Motif nhân quả báo ứng trong văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại từ góc nhìn Phật Giáo

Trong bối cảnh khủng hoảng môi trường hiện nay, việc quay trở lại quan niệm

“kính úy sinh mệnh” của Phật giáo là một cách thay đổi hành vi cứu nguy môi

trường. Phật giáo với giáo lý nhân quả - báo ứng là một phương pháp giáo dục

luân lý đạo đức thiết thực, thực tiễn. Sự tương hợp nội tại giữa giáo lý Phật giáo

với văn xuôi sinh thái đương đại đã tìm về những giải pháp cụ thể về mặt tâm

hồn, tình cảm cho việc sống dung hòa sinh thái và bảo vệ vạn vật. Trong bài viết

này, từ những gợi dẫn của giáo lý nhân quả báo ứng trong giáo lý Phật giáo,

chúng tôi phân tích motif cốt truyện trừng phạt và motif cốt truyện quả báo trong

văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại.

Motif nhân quả báo ứng trong văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại từ góc nhìn Phật Giáo trang 1

Trang 1

Motif nhân quả báo ứng trong văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại từ góc nhìn Phật Giáo trang 2

Trang 2

Motif nhân quả báo ứng trong văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại từ góc nhìn Phật Giáo trang 3

Trang 3

Motif nhân quả báo ứng trong văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại từ góc nhìn Phật Giáo trang 4

Trang 4

Motif nhân quả báo ứng trong văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại từ góc nhìn Phật Giáo trang 5

Trang 5

Motif nhân quả báo ứng trong văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại từ góc nhìn Phật Giáo trang 6

Trang 6

Motif nhân quả báo ứng trong văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại từ góc nhìn Phật Giáo trang 7

Trang 7

Motif nhân quả báo ứng trong văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại từ góc nhìn Phật Giáo trang 8

Trang 8

Motif nhân quả báo ứng trong văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại từ góc nhìn Phật Giáo trang 9

Trang 9

Motif nhân quả báo ứng trong văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại từ góc nhìn Phật Giáo trang 10

Trang 10

pdf 10 trang minhkhanh 6720
Bạn đang xem tài liệu "Motif nhân quả báo ứng trong văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại từ góc nhìn Phật Giáo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Motif nhân quả báo ứng trong văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại từ góc nhìn Phật Giáo

Motif nhân quả báo ứng trong văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại từ góc nhìn Phật Giáo
33 
CHUYÊN MỤC 
VĂN HỌC - NGÔN NGỮ HỌC 
MOTIF NHÂN QUẢ BÁO ỨNG TRONG VĂN XUÔI 
SINH THÁI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI 
TỪ GÓC NHÌN PHẬT GIÁO 
TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT* 
 TRẦN LÊ HỒNG PHÚC** 
Trong bối cảnh khủng hoảng môi trường hiện nay, việc quay trở lại quan niệm 
“kính úy sinh mệnh” của Phật giáo là một cách thay đổi hành vi cứu nguy môi 
trường. Phật giáo với giáo lý nhân quả - báo ứng là một phương pháp giáo dục 
luân lý đạo đức thiết thực, thực tiễn. Sự tương hợp nội tại giữa giáo lý Phật giáo 
với văn xuôi sinh thái đương đại đã tìm về những giải pháp cụ thể về mặt tâm 
hồn, tình cảm cho việc sống dung hòa sinh thái và bảo vệ vạn vật. Trong bài viết 
này, từ những gợi dẫn của giáo lý nhân quả báo ứng trong giáo lý Phật giáo, 
chúng tôi phân tích motif cốt truyện trừng phạt và motif cốt truyện quả báo trong 
văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại. 
Từ khóa: chủ nghĩa nhân văn sinh thái, văn xuôi sinh thái đương đại, khủng hoảng 
sinh thái, Phật giáo 
Nhận bài ngày: 5/3/2020; đưa vào biên tập: 25/12/2020; phản biện: 4/1/2021; duyệt 
đăng: 7/3/2021 
1. DẪN NHẬP 
Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ con người 
phải đối mặt với nhiều nguy cơ sinh 
thái nhất. Vấn đề khủng hoảng môi 
trường không phải vấn đề của mỗi 
quốc gia dân tộc nữa mà là vấn đề 
của toàn nhân loại. Theo Cheryll 
Glotfelty (1996), vấn đề môi trường 
được các sử gia, các nhà tâm lý học, 
các triết gia và các nhà hoạt động tôn 
giáo đặt ra từ những năm 1970. Các 
tôn giáo phương Đông được coi hệ 
thống tôn giáo chứa đầy các t n điều 
sáng suốt về t nhi n v thế giới tinh 
thần Glotfelty, 1996); và việc tìm về 
với các tư tưởng, tôn giáo, triết học 
phương Đông có thể tìm ra phương 
*
,
 **
 Trường Đại học Duy Tân. 
TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT
- TRẦN LÊ HỒNG PHÚC – MOTIF NHÂN QUẢ BÁO ỨNG 
34 
pháp giải quyết nguy cơ sinh thái 
(Trần Hải Yến, 2014). Nguyễn Thị 
Tịnh Thy 2017) cũng cho rằng thần 
học sinh thái là một tư tưởng quan 
trọng của lý thuyết sinh thái. Trong đó, 
Phật giáo với tư tưởng vạn vật bình 
đẳng , coi con người hay giới vô tình 
đều có Phật t nh đã tạo nên một nền 
tảng tư tưởng vững chắc cho việc tái 
thiết sinh thái. 
Các tu sĩ Phật giáo cho rằng nguồn 
gốc của khủng hoảng sinh thái là do 
 con người rất tham am, u m , độc 
ác Th ch Tr Si u, 2008: 3); con 
người cho rằng mình có trí tuệ nên có 
thể điều khiển trái đất theo ý muốn, 
nhưng th c tế, con người chỉ là một 
phần bé nhỏ trong hệ sinh thái, nếu 
không tỉnh thức để điều khiển hành vi, 
nền văn minh của o i người sẽ là 
 nền văn minh không thể chế ng . 
Trong thời đại khủng hoảng môi 
trường, cùng với các tư tưởng sinh 
thái phương Tây hiện đại giáo lý Phật 
giáo được tập hợp trong Đạo Phật và 
môi trường (Nhiều tác giả, 2010) cho 
thấy tư tưởng Phật giáo đương đại 
cảnh tỉnh về tình trạng trái đất đang 
 âm nguy Cuộc đối thoại giữa 
Daisaku Ikeda và Aurelio Peccei rung 
lên hồi chuông cảnh tỉnh cho thế kỷ 
XXI (Ikeda v Peccei, 1993), cảnh 
tỉnh để lo tu tập và cứu nguy môi 
trường Th ch Tr Si u, 2008), để cầu 
về mối tương duy n tương sinh của 
muôn o i tr n trái đất của Thích Nhất 
Hạnh (Thích Nhất Hạnh, 2014). Văn 
học sinh thái nổi lên khi vấn đề biến 
đổi khí hậu, s xuống cấp về môi 
trường ảnh hưởng đến toàn bộ s 
sống trên trái đất. Văn học sinh thái 
(Ecoliterature) (hay còn gọi Văn học 
sinh thái học (Ecological Literature), 
Văn học môi trường (Environmental 
Literature), Văn học xanh (Green 
Literature), Lối viết t nhiên (Nature 
Writing)) chú trọng đến trách nhiệm 
của con người đối với môi sinh, kêu 
gọi bảo vệ vạn vật và duy trì cân bằng 
sinh thái. Trong văn xuôi sinh thái Việt 
Nam đương đại, có nhiều cây bút 
sáng tác mang đặc trưng của triết lý 
sinh thái theo tư tưởng nhân quả báo 
ứng của Phật giáo: Nguyễn Huy Thiệp, 
Nguyễn Trí, Hoa Ngõ Hạnh, Triệu 
Hoàng Giang, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn 
Bình Phương, Đ o Thắng, Sương 
Nguyệt Minh Qua đó, chúng tôi 
nhận thấy rằng: s gặp gỡ của các 
nh văn sinh thái với tư tưởng nhân 
quả báo ứng của Phật giáo cho thấy 
từ xưa đến nay vẫn có một nguồn 
mạch thông suốt trong chiều sâu 
mạch cảm về những cảnh tỉnh để cất 
lên tiếng nói mạnh mẽ cứu nguy môi 
trường, qua đó cảnh tỉnh nghiêm khắc 
về s oan oan tương báo t n khốc khi 
con người sát hại các o i động vật. 
Tư tưởng nhân quả báo ứng của Phật 
giáo vốn thể hiện qua h nh vi cư xử, 
qua l a chọn cách sống thiện lành ở 
người Việt xưa. Người xưa ý thức 
được rằng gieo trồng nhân lành thì sẽ 
nhận được quả lành, nếu gây tạo 
những nghiệp nhân ác thì sẽ chịu 
những nghiệp quả khổ đau v bất 
hạnh. Trong Phật giáo, nhân quả 
thường được phân loại theo thời gian 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (271) 2021 
35 
với ba loại: hiện báo (nghiệp nhân 
trong đời n y đưa đến quả báo ngay 
trong đời này), sanh báo (tạo nhân ở 
đời n y nhưng đến đời sau mới nhận 
quả), hậu báo (tạo nhân trong đời này 
nhưng đến nhiều đời sau mới thọ quả 
báo) (dẫn lại theo Trí Quang: 57). 
D a vào diễn trình thời gian và s thọ 
báo của nhân quả trong quá trình 
hành tác, chúng tôi chia nhân quả báo 
ứng trong văn xuôi Việt Nam đương 
đại thành motif trừng phạt và motif 
báo ứng. Nếu ở motif trừng phạt chỉ 
một mình đối tượng làm ác lãnh hậu 
quả, thì ở motif báo ứng có thể không 
tác động tr c tiếp n người có hành 
động ác (không tr c tiếp nhận quả 
báo), mà có thể tác động tới người 
thân trong gia đình, b con họ hàng, 
để rồi họ nhận ra chân lý nhân sinh từ 
việc làm tội lỗi của mình và sống suốt 
đời trong nỗi dằn vặt, đau đớn khôn 
nguôi (sanh báo, hậu báo). 
Nếu hiểu Môt p các đơn vị cố định 
thể hiện một nội dung n o đó được sử 
dụng nhiều lần là một hiện tượng phổ 
biến không chỉ trong văn học dân gian 
mà cả trong văn học viết Trần Đình 
Sử, 1981: 134) thì có thể phân motif 
thành bốn loại tiêu biểu: motif hình 
ảnh, motif chủ đề, motif nhân vật, 
motif cốt truyện. Ở đây, chúng tôi chỉ 
đi sâu tìm hiểu motif cốt truyện. Motif 
cốt truyện là kiểu mo ... ề để bảo vệ tổ và ong 
chúa. Nếu vậy thì Bảy Bền đủ thời 
gian để tuột xuống và chạy. Nhưng 
không hiểu sao bầy ong ào vào Bảy 
và tấn công . Bảy Bền chết trên cây, 
không một ai dám leo lên, hoặc xâm 
nhập hiện trường để xem tình hình, 
chỉ có Minh T n đã can đảm leo lên và 
đem xác ạnh cóng của Bảy Bền 
xuống. Thật khủng khiếp. Một người 
chết đang ơ ửng tr n không . Âu đó 
cũng cái quả mà gã phải gánh chịu 
vì những h nh động tàn ác của mình. 
Bằng trải nghiệm cá nhân, các nhà 
văn đã khắc họa những cái chết thảm 
khốc, ăn của rừng, rưng rưng nước 
mắt . 
Tác giả Hoa Ngõ Hạnh lại gắn ngòi 
bút của mình với thế giới t nhiên 
hoang dã miền Trung. Các tác phẩm 
Mưa đỉnh núi xa, Con gấu già trong 
TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT
- TRẦN LÊ HỒNG PHÚC – MOTIF NHÂN QUẢ BÁO ỨNG 
38 
thung lũng trại Xai, Linh hồn ong 
chúa thể hiện motif trừng phạt rõ 
ràng. Hai anh em Xuân và Thu trong 
Mưa đỉnh núi xa (2007) vô tình bị cuốn 
theo chuyến đi săn voi của lão Sáu 
Chước và rồi hứng chịu quả báo, 
bằng chính mạng sống của chính 
mình. Vi n đạn nhắm v o đ n voi ại 
nhầm v o Thu. Tr n nền đất nhớp 
nháp Thu đang co mình ôm đùi vật vã. 
Vi n đạn lạc phá một mảng lớn gần 
b ng quang. Máu ra như suối 
khiêng về trại, đến gần sáng thì tắt 
thở. Khuôn mặt Thu nhăn rúm v 
thảm hại Hoa Ngõ Hạnh, 2007). Có 
một số nhân vật thợ săn may mắn 
không chết nhưng thương tật đến suốt 
đời. Ông Bảy (Con gấu già trong 
thung lũng trại Xai, 2008), vì nóng 
lòng trả thù con gấu gi đã giết chết 
con trâu, n n đã nh o n định kết 
liễu con gấu (khi nó sập bẫy) thì bất 
ngờ bị nó tấn công. Cú tát c c mạnh 
của con gấu ng a già móc vào mắt 
phải, bứt toạt lỗ tai, xé rách một mảng 
da mặt bên phải ông Bảy. Ông nằm co 
tr n đám á n ng n ng dập nát máu 
chảy ròng ròng, nửa mặt còn lại xanh 
hơn t u á chuối . Dường như đó chỉ 
 h nh động cảnh cáo. Không có 
động cơ trả thù. Con gấu già hiên 
ngang phóng vụt đi . Thi n nhi n vốn 
bao dung và khoan hòa. Sức mạnh 
của loài vật nằm ở chỗ biết đủ, biết 
d a vào nhau mà sống như o i ong 
chăm chỉ hút mật, con gấu ng a ăn 
ong và bảo vệ ong chúa, nó không 
bao giờ ăn ấu chúa. Cái tát trừng 
phạt của con gấu gi như một lời 
nhắc nhở. 
Các câu chuyện tuy khác nhau về bối 
cảnh, nhân vật, tình huống, nhưng 
đều giao nhau ở một điểm chung đó 
là motif trừng phạt. Gieo nhân nào thì 
sẽ gặt quả nấy, không sớm thì muộn 
và với các cách thức khác nhau. Mỗi 
cái kết thúc đều có điểm nhấn riêng, 
ấn tượng ri ng nhưng đều để lại bài 
học cho người đọc suy ngẫm về thế 
giới của s công bằng, của lẽ phải, 
 m ác phải đền tội . 
3. MOTIF CỐT TRUYỆN QUẢ BÁO 
Cũng như motif trừng phạt, motif quả 
báo cũng xuất hiện rất nhiều trong văn 
xuôi sinh thái Việt Nam. Tuy cũng có 
nét tương đồng với nhau, song nếu 
nói motif trừng phạt là một dòng thác 
ào ạt đổ xuống thì quả báo lại như 
nước khe róc rách, âm ỉ chảy và rồi 
xói mòn đá úc n o không hay. Ở 
motif trừng phạt, số phận người làm 
ác tr c tiếp bị trừng trị thì motif quả 
báo giúp nhận thức rằng dù sớm hay 
muộn, dù tr c tiếp hay gián tiếp người 
làm ác chắc chắn phải chịu tội. Nhân 
vật hắn trong Sâm cầm Hồ Tây 
 Sương Nguyệt Minh, 2005) là một 
minh chứng. Vì món lợi từ việc săn 
sâm cầm cho lão chủ quán tai chuột, 
hắn bỏ ra không biết bao nhiêu công 
sức, thủ đoạn, và bỏ ngoài tai lời 
khuyên: Cha nhìn thấy cảnh đánh 
bắt Sâm cầm, cha đau òng ắm . Con 
của hắn - thằng Cò thọt , đã bảy 
tuổi rồi mà thằng Cò vẫn không nói 
được, bước đi thập thễnh Sương 
Nguyệt Minh, 2005: 142). Ấy vậy, mà 
hắn vẫn không nhận ra quả báo. Sâm 
cầm quý nhất ở đôi chân m u ục 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (271) 2021 
39 
ánh chì . Ch nh vì thế m sâm cầm 
Hồ Tây c ng thưa dần. Sâm cầm 
càng hiếm lại c ng đắt v dĩ nhi n săn 
bắt cũng khó hơn . V những cuộc 
săn bắt với hắn không còn thư giãn, 
là thú vui nữa mà là kiếm tiền 
 Sương Nguyệt Minh, 2005: 143). Một 
hôm, mải m theo đuổi sâm cầm, hắn 
lạc vào trận đồ bát quái của sướng 
giăng: thuyền đầy nước, bị mất mái 
chèo, không thấy thằng Cò, cũng 
chẳng thấy khẩu súng săn đâu . Kể từ 
đó, sâm cầm, chim chóc chẳng về, 
 quán ão tai chuột đóng cửa im ỉm. 
Mặt hồ vắng, chỉ thấy gió hoang đuổi 
nhau trên mặt nước. Vợ hắn lặng câm 
đi ra đi v o như cái bóng. Cứ chiều 
chiều, người ta lại thấy hắn đứng lặng 
nhìn ra mặt hồ Sương Nguyệt Minh, 
2005: 145), gương mặt hằn sâu nỗi 
đau, nỗi day dứt, ân hận. Đó quả 
báo. 
Ở motif n y, người đọc cảm nhận 
h m ý đời cha ăn mặn, đời con khát 
nước của tác giả. 
Những h nh động sát hại muôn loài 
dẫn đến quả báo lên thế hệ sau xuất 
hiện d y đặc hơn trong các sáng tác. 
Trong Nghiệp rừng (Triệu Hoàng 
Giang, 2016), B n Văn Dần là nhân 
vật săn bắn thú thiện nghệ, nhiều kinh 
nghiệm với nghiệp đi săn thú nhưng 
người vợ hay mơ gặp nhiều ác mộng, 
mơ thấy hổ, thấy những con thú về 
đuổi nó . Còn thằng Phin buổi sáng lại 
 n cơn, nó chạy khắp các bờ ruộng 
tìm nơi ẩn nấp. Trong đầu nó đâu đâu 
cũng thấy những con lợn rừng, hươu, 
gấu... đuổi theo tìm nó, cắn xé rồi 
những tiếng k u văng vẳng trong đầu 
nó mỗi lúc một lớn hơn. Nó bịt tai 
chạy khắp các thửa ruộng, lâu lâu lại 
nấp vào bụi rồi lại chạy (Triệu Hoàng 
Giang 2016: 10). Bản thân B n Văn 
Dần cũng nghe những thứ âm thanh 
như tiếng khóc thút thít, không phải 
tiếng người tr n đỉnh Khâu Săm. Bỏ 
ngoài tai lời khuy n n n dừng lại thôi , 
và một ng y không xa, gã đi săn đã 
bắn nhầm vào anh Sinh – anh trai – 
với vết bắn giữa trán không lệch một 
phân . Bị xét xử với tội danh vô ý 
giết người, B n Văn Dần đi tù. Một gia 
đình thợ săn tan nát, khổ đau. Hay 
như cha của Tuệ anormal trong Tre 
nở hoa (Quế Hương, 2004) vì bắt chó, 
giết chó hàng chục năm trời để kiếm 
sống, cuối cùng lại hóa chó Sáng ấy 
không nghe ông quát tháo. Nhìn qua 
giường ông, tôi thấy ông ngồi chồm 
hổm, giơ chân gãi kịch liệt rồi thè ưỡi 
liếm người... Ông như bị chó nhập, 
mỗi ngày thêm giống chúng từ điệu bộ 
đến dáng vẻ. Sáng nay, ông dậy, làm 
động tác rùng rùng lắc lắc như rũ ông 
rồi đi ra vườn. Tôi đi theo ông, thấy 
ông ghếch chân n cây cau đái rồi 
vục mặt xuống thau nước cạnh đó 
uống v đi ra cổng... Tôi kêu toáng lên. 
Cả nh đổ ra, chứng kiến cha tôi băng 
qua đường ở vạch trắng hẳn hoi 
nhưng bằng bốn chân, ưỡi thè ra... 
(Quế Hương, 2004: 340). Đó quả 
báo hiện tiền cho những ai nhẫn tâm 
đối với loài vật, kể cả những con vật 
được thuần chủng trong nhà, bởi vốn 
dĩ nó không chỉ là vật nuôi mà còn là 
người bạn của con người. 
TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT
- TRẦN LÊ HỒNG PHÚC – MOTIF NHÂN QUẢ BÁO ỨNG 
40 
Giết hại tàn ác muôn loài chính là s 
bức tử cho gia đình mình. K nh sợ uy 
linh của rừng nếu không sẽ bị quả báo 
cũng ch nh thông điệp trong tác 
phẩm Sói trả thù (Nguyễn Huy Thiệp, 
1995). Nếu ông Nhân đã từng dồn ũ 
sói v o bước đường cùng, khiến gia 
đình sói bị chết, bị chia phân tứ tán, 
ông cố thuần hóa một sói con và một 
ngày thằng San tròn mười ba tuổi, vì 
bất cẩn mà bị con sói nuôi cắn chết. 
 Con chó sói như đi n dại không 
buông tha thằng bé (). Người ta vất 
vả lắm mới kéo được con sói ra 
(Nguyễn Huy Thiệp, 1995: 29). Ông 
Nhân bừng tỉnh quyết định chặt đứt 
dây xích trả con sói về lại rừng. Ông 
nhận ra quả báo và trân quý sinh 
mệnh muôn o i, hãy biết sợ rừng . 
Trong Con thú lớn nhất (Nguyễn Huy 
Thiệp, 1995) Lão thợ săn như hiện 
thân thần Chết của rừng (Nguyễn 
Huy Thiệp, 1995: 12). Lão không tha 
bất cứ con vật nào trong tầm súng của 
mình . Đằng sau nhà lão, lông chim, 
xương thú chất đầy th nh đống. 
Những đống ông chim xơ xác đen xỉn 
như m u m c tàu, còn những đống 
xương thú m u đá vôi thì ốm đốm 
những vệt nước tủy vàng khè, hôi 
hám. Những đống ấy to như những 
cái mả (Nguyễn Huy Thiệp, 1995: 12). 
Một ng y Lão gi giương súng n: 
‘Đùng!’ Phát súng nổ. Lão nghe thấy 
tiếng rú thất thanh. Lão chạy lại con 
thú bị bắn ngã. Đấy là vợ lão. Mụ đi ra 
rừng đợi lão, tay mụ còn cầm bộ lông 
chim công Nguyễn Huy Thiệp, 1995: 
14). S báo ứng cho tham vọng lớn 
của lão chính là mạng sống của người 
thân. Song, cái chết của vợ chỉ làm 
lão tức thời hốt hoảng, ão dùng xác 
vợ mình làm mồi nhử để tiếp tục săn 
thú, lão nằm trong bụi cây gần cái 
xác thối rữa của vợ lão một sải tay, 
đạn lên nòng, khắc khoải chờ đợi 
(Nguyễn Huy Thiệp, 1995: 14). Nhưng 
 Ba ng y sau, người ta lôi cái xác 
còng queo của lão ra khỏi bụi cây. Một 
vết đạn xuy n qua trán ão. Lão đã 
bắn được con thú lớn nhất đời mình 
(Nguyễn Huy Thiệp, 1995: 15). Lão 
quyết định chọn cách t sát. Con 
đường kết thúc một sinh mạng đầy tội 
lỗi nhưng ại khai mở cho một tâm hồn 
trút bỏ được vết nhơ, rửa sạch được 
bàn tay nhuộm máu. Trong motif đi 
săn khẩu súng biểu tượng cho 
văn minh công nghiệp, là sản phẩm trí 
óc của con người, đó cũng s 
khẳng định mức độ ưu việt hơn giữa 
con người với loài vật. Loài vật dưới 
sức ảnh hưởng của khẩu súng sẽ bị 
tàn sát thảm khốc hơn. Qua đó, ta 
thấy rằng thời đại phát triển, ý thức hệ 
của con người thay đổi, những sản 
phẩm của văn minh đã đẩy những 
sinh vật càng gần hơn với v c thẳm 
tuyệt chủng, nhất là những động vật 
hoang dã. Đây hồi chuông cảnh báo 
cho việc sử dụng sản phẩm tiên tiến 
không phải để bảo vệ môi trường mà 
phục vụ cho những mục đ ch cá nhân, 
không ch nh đáng. Trong những nền 
nền văn minh tiền công nghiệp, đi săn 
vốn h nh động kiếm thức ăn duy trì 
s sống. Ngày nay, khi nông nghiệp 
v chăn nuôi đã đảm bảo thức ăn cho 
 o i người thì đi săn trở thành một thú 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (271) 2021 
41 
vui t n sát họ kéo cá vào sát mạn tàu, 
đập chết nó, thả xác xuống nước và 
lại câu con khác, lại quăng ưỡi câu có 
móc con m c nhỏ làm mồi ra mãi xa... 
Cứ như vậy. Họ câu không phải để 
bắt cá ăn m để hưởng một thú vui 
t n sát Bùi Ngọc Tấn, 2010: 23). 
Trong Nơi hoang dã đồng vọng 
Sương Nguyệt Minh miêu tả chi tiết 
s tàn ác của chủ quán và cách thức 
ăn rùng rợn của th c khách: bốn 
th c khách cười hô hố. ộc. ộc. Rượu 
tràn ly. Bốn vị cầm bốn thìa con múc. 
Mỗi lần thìa thọc vào óc con mèo, 
chân nó lại co n Sương Nguyệt 
Minh, 2011: 55). Khi con người giết 
hại thi n địch của chuột, môi trường 
t nhiên sẽ bị chúng tàn phá, tiếp tay 
hủy hoại môi trường t nhiên sẽ phá 
hủy môi trường sống vì thế giới sinh 
vật là một dây chuyền sống c c kỳ 
tế nhị v người ta không thể phá hủy 
một mắt xích trong dây chuyền này 
mà không bị trừng phạt Jacques 
Vernier, 2002: 12). 
4. THAY LỜI KẾT 
Trong văn học Phật giáo, motif báo 
ứng được khai thác triệt để nhằm đề 
cao giáo lý nhân quả. Motif quả báo, 
trừng phạt còn thể hiện tinh thần vạn 
vật bình đẳng, bình đẳng không chỉ 
giữa con người với con người mà còn 
giữa con người với muôn o i. Để giải 
quyết khủng hoảng sinh thái hiện nay, 
mỗi người cần có trách nhiệm với môi 
trường từ ngay trong tâm thức mình. 
Văn học và tôn giáo gần nhau ở điểm 
tác động tr c tiếp vào tình cảm, tư 
tưởng, khiến mỗi người bừng tỉnh. 
Việc nghiên cứu motif cốt truyện trong 
cả văn xuôi sinh thái đương đại từ tư 
tưởng Phật giáo gợi mở s tương 
hợp nội tại của văn học và tôn giáo 
tr n con đường bảo vệ hệ sinh thái 
đang từng ngày bị tàn phá. Phật giáo 
với hệ thống tư tưởng nhân văn giáo 
dục con người từ bề sâu tâm linh có 
thể kết hợp cùng văn chương đương 
đại với các ngòi bút th c tiễn khiến 
người đọc có thêm chất liệu cần thiết, 
có th m động l c mạnh mẽ để trung 
hòa một triết lý sống thích hợp.  
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Bùi Ngọc Tấn. 2010. Tôi đi câu cá”, Văn mới 5 năm 2006-2010, Hà Nội: Nxb. Hội 
Nh văn. 
2. Glotfelty, Cheryll. 1996. Nghi n cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi 
trường , trong Tuyển tập Phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong sinh thái học 
văn học (The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology, University of Georgia 
Press), Trần Thị Ánh Nguyệt dịch. Tạp chí Sông Hương, số 305. 
3. Hoa Ngõ Hạnh (Nguyễn Minh Sơn). 2006. https://www.vanchuongviet.org/index.php? 
comp=tacgia&action=detail&id=1263, truy cập ngày 1/3/2021 
4. Ikeda, D. và Peccei, A. 1993. Tiếng chuông cảnh tỉnh cho thế kỷ XXI. Trương Ch nh, 
Đông H dịch. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
5. Lại Nguyên Ân. 2017. 150 thuật ngữ văn học. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia. 
TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT
- TRẦN LÊ HỒNG PHÚC – MOTIF NHÂN QUẢ BÁO ỨNG 
42 
6. Nguyễn Huy Thiệp. 1995. Truyện ngắn chọn lọc. Hà Nội: Nxb. Hội Nh văn. 
7. Nguyễn Thị Tịnh Thy. 2017. Rừng khô, suối cạn, biển độc... và văn chương. Hà Nội: 
Nxb. Khoa học Xã hội. 
8. Nguyễn Trí. 2013. Sinh nghề tử nghiệp. https://thanhnien.vn/van-hoa/sinh-nghe-tu-
nghiep-truyen-ngan-cua-nguyen-tri-717029.html, truy cập ngày 01/3/2021. 
9. Nhiều tác giả. 2010. Đạo Phật và môi trường. Thích Nhuận Đạt dịch. TPHCM: Nxb. 
Tổng hợp TPHCM. 
10. Pháp sư Tịnh Không (chọn lọc), Th ch Phước Sơn bi n soạn). 2000. Truyện cổ sự 
tích cứu vật phóng sinh. TPHCM: Nxb. Tổng hợp TPHCM. 
11. Quế Hương. 2004. 27 truyện ngắn Quế Hương. Hà Nội: Nxb. Phụ nữ. 
12. Sương Nguyệt Minh. 2005. Đi qua đồng chiều. Hà Nội: Nxb. Thanh niên. 
13. Sương Nguyệt Minh. 2011. Đêm thánh vô cùng. Hà Nội: Nxb. Hội Nh văn. 
14. Thích Nhất Hạnh. 2014. Tâm tình với đất mẹ. Hà Nội: Nxb. Hồng Đức. 
15. Thích Trí Siêu. 2008. Xin cứu độ mẹ đất. TPHCM: Nxb. Phương Đông. 
16. Trần Đình Sử. 1981. Dẫn luận thi pháp học. Hà Nội: Nxb. Đại học Sư phạm. 
17. Trần Hải Yến. 2014. Nghi n cứu phê bình sinh thái hiện đại và di sản văn hóa: nhìn 
từ cách Sinh thái học tìm về Tam giáo (Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo) , trong Hội thảo 
khoa học Phát triển văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế. Hà 
Nội. 
18. Triệu Hoàng Giang. 2016. Nghiệp rừng. Tạp chí Văn nghệ Ba Bể. số 3. 
19. Trí Quang (dịch). Kinh Thủy Sám. 
20. Vernier, J. 2002. Môi trường sinh thái. Trương Thị Chí, Trần Ch Đạo dịch. Hà Nội: 
Nxb. Thế giới. 
21. Vi n Đường Hân, Tạ Ch Cường. 2014. Truyện kể Phật giáo. Hà Nội: Nxb. Thời đại. 

File đính kèm:

  • pdfmotif_nhan_qua_bao_ung_trong_van_xuoi_sinh_thai_viet_nam_duo.pdf