện cổ các nước Đông Á, đó là một vấn đề thú vị đang ngày càng được mở rộng, góp phần thể hiện tinh thần giao lưu văn hóa Đông Á và mang lại những đóng góp thiết thực không những cho lĩnh vực văn học mà còn cho cả tinh thần hợp tác quốc tế của từng quốc gia./. Tài liệu tham khảo [1]. Nguyễn Đổng Chi (2015), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Tập I, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. [2]. Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian - Mấy vấn đề phương pháp luận và nghiên cứu thể loại, NXB Giáo Dục, Hà Nội . [3]. La Mai Thi Gia (2016), Motif trong truyện kể dân gian: Lí thuyết và ứng dụng, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. [4]. Nguyễn Bích Hà (2010), Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội. [5]. Phan Thị Thu Hiền (2017), Giáo trình văn học Hàn Quốc, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. [6]. Phan Thị Thu Hiền (2017), Dạo bước vườn văn Hàn Quốc, NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh. [7]. Quang Hùng (2007), Từ điển Tiếng Việt, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội. [8]. Đặng Văn Lung (chủ biên) (1998), Truyện cổ Hàn Quốc, NXB Văn hóa dân tộc. [9]. V. IA. Propp (2003). Tuyển tập V.IA.Propp (Nhiều tác giả dịch), Tập I, NXB Văn hóa dân tộc - Tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật, Hà Nội. [10]. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo Dục, Hà Nội. [11]. Nguyễn Trường Tân (2011), Tìm hiểu văn hóa Hàn Quốc, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. THE MOTIF IN VIETNAM FAIRYTALE “TWO GIRLS AND LUMP” AND “OLD MAN AND A LUMP” OF KOREA: A COMPARATIVE ANALYSIS Summary Korean fairytale treasure has many similar stories to those of Vietnam. Is it due to the universal characteristic of the fairy genre? To address this question, basing on Propp's structure-function theory, we chose to compare the position of the main motifs in two specifi c stories of “Two girls and tumors” in Vietnam and “Old man and tumors” in Korea. These two stories are chosen because they are both about the type of the devil’s gift - an interesting story type, which provokes enormous research. We aimed to discover the similaries and differences of motifs inherent in fairy tales from the two countries; thereby coming to general conclusions in using fairytale theory to study specifi c subjects. Keywords: Motifs, fairytale, “Two girls and a lump”; “Old Man and a lump”. Ngày nhận bài:18/4/2019; Ngày nhận lại: 03/6/2019; Ngày duyệt đăng: 20/6/2019.
File đính kèm:
- motif_trong_truyen_co_tich_hai_co_gai_va_cuc_buou_cua_viet_n.pdf